CNM365. Chào ngày mới 20 tháng 12. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày An ninh quốc gia Liên bang Nga. Năm 1803 – Thương vụ Hoa Kỳ mua vùng đất Louisiana từ Pháp hoàn thành trong một buổi lễ tại New Orleans. Năm 1960 – Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trong vùng căn cứ của mình ở Tây Ninh. Năm 1987 – Phà chở khách MV Doña Paz (hình) bị đắm sau khi va chạm với một tàu chở dầu tại eo biển Tablas, Philippines, khiến khoảng 4.000 người thiệt mạng. Năm 1999 – Bồ Đào Nha chuyển giao Ma Cao cho Trung Quốc, Khu hành chính đặc biệt Ma Cao được thành lập.
Vùng đất mua Louisiana
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vùng đất mua Louisiana hay Cấu địa Louisiana (tiếng Anh: Louisiana Purchase; tiếng Pháp: Vente de la Louisiane) là vùng đất mà Hoa Kỳ mua, rộng 828.000 dặm vuông Anh (2.140.000 km²) thuộc lãnh thổ của Pháp ở Bắc Mỹ có tên gọi là "Louisiana" vào năm 1803. Giá tiền mua là 60 triệu franc (11.250.000 đô la Mỹ)
cộng việc hủy bỏ số nợ đáng giá 18 triệu franc (3.750.000 đô la Mỹ).
Tính luôn tiền lời, Hoa Kỳ phải trả tổng cộng lên đến 23.213.568 cho
lãnh thổ Louisiana.[1]
Vùng đất mua Louisiana bao gồm những phần đất của 15 tiểu bang hiện tại của Hoa Kỳ và hai tỉnh bang của Canada. Vùng đất mua này bao gồm tất cả các tiểu bang ngày nay là Arkansas, Missouri, Iowa, Oklahoma, Kansas, Nebraska, một phần của Minnesota nằm ở phía nam Sông Mississippi, phần lớn Bắc Dakota, gần toàn bộ Nam Dakota, đông bắc New Mexico, miền bắc Texas, một phần Montana, Wyoming, và vùng đất Colorado nằm bên phía đông Phân tuyến Lục điạ, và Louisiana ở hai bên bờ Sông Mississippi bao gồm thành phố New Orleans (Vùng cán chảo Oklahoma, và phần đất tây nam Kansas và Louisiana lúc đó vẫn còn bị Tây Ban Nha tuyên bố chủ quyền). Ngoài ra, vùng đất mua này gồm có những phần đất nhỏ mà dần dần sau đó trở thành một phần đất của các tỉnh bang Alberta và Saskatchewan của Canada. Vùng đất mua này chiếm khoảng 23% lãnh thổ của Hoa Kỳ ngày nay.[1]
Việc mua đất này là một khoảnh khắc quan trọng trong nhiệm kỳ tổng thống của Thomas Jefferson. Vào lúc đó, việc mua vùng đất này phải đối mặt với sự phản đối từ trong nước và bị coi là vi hiến. Mặc dù cảm nhận rằng Hiến pháp Hoa Kỳ không có điều khoản nào nói đến việc mua bán đất nhưng Jefferson đã quyết định mua Louisiana vì ông cảm thấy khó chịu trước sức mạnh của Pháp và Tây Ban Nha ngăn cản lối giao thương của người Mỹ đến Hải cảng New Orleans.
Ngay sau khi kết thúc thỏa thuận Napoleon Bonaparte đã phát biểu rằng "Sự thỏa thuận về lãnh thổ này sẽ mãi mãi khẳng định sức mạnh của Hoa Kỳ, và tôi đã cho Anh Quốc một đối thủ cạnh tranh về biển mà sớm muộn gì cũng sẽ làm cho họ (Anh Quốc) bớt tính kiêu ngạo của họ."[2]
James Monroe và Robert R. Livingston đến Paris để thượng lượng việc mua bán vào năm 1804. Mối quan tâm và chú ý của họ chỉ duy nhất là bến cảng và những vùng đất xung quanh đó. Họ đã không dự đoán đến việc chuyển giao một vùng lãnh thổ rộng đến như thế xảy ra sau đó.
Tổng thống Jefferson đã đặt nền móng cho việc mua bán này bằng việc phái Livingston đến Paris năm 1801 sau khi khám phá ra việc chuyển giao Louisiana từ Tây Ban Nha sang cho Pháp. Sứ mệnh của Livingston là phải theo đuổi việc mua lại thành phố New Orleans nhưng ông đã bị người Pháp cự tuyệt.
Năm 1802, Pierre Samuel du Pont de Nemours được tuyển mộ để giúp việc thương lượng. Du Pont vào lúc đó đang sống tại Hoa Kỳ và có quan hệ gần gũi với Jefferson cũng như các thế lực chính trị tại Pháp. Ông đã tiến hành ngoại giao bí mật với Napoleon trên danh nghĩa của Jefferson trong chuyến viếng thăm cá nhân của ông đến Pháp. Ông đã khởi sự cái ý tưởng mua vùng đất Louisiana rộng lớn hơn nhiều như một cách để giảm bớt sự xung đột tiềm ẩn giữa Hoa Kỳ và Napoleon tại Bắc Mỹ.[4]
Jefferson không thích ý tưởng mua Louisiana từ tay Pháp vì như vậy giống như có ý công nhận Pháp có quyền hạn tại Louisiana. Là một người bảo thủ, Jefferson cũng tin rằng một tổng thống Hoa Kỳ không có quyền tiến hành một cuộc thương lượng mua bán như thế vì điều đó không có ghi trong hiến pháp và ngoài ra nếu làm vậy sẽ làm giảm bới quyền của tiểu bang bằng cách gia tăng quyền lực của hành pháp liên bang. Mặc khác, ông nhận thức về mối đe dọa tiềm ẩn từ một quốc gia kề cận như Pháp đối với quốc gia non trẻ, và chuẩn bị tiến hành chiến tranh để ngăn cản sự hiện diện của nước Pháp hùng cường trong vùng. Trong lúc đó, Bộ trưởng Ngoại giao của Napoleon Charles Maurice de Talleyrand chống đối quyết liệt việc bán vùng đất Louisiana vì như vậy đồng nghĩa với việc kết thúc các chương trình bí mật của Pháp cho một đế quốc Bắc Mỹ.
Trong suốt thời kỳ này, Tổng thống Jefferson luôn nhận được tin tình báo cập nhật về những ý định và hoạt động quân sự của Pháp tại Bắc Mỹ. Một phần chiến lược biến hóa của ông là cho du Pont biết những thông tin mật mà Livingston cũng không được biết đến. Ông cũng cố tình cho những chỉ thị trái ngược nhau đến hai người. Bước kế tiếp ông phái Monroe đến Paris năm 1803. Monroe trước đây từng bị Pháp trục xuất trong sứ mệnh ngoại giao cuối cùng, và việc chọn lựa phái ông đi Paris lần nữa có ý nghĩa truyền đạt cho người Pháp thấy sự nghiêm chỉnh của cuộc thương lượng.
Napoléon đang đối mặt trước sự bại trận của quân đội ông tại Saint-Domingue (ngày nay là Cộng hòa Haiti) nơi một lực lượng viễn chinh dưới quyền của anh rể ông là Charles Leclerc đang cố tìm cách tái lập trật tự sau một cuộc nỗi loạn của người nô lệ. Cuộc nổi loạn này đang đe dọa thuộc địa sinh lợi nhiều nhất của nước Pháp.
Các cuộc xung đột chính trị tại Guadeloupe và tại Saint-Domingue phát triển song song với việc phục hồi chế độ nô lệ vào ngày 20 tháng 5 năm 1802, sự đào vong của các sĩ quan lãnh đạo của Pháp như tướng da đen Jean-Jacques Dessalines và sĩ quan da trắng lai da đen Alexandre Pétion vào tháng 10 năm 1802 cùng với khung cảnh của một cuộc chiến tranh du kích đang diễn ra. Người Pháp thành công trục xuất Toussaint L'Ouverture về Pháp tháng 6 năm 1802, nhưng bệnh sốt huyết vàng đã hủy hoại quân đội châu Âu và giết chết Leclerc vào tháng 11.
Thiếu lực lượng quân sự tại Bắc Mỹ, Napoleon cần hòa hoãn với Vương quốc Anh để thực thi Hiệp ước San Ildefonso và thâu tóm Louisiana. Ngược lại, Louisiana sẽ là một miếng mồi dễ nuốt cho người Anh hoặc thậm chí người Mỹ. Vương quốc Anh đã không giữ lời hứa của họ rời bỏ Malta vào tháng 9 năm 1802 như đã qui định trong Hiệp ước Amiens. Đầu năm 1803, chiến tranh giữa Pháp và Anh dường như càng ngày càng không thể tránh khỏi. Ngày 11 tháng 3 năm 1803, Napoleon quyết định xây dựng một hải đoàn gồm nhiều xà lan để xâm chiếm Anh Quốc.
Các tình thế như vậy đã khiến Bonaparte từ bỏ các kế hoạch xây dựng đế quốc Tân Thế giới của Pháp. Napoleon chỉ thị cho bộ trưởng ngân khố của ông là François de Barbé-Marbois vào ngày 10 tháng 4 năm 1803 rằng ông đang xem xét việc từ bỏ Lãnh thổ Louisiana lại cho Hoa Kỳ. Ngày 11 tháng 4 năm 1803, chỉ vài ngày trước khi Monroe đến, Hầu tước de Barbé-Marbois nói với Livingston rằng Pháp muốn bán cả Lãnh thổ Louisiana thay vì chỉ có Thành phố New Orleans. Tổng thống Jefferson đã chỉ thị Livingston mua chỉ mỗi Thành phố New Orleans. Tuy nhiên, ông tin chắc rằng Hoa Kỳ sẽ chấp nhận một cuộc giao dịch lớn như vậy.
Các nhà thương lượng Mỹ đã chuẩn bị chi 10 triệu đô la cho Thành phố New Orleans nhưng phải điếng người khi toàn bộ vùng Louisiana được ra giá là 15 triệu đô la. Hiệp ước được ghi là ngày 30 tháng 4 năm 1803 và được ký vào ngày 2 tháng 5. Ngày 14 tháng 7 năm 1803, hiệp ước đến Washington D.C. Lãnh thổ Louisiana rất rộng lớn, trải dài từ Vịnh Mexico ở miền nam đến Rupert's Land ở miền bắc, và từ Sông Mississippi ở miền đông đến Dãy núi Rocky ở miền tây. Việc mua lãnh thổ này đã làm tăng gấp đôi lãnh thổ của Hoa Kỳ với cái giá vào lúc đó là dưới 3 xu một mẫu Anh.
Hầu như tất cả vùng đất này đều có người bản thổ Mỹ sinh sống và từng phần đất lại được mua lại lần thứ hai từ tay người bản thổ Mỹ. Giá tiền thật sự được trả cho Vùng đất mua Louisiana vì thế cao hơn giá tiền đã trả cho Pháp. Tuy nhiên giữa người mua và người bán lại không có tham khảo ý kiến của bất cứ bộ lạc người bản thổ nào vì thế đa số người bản thổ Mỹ không hề biết là có chuyện mua bán vùng đất họ vẫn đang sinh sống.
Ngày 30 tháng 4 năm 1803, Hiệp ước về Vùng đất mua Louisiana được ký kết bởi Robert Livingston, James Monroe, và Barbé Marbois tại Paris. Jefferson thông báo hiệp ước này với nhân dân Mỹ vào ngày 4 tháng 7.
Sau khi ký kết thỏa thuận về việc mua bán này vào năm 1803, Livingston
đã phát biểu một câu nói nổi tiếng "Chúng ta đã sống lâu rồi nhưng đây
là một công việc cao quí nhất cả đời người của chúng ta...Hoa Kỳ ngày nay đứng hạng trong số các cường quốc đầu tiên của thế giới"[5]. Thượng viện Hoa Kỳ thông qua hiệp ước này trong một cuộc biểu quyết với kết quả 24-07 vào ngày 20 tháng 10.
Ngày hôm sau, thượng viện cho phép Tổng thống Jefferson nắm quyền sở
hữu lãnh thổ và thiết lập chính quyền quân sự lâm thời. Theo luật được
ban hành ngày 31 tháng 10,
Quốc hội lập ra các điều khoảng tạm thời cho chính quyền dân sự địa
phương tiếp tục như còn thời dưới quyền của Pháp và Tây Ban Nha và cho
phép Tổng thống dùng các lực lượng quân sự để duy trì trật tự. Các kế
hoạch đã được đưa ra cho một sứ mệnh thám hiểm và vẽ bản đồ lãnh thổ
này. Sứ mệnh sau đó được biết như là Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark.
Pháp trao New Orleans vào ngày 20 tháng 12 năm 1803 tại The Cabildo. Ngày 10 tháng 3 năm 1804, một buổi lễ chính thức được tiến hành tại St. Louis để chuyển sở hữu lãnh thổ từ Pháp sang cho Hoa Kỳ.
Có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10 năm 1804, lãnh thổ mua được này được tổ chức thành Lãnh thổ Orleans (phần lớn trở thành tiểu bang Louisiana) và Địa khu Louisiana tạm thời nằm dưới quyền của thống đốc và các thẩm phán của Lãnh thổ Indiana.
Nếu lãnh thổ này bao gồm tất cả các con sông nhánh của sông Mississippi bên bờ phía Tây thì giới hạn phía Bắc của vùng đất mới mua kéo dài vào trong phần đất đang sở hữu nhưng chưa được định rõ của người Anh - đó là vùng Rupert's Land của Bắc Mỹ thuộc Anh, hiện nay là một phần đất của Canada. Vùng đất mới mua này ban đầu trải dài tới vĩ tuyến 50 độ. Tuy nhiên, phần đất phía bắc vĩ tuyến 49 độ Bắc như Lưu vực Sông Red, Sông Milk (Montana-Alberta), và lưu vực Sông Poplar bị nhượng lại cho Vương quốc Anh theo Hiệp ước 1818.
Ranh giới phía đông của vùng đất mới mua Louisiana là sông Mississippi từ thượng nguồn của nó đến vĩ tuyến 31 mặc dù thượng nguồn của Sông Mississippi lúc đó chưa được biết đến. Ranh giới phía đông dưới vĩ tuyến 31 độ thì không rõ ràng. Hoa Kỳ tuyên bố chủ quyền vùng đất xa đến Sông Perdido, và Tây Ban Nha tuyên bố chủ quyền ranh giới của Thuộc địa Florida nằm trên Sông Mississippi. Đầu năm 1804, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Mobile nhìn nhận Tây Florida là một phần của Hoa Kỳ. Hiệp ước Adams-Onís năm 1819 giải quyết được vấn đề này. Ngày nay, vĩ tuyến 31 độ là ranh giới phía bắc của nữa phần phía tây của vùng Cán chảo Florida và Sông Perdido là ranh giới giữa Florida và Alabama.
Vùng đất mới mua này trải rộng về phía tây đến Dãy núi Rocky, đặc biệt là Phân tuyến Lục địa nhưng một phần duy nhất ở phía nam vẫn thuộc Tân Tây Ban Nha.
Ranh giới miền Nam của Vùng đất mua Louisiana (đối diện với Tân Tây Ban Nha) ban đầu không rõ ràng vào thời gian mua bán. Hiệp ước Trung lập năm 1806 tạo ra Tiểu quốc Tự do Sabine trong thời gian lâm thời và Hiệp ước Adams-Onís năm 1819 bắt đầu tiến hành phân ranh giới chính thức.
Tài liệu gốc việc mua bán vùng đất Louisiana được trưng bày tại đại sảnh chính của các văn phòng London của công ty Baring cho đến khi nó phá sản vào năm 1995.
Vùng đất mua Louisiana bao gồm những phần đất của 15 tiểu bang hiện tại của Hoa Kỳ và hai tỉnh bang của Canada. Vùng đất mua này bao gồm tất cả các tiểu bang ngày nay là Arkansas, Missouri, Iowa, Oklahoma, Kansas, Nebraska, một phần của Minnesota nằm ở phía nam Sông Mississippi, phần lớn Bắc Dakota, gần toàn bộ Nam Dakota, đông bắc New Mexico, miền bắc Texas, một phần Montana, Wyoming, và vùng đất Colorado nằm bên phía đông Phân tuyến Lục điạ, và Louisiana ở hai bên bờ Sông Mississippi bao gồm thành phố New Orleans (Vùng cán chảo Oklahoma, và phần đất tây nam Kansas và Louisiana lúc đó vẫn còn bị Tây Ban Nha tuyên bố chủ quyền). Ngoài ra, vùng đất mua này gồm có những phần đất nhỏ mà dần dần sau đó trở thành một phần đất của các tỉnh bang Alberta và Saskatchewan của Canada. Vùng đất mua này chiếm khoảng 23% lãnh thổ của Hoa Kỳ ngày nay.[1]
Việc mua đất này là một khoảnh khắc quan trọng trong nhiệm kỳ tổng thống của Thomas Jefferson. Vào lúc đó, việc mua vùng đất này phải đối mặt với sự phản đối từ trong nước và bị coi là vi hiến. Mặc dù cảm nhận rằng Hiến pháp Hoa Kỳ không có điều khoản nào nói đến việc mua bán đất nhưng Jefferson đã quyết định mua Louisiana vì ông cảm thấy khó chịu trước sức mạnh của Pháp và Tây Ban Nha ngăn cản lối giao thương của người Mỹ đến Hải cảng New Orleans.
Ngay sau khi kết thúc thỏa thuận Napoleon Bonaparte đã phát biểu rằng "Sự thỏa thuận về lãnh thổ này sẽ mãi mãi khẳng định sức mạnh của Hoa Kỳ, và tôi đã cho Anh Quốc một đối thủ cạnh tranh về biển mà sớm muộn gì cũng sẽ làm cho họ (Anh Quốc) bớt tính kiêu ngạo của họ."[2]
Mục lục
Bối cảnh
Thành phố New Orleans kiểm soát Sông Mississippi ngay tại vị trí của nó; các nơi khác đã được dùng làm cảng thử nghiệm nhưng không thành công. New Orleans đã là một cảng quan trọng để chuyên chở nông sản đến và đi từ khắp các phần đất Hoa Kỳ nằm ở phía tây Dãy núi Appalachian. Qua Hiệp ước Pinckney ký với Tây Ban Nha vào ngày 27 tháng 10 năm 1795, các nhà buôn người Mỹ có "quyền tồn trử" tại New Orleans. Điều này có nghĩa là họ có thể dùng cảng này để chứa hàng hóa xuất khẩu. Người Mỹ cũng dùng quyền này để chuyên chở các sản phẩm như bột mì, thuốc lá, thịt heo, thịt bacon, mở heo, lông chim, rượu táo, bơ, và phó mát. Hiệp ước cũng công nhận quyền của người Mỹ đi lại trên toàn dòng Sông Mississippi mà vào lúc đó đã trở nên càng quan trọng trong việc giao thương đang phát triển của các lãnh thổ phía tây của Hoa Kỳ.[3] Năm 1798 Tây Ban Nha bải bỏ hiệp ước này khiến người Mỹ rất bất bình. Năm 1801, Thống đốc Tây Ban Nha Don Juan Manuel De Salcedo lên làm Thống đốc Hầu tước Casa Calvo, và quyền tổn trử hàng hóa của Hoa Kỳ được tái phục hồi hoàn toàn. Napoleon Bonaparte đã mang Louisiana trở về sự kiểm soát của người Pháp từ tay người Tây Ban Nha năm 1800 dưới Hiệp ước San Ildefonso (Louisiana đã là thuộc địa của Tây Ban Nha từ năm 1762). Tuy nhiên, hiệp ước được giữ bí mật và Louisiana vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Tây Ban Nha cho đến khi chuyển giao quyền lực về tay Pháp. Việc chuyển giao sau cùng xảy ra vào ngày 30 tháng 11 năm 1803, chỉ ba tuần trước khi nhượng lại cho Hoa Kỳ.James Monroe và Robert R. Livingston đến Paris để thượng lượng việc mua bán vào năm 1804. Mối quan tâm và chú ý của họ chỉ duy nhất là bến cảng và những vùng đất xung quanh đó. Họ đã không dự đoán đến việc chuyển giao một vùng lãnh thổ rộng đến như thế xảy ra sau đó.
Các cuộc thương lượng

Viễn cảnh về "Louisiana" của một nhà vẽ bản đồ đương thời. Vùng đất này có rìa phía Tây chạm Dãy núi Rocky.
Năm 1802, Pierre Samuel du Pont de Nemours được tuyển mộ để giúp việc thương lượng. Du Pont vào lúc đó đang sống tại Hoa Kỳ và có quan hệ gần gũi với Jefferson cũng như các thế lực chính trị tại Pháp. Ông đã tiến hành ngoại giao bí mật với Napoleon trên danh nghĩa của Jefferson trong chuyến viếng thăm cá nhân của ông đến Pháp. Ông đã khởi sự cái ý tưởng mua vùng đất Louisiana rộng lớn hơn nhiều như một cách để giảm bớt sự xung đột tiềm ẩn giữa Hoa Kỳ và Napoleon tại Bắc Mỹ.[4]
Jefferson không thích ý tưởng mua Louisiana từ tay Pháp vì như vậy giống như có ý công nhận Pháp có quyền hạn tại Louisiana. Là một người bảo thủ, Jefferson cũng tin rằng một tổng thống Hoa Kỳ không có quyền tiến hành một cuộc thương lượng mua bán như thế vì điều đó không có ghi trong hiến pháp và ngoài ra nếu làm vậy sẽ làm giảm bới quyền của tiểu bang bằng cách gia tăng quyền lực của hành pháp liên bang. Mặc khác, ông nhận thức về mối đe dọa tiềm ẩn từ một quốc gia kề cận như Pháp đối với quốc gia non trẻ, và chuẩn bị tiến hành chiến tranh để ngăn cản sự hiện diện của nước Pháp hùng cường trong vùng. Trong lúc đó, Bộ trưởng Ngoại giao của Napoleon Charles Maurice de Talleyrand chống đối quyết liệt việc bán vùng đất Louisiana vì như vậy đồng nghĩa với việc kết thúc các chương trình bí mật của Pháp cho một đế quốc Bắc Mỹ.
Trong suốt thời kỳ này, Tổng thống Jefferson luôn nhận được tin tình báo cập nhật về những ý định và hoạt động quân sự của Pháp tại Bắc Mỹ. Một phần chiến lược biến hóa của ông là cho du Pont biết những thông tin mật mà Livingston cũng không được biết đến. Ông cũng cố tình cho những chỉ thị trái ngược nhau đến hai người. Bước kế tiếp ông phái Monroe đến Paris năm 1803. Monroe trước đây từng bị Pháp trục xuất trong sứ mệnh ngoại giao cuối cùng, và việc chọn lựa phái ông đi Paris lần nữa có ý nghĩa truyền đạt cho người Pháp thấy sự nghiêm chỉnh của cuộc thương lượng.
Napoléon đang đối mặt trước sự bại trận của quân đội ông tại Saint-Domingue (ngày nay là Cộng hòa Haiti) nơi một lực lượng viễn chinh dưới quyền của anh rể ông là Charles Leclerc đang cố tìm cách tái lập trật tự sau một cuộc nỗi loạn của người nô lệ. Cuộc nổi loạn này đang đe dọa thuộc địa sinh lợi nhiều nhất của nước Pháp.
Các cuộc xung đột chính trị tại Guadeloupe và tại Saint-Domingue phát triển song song với việc phục hồi chế độ nô lệ vào ngày 20 tháng 5 năm 1802, sự đào vong của các sĩ quan lãnh đạo của Pháp như tướng da đen Jean-Jacques Dessalines và sĩ quan da trắng lai da đen Alexandre Pétion vào tháng 10 năm 1802 cùng với khung cảnh của một cuộc chiến tranh du kích đang diễn ra. Người Pháp thành công trục xuất Toussaint L'Ouverture về Pháp tháng 6 năm 1802, nhưng bệnh sốt huyết vàng đã hủy hoại quân đội châu Âu và giết chết Leclerc vào tháng 11.
Thiếu lực lượng quân sự tại Bắc Mỹ, Napoleon cần hòa hoãn với Vương quốc Anh để thực thi Hiệp ước San Ildefonso và thâu tóm Louisiana. Ngược lại, Louisiana sẽ là một miếng mồi dễ nuốt cho người Anh hoặc thậm chí người Mỹ. Vương quốc Anh đã không giữ lời hứa của họ rời bỏ Malta vào tháng 9 năm 1802 như đã qui định trong Hiệp ước Amiens. Đầu năm 1803, chiến tranh giữa Pháp và Anh dường như càng ngày càng không thể tránh khỏi. Ngày 11 tháng 3 năm 1803, Napoleon quyết định xây dựng một hải đoàn gồm nhiều xà lan để xâm chiếm Anh Quốc.
Các tình thế như vậy đã khiến Bonaparte từ bỏ các kế hoạch xây dựng đế quốc Tân Thế giới của Pháp. Napoleon chỉ thị cho bộ trưởng ngân khố của ông là François de Barbé-Marbois vào ngày 10 tháng 4 năm 1803 rằng ông đang xem xét việc từ bỏ Lãnh thổ Louisiana lại cho Hoa Kỳ. Ngày 11 tháng 4 năm 1803, chỉ vài ngày trước khi Monroe đến, Hầu tước de Barbé-Marbois nói với Livingston rằng Pháp muốn bán cả Lãnh thổ Louisiana thay vì chỉ có Thành phố New Orleans. Tổng thống Jefferson đã chỉ thị Livingston mua chỉ mỗi Thành phố New Orleans. Tuy nhiên, ông tin chắc rằng Hoa Kỳ sẽ chấp nhận một cuộc giao dịch lớn như vậy.
Các nhà thương lượng Mỹ đã chuẩn bị chi 10 triệu đô la cho Thành phố New Orleans nhưng phải điếng người khi toàn bộ vùng Louisiana được ra giá là 15 triệu đô la. Hiệp ước được ghi là ngày 30 tháng 4 năm 1803 và được ký vào ngày 2 tháng 5. Ngày 14 tháng 7 năm 1803, hiệp ước đến Washington D.C. Lãnh thổ Louisiana rất rộng lớn, trải dài từ Vịnh Mexico ở miền nam đến Rupert's Land ở miền bắc, và từ Sông Mississippi ở miền đông đến Dãy núi Rocky ở miền tây. Việc mua lãnh thổ này đã làm tăng gấp đôi lãnh thổ của Hoa Kỳ với cái giá vào lúc đó là dưới 3 xu một mẫu Anh.
Hầu như tất cả vùng đất này đều có người bản thổ Mỹ sinh sống và từng phần đất lại được mua lại lần thứ hai từ tay người bản thổ Mỹ. Giá tiền thật sự được trả cho Vùng đất mua Louisiana vì thế cao hơn giá tiền đã trả cho Pháp. Tuy nhiên giữa người mua và người bán lại không có tham khảo ý kiến của bất cứ bộ lạc người bản thổ nào vì thế đa số người bản thổ Mỹ không hề biết là có chuyện mua bán vùng đất họ vẫn đang sinh sống.
Phản đối trong nước
Việc Hoa Kỳ mua lãnh thổ Louisiana không được suông sẻ vì có sự phản đối từ trong nước. Triết lý sống kiên định theo luật pháp của Tổng thống Jefferson bị nghi ngờ vì đã diễn giải một cách sai lệch Hiến pháp Hoa Kỳ. Nhiều người tin rằng ông là kẻ đạo đức giả và cố tình làm những việc mà ông sẽ có thể tranh cãi được để chống Alexander Hamilton. Những người theo chủ nghĩa liên bang chống đối kịch liệt việc mua bán này vì muốn có quan hệ tốt đẹp với Anh Quốc hơn là Napoleon. Họ tin rằng việc mua bán này là vi hiến và quan tâm rằng Hoa Kỳ đã trả một số tiền lớn để tuyên chiến với Tây Ban Nha. Những người theo chủ nghĩa liên bang cũng sợ rằng thế lực chính trị của các tiểu bang vùng bờ biển Đại Tây Dương sẽ bị đe dọa bởi các tân công dân ở phía tây dẫn đến một cuộc xung đột giữa các nông gia miền tây và các thương gia, nhà băng của vùng Tân Anh Cát Lợi. Cũng có một mối quan tâm khác rằng các tiểu bang mới chấp nhận chế độ nô lệ sẽ được gia tăng và phát triển từ lãnh thổ mới mua này sẽ càng gia tăng sự chia rẻ giữa miền bắc và miền nam. Một nhóm người theo chủ nghĩa liên bang dưới sự lãnh đạo của Thượng nghị sĩ của Massachusetts là Timothy Pickering đi xa hơn với kế hoạch thành lập một liên hiệp các tiểu bang miền bắc riêng biệt và hứa hẹn với Phó Tổng thống Aaron Burr chức tổng thống của tân quốc gia nếu như Burr có thể thiết phục New York gia nhập vào liên hiệp. Mối quan hệ của Burr với Alexander Hamilton, người giúp kết thúc phong trào ly khai mới phôi thai ở miền bắc, trở nên tồi tệ trong thời kỳ này. Mối thù nghịch giữa hai người đã dẫn đến cái chết của Hamilton trong một cuộc đấu súng giữa hai người vào năm 1804.Ký kết hiệp định

Tại hội chợ triển lãm một trăm năm Vùng đất mua Louisiana, một họa sĩ đã tưởng tượng cuộc ký kết hiệp ước như được thấy trong hình.
Pháp trao New Orleans vào ngày 20 tháng 12 năm 1803 tại The Cabildo. Ngày 10 tháng 3 năm 1804, một buổi lễ chính thức được tiến hành tại St. Louis để chuyển sở hữu lãnh thổ từ Pháp sang cho Hoa Kỳ.
Có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10 năm 1804, lãnh thổ mua được này được tổ chức thành Lãnh thổ Orleans (phần lớn trở thành tiểu bang Louisiana) và Địa khu Louisiana tạm thời nằm dưới quyền của thống đốc và các thẩm phán của Lãnh thổ Indiana.
Ranh giới
Các con sông nhánh của Sông Mississippi được giữ làm các ranh giới. Theo ước tính từng tồn tại thì tầm rộng và bộ phận của vùng đất mới mua này ban đầu được dựa theo những chuyến thám hiểm của Robert LaSalle.Nếu lãnh thổ này bao gồm tất cả các con sông nhánh của sông Mississippi bên bờ phía Tây thì giới hạn phía Bắc của vùng đất mới mua kéo dài vào trong phần đất đang sở hữu nhưng chưa được định rõ của người Anh - đó là vùng Rupert's Land của Bắc Mỹ thuộc Anh, hiện nay là một phần đất của Canada. Vùng đất mới mua này ban đầu trải dài tới vĩ tuyến 50 độ. Tuy nhiên, phần đất phía bắc vĩ tuyến 49 độ Bắc như Lưu vực Sông Red, Sông Milk (Montana-Alberta), và lưu vực Sông Poplar bị nhượng lại cho Vương quốc Anh theo Hiệp ước 1818.
Ranh giới phía đông của vùng đất mới mua Louisiana là sông Mississippi từ thượng nguồn của nó đến vĩ tuyến 31 mặc dù thượng nguồn của Sông Mississippi lúc đó chưa được biết đến. Ranh giới phía đông dưới vĩ tuyến 31 độ thì không rõ ràng. Hoa Kỳ tuyên bố chủ quyền vùng đất xa đến Sông Perdido, và Tây Ban Nha tuyên bố chủ quyền ranh giới của Thuộc địa Florida nằm trên Sông Mississippi. Đầu năm 1804, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Mobile nhìn nhận Tây Florida là một phần của Hoa Kỳ. Hiệp ước Adams-Onís năm 1819 giải quyết được vấn đề này. Ngày nay, vĩ tuyến 31 độ là ranh giới phía bắc của nữa phần phía tây của vùng Cán chảo Florida và Sông Perdido là ranh giới giữa Florida và Alabama.
Vùng đất mới mua này trải rộng về phía tây đến Dãy núi Rocky, đặc biệt là Phân tuyến Lục địa nhưng một phần duy nhất ở phía nam vẫn thuộc Tân Tây Ban Nha.
Ranh giới miền Nam của Vùng đất mua Louisiana (đối diện với Tân Tây Ban Nha) ban đầu không rõ ràng vào thời gian mua bán. Hiệp ước Trung lập năm 1806 tạo ra Tiểu quốc Tự do Sabine trong thời gian lâm thời và Hiệp ước Adams-Onís năm 1819 bắt đầu tiến hành phân ranh giới chính thức.
Tài chính
Chính phủ Hoa Kỳ dùng số lượng vàng có giá trị 3 triệu đô la Mỹ để đặt cọc và các trái phiếu cho phần tiền còn lại phải trả cho Pháp. Vì chiến tranh sắp xảy ra với Anh Quốc, các ngân hàng của Pháp không mua bán trái phiếu của Mỹ. Các nhà ngoại giao Livingston và Monroe vì vậy đã giới thiệu các hãng Baring and Company của London và Hope and Company của Amsterdam mà Pháp đồng ý để làm giao dịch. Vì các công ty này nổi tiếng như là hai nhà tài chính vững vàng nhất tại châu Âu và vì Napoleon muốn nhận tiền của ông ta nhanh càng sớm càng tốt nên bộ trưởng ngân khố Pháp Barbé-Marbois đã xếp đặt cùng với hai công ty này để đổi trái phiếu mà Pháp nhận thành tiền mặt. Sau khi trái phiếu của Mỹ được giao, chính phủ Pháp liền bán lại cho Baring và Hope ở một giá rẻ hơn. Một phần của giá bán 80 triệu Franc (khoảng 15 triệu đô la Mỹ) được dùng để trừ nợ mà Pháp thiếu Hoa Kỳ. Cuối cùng Pháp nhận 8.831.250 tiền mặt cho thỏa thuận mua bán.Tài liệu gốc việc mua bán vùng đất Louisiana được trưng bày tại đại sảnh chính của các văn phòng London của công ty Baring cho đến khi nó phá sản vào năm 1995.
Xem thêm
- Lịch sử Hoa Kỳ
- Các vùng lịch sử của Hoa Kỳ
- Lãnh thổ Louisiana
- Lãnh thổ Orleans
- Lãnh thổ Missouri
- Tiểu bang thứ 51
- Thương vụ Alaska
Tham khảo
- ^ a ă Table 1.1 Acquisition of the Public Domain 1781-1867
- ^ Godlewski, Guy; Napoléon et Les-États-Amis, P.320, La Nouvelle Revue Des Deux Mondes, July-September, 1977.
- ^ Meinig, D.W. The Shaping of America: Volume 2, Yale University Press, 1993. ISBN 0-300-06290-7
- ^ Duke, Marc; The du Ponts: Portrait of a Dynasty, P.77-83, Saturday Review Press, 1976
- ^ The Louisiana State Capitol Building
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Vùng đất mua Louisiana |
Thể loại:
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một tổ chức liên minh quân sự và chính trị, dân tộc chủ nghĩa cánh tả, hoạt động chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa và sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Đây là tổ chức kế thừa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Mặt trận của cả nước từ Bắc đến Nam) ở miền Nam (thừa nhận sau năm 1975) nhưng Việt Nam Cộng hòa được sự hỗ trợ của Mỹ không thi hành Hiệp định Geneva về Việt Nam, làm trở ngại cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy trong phong trào Đồng khởi ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam ra đời.[1] Chủ trương của Mặt trận là: "Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.".[2]
Tổ chức này được thành lập dưới sự hậu thuẫn và được hỗ trợ tài chính, thiết bị và nhân sự bởi nhiều bộ phận dân cư tại miền Nam Việt Nam cũng như của chính phủ và quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước khi chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thành lập, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tồn tại như một chính thể và Ủy ban Trung ương hoạt động như là một chính phủ lâm thời, đại diện cho các vùng thuộc quyền kiểm soát, quản lý các vùng do Mặt trận quản lý. Thực chất đây là một tổ chức được thành lập theo yêu cầu chiến tranh của Đảng Lao động Việt Nam và những người có lập trường thân cộng sản nhằm tạo vị thế chính trị cho phong trào đấu tranh chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, đồng thời quản lý các vùng đất do họ quản lý có được kể từ sau phong trào đồng khởi.
Mặt trận liên tục tổ chức, lãnh đạo các hoạt động chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa, chống lại sự can thiệp của Mỹ và các đồng minh. Để thực hiện mục đích đó, Quân Giải phóng Miền Nam đã được thành lập ngày 15 tháng 2 năm 1961, do Trung ương cục miền Nam lãnh đạo, sau đó gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Giải phóng Miền Nam đã thực hiện chiến tranh du kích chống lại chính quyền Sài Gòn, với chi viện về vũ khí và người từ miền Bắc.
Trước 1975, Mặt trận này tuyên bố là tổ chức độc lập với Miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi đó tuyên bố chủ quyền trên cả nước cho đến khi Cộng hòa Miền nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở miền Nam năm 1969. Từ 31 tháng 1 năm 1977, tổ chức này sát nhập hoàn toàn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngày nay Nhà nước Việt Nam khẳng định Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các mặt trận trước đó và sau này là các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân dưới lá cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra. Tuy nhiên trước đây sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và các tổ chức tương tự không công khai với đối phương (nhưng có công khai với đối tượng trong thành phần cách mạng hay cảm tình cách mạng), do mặt trận mang ý nghĩa là một liên minh chính trị gồm nhiều thành phần[cần dẫn nguồn].
Hiệp định Genève dẫn đến Việt Nam tạm thời bị phân chia thành hai vùng tập trung quân sự. Miền Bắc đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại miền Nam, với sự hậu thuẫn của người Mỹ, Thủ tướng Ngô Đình Diệm của chính phủ Quốc gia Việt Nam đã thực hiện cuộc trưng cầu dân ý để phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính thể Việt Nam Cộng hòa.
Theo nhận định của Mỹ, Ngô Đình Diệm trong một thời gian ngắn đã làm được nhiều hơn mong đợi, lên nắm quyền trong vòng 10 tháng vượt qua các cuộc đảo chính, ổn định tình hình, thành lập một nhà nước có chủ quyền vào năm 1955 được 36 quốc gia công nhận, soạn thảo một hiến pháp mới, và mở rộng kiểm soát Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tới các khu vực được Việt Minh kiểm soát trong suốt Chiến tranh Đông Dương... Theo ước tính của Pháp, vào năm 1954, Việt Minh kiểm soát 60% - 90% nông thôn miền Nam Việt Nam.
Tháng 1-1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố tẩy chay bầu cử Hiệp định Genève, với lý do ông đưa ra là không thể có bầu cử tự do tại miền Bắc được cai trị bởi "nhà nước cảnh sát". Ông không loại trừ khả năng thống nhất đất nước trong hòa bình và dân chủ với điều kiện bầu cử không có sự cưỡng ép hay đe dọa cử tri.[4]
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhiều lần đã cố gắng đề nghị Chính phủ Việt Nam Cộng hoà trong tháng 7 năm 1955, tháng 5 và tháng 6 năm 1956, 1958, tháng 7 năm 1959, và tháng 7 năm 1960, đề xuất tham vấn đàm phán "các cuộc bầu cử tự do chung bằng cách bỏ phiếu kín" và tự do hóa quan hệ Bắc-Nam nói chung. Chính phủ Việt Nam Cộng hoà hoặc từ chối, hoặc im lặng.[cần dẫn nguồn]
Chính phủ Mỹ cũng cho rằng so với thời những nguồn tin khác nhau chỉ ra cho Tổng thống Mỹ Eisenhower thấy 80% dân chúng sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh, thì sẽ được rút ngắn lại, do ông Ngô Đình Diệm đã đạt được một số thành công, trong khi Miền Bắc đang gặp nhiều khó khăn do khan hiếm lương thực và mất uy tín sau cải cách ruộng đất được tướng Giáp thừa nhận (dẫn đến một cuộc bạo động của nông dân Công giáo tháng 11 năm 1956).
Tuy nhiên sự thật các cải cách của ông kéo theo các biện pháp áp bức. Ông nắm quyền khi mà ngoài Sài Gòn và các vùng phụ cận, miền Nam Việt Nam được phân chia thành các vùng đất do Việt Minh kiểm soát và lãnh địa các giáo phái "thần quyền" như Cao Đài và Hòa Hảo. Ông chống lại bất đồng chính kiến, và đòi hỏi lòng trung thành tuyệt đối cá nhân với các quan chức hàng đầu. Tài liệu của Mỹ cũng cho biết Ngô Đình Diệm là một người Công giáo bảo thủ. Ngô Đình Diệm lúc đầu đã được chào đón nồng nhiệt trong một số người từng là thành viên Việt Minh. Nhưng chương trình cải cách điền địa của ông thất bại và dừng lại năm 1959.
Trong tháng 6 năm 1956, Ngô Đình Diệm hủy bỏ cuộc bầu cử hội đồng làng, có vẻ như vì lo ngại rằng một số lượng lớn Việt Minh có thể giành chiến thắng, thay vào đó là các các quan chức Chính phủ bổ nhiệm, là người miền Bắc, Công giáo hoặc thân cận. Năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tiết lộ rằng khoảng 15.000-20.000 người cộng sản đã bị giam giữ trong các "trại tập trung chính trị", trong khi Devillers đưa ra con số 50.000.
Tháng ba năm 1958, sau một bài xã luận "ăn da", chính phủ Ngô Đình Diệm đóng cửa các tờ báo lớn nhất ở Sài Gòn. Mùa xuân năm 1960, một nhóm các nhà lãnh đạo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản đến với nhau - ban hành Tuyên Ngôn Caravelle, một cuộc biểu tình bất bình chống chế độ Ngô Đình Diệm. Chính sách của Ngô Đình Diệm hầu như đảm bảo rằng những thách thức chính trị với ông ta sẽ bị liệt nằm ngoài luật pháp. Cuối cùng, những nổi lên từ các nguồn truyền thống quyền lực ở miền Nam Việt Nam - lực lượng vũ trang, các giáo phái tôn giáo, và nông dân vũ trang. Đến năm 1958, khoảng 1/3 tỉnh trưởng là sĩ quan quân đội, đến năm 1960, đã tăng lên đến gần 2/3; 1962, 7/8 của tất cả các tỉnh đã được lãnh đạo bởi các sĩ quan. Ông lập luận các mối đe dọa từ những người cộng sản để biện minh cho sự tập trung của mình về an ninh nội bộ.
Người Mỹ cũng nhận thức được sự yếu kém của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Theo nhận định của người Mỹ, Mỹ cũng thấy được sự vỡ mộng "đặc biệt là ở các tầng lớp có học", sự "bất mãn trong các sĩ quan quân đội", "nỗ lực của chế độ bảo đảm an ninh nội bộ khi cho rằng một chính phủ độc tài là cần thiết để xử lý các vấn đề của đất nước sẽ dẫn đến một áp lực liên tục của các yếu tố đối lập tiềm năng", "trong một khoảng thời gian dài, sự tích tụ bất bình giữa các nhóm khác nhau và các cá nhân có thể dẫn đến sự phát triển của phong trào đối kháng quốc gia"... Mỹ thấy cần ủng hộ việc thành lập một chính phủ mới ở miền Nam Việt Nam, không phân biệt thành phần.
Hội đồng an ninh quốc gia của Mỹ đưa ra quan điểm "Hỗ trợ miễn phí Việt Nam để phát triển một chính phủ mạnh mẽ, ổn định, và hiến pháp để cho phép Việt Nam Tự Do, để khẳng định một sự tương phản ngày càng hấp dẫn đối với các điều kiện trong vùng Cộng sản hiện nay". Từ năm tài chính 1946 - năm tài chính 1961, Việt Nam đứng thứ ba bảng xếp hạng nước ngoài NATO được Mỹ hỗ trợ, và trên toàn thế giới xếp thứ bảy. 75% viện trợ kinh tế của Mỹ cung cấp trong cùng thời kỳ đã đi vào ngân sách quân sự của Chính phủ Việt Nam, và nhiều dự án ngoài quân sự đã lọt vào chi tiêu phục vụ quân sự. Tuy nhiên can thiệp của Mỹ ngày càng tăng vào chính phủ Việt Nam Cộng hòa dẫn đến việc Tổng thống Ngô Đình Diệm lên tiếng phản đối.
Hoa Kỳ ước tính được khuyết tật do sự phụ thuộc của Chính phủ Việt Nam vào nguồn đầu tư vào cho các cơ sở của xã hội Việt Nam, các làng nông thôn. Có những bằng chứng tích lũy đủ để khẳng định nông dân oán giận chống lại Ngô Đình Diệm. Khi Kennedy nhậm chức 1960, 90% dân chúng nông thôn "tàn tạ và ốm yếu".
Theo Hoa Kỳ, Tuyên ngôn của Mặt trận tháng 12 năm 1960 đánh vào sự bất mãn này trong dân chúng. Mặt trận Dân tộc Giải phóng dùng khẩu hiệu lăng nhục Ngô Đình Diệm (Mỹ-Diệm) do đó giành lại sự thần bí của chủ nghĩa dân tộc trong Chiến tranh Đông Dương, kết hợp các bài ngoại tự nhiên của nông thôn Việt Nam. Hoa Kỳ bị xem là đáng khiển trách như một lực lượng hiện đại hóa một xã hội hoàn toàn truyền thống, như các nhà cung cấp vũ khí và tiền bạc cho một chính phủ đáng ghét, và như là một người nước ngoài, phá hoại khi họ hy vọng giải quyết vấn đề thống nhất đất nước bằng Hiệp định Genève, 1954. Còn các quan chức địa phương thì "tham nhũng và tàn bạo" trong khi "Ngô Đình Diệm hứa nông dân nhiều, giao ít".
Trong chương trình di dân từ ven biển lên Tây Nguyên, chỉ có 2% người dân miền Nam Việt Nam, đã hấp thụ 50% viện trợ cho nông nghiệp của Hoa Kỳ, và gây bất bình cho các tộc người Tây Nguyên. Tuy nhiên thất vọng và gây bất bình nhất là các "Ấp chiến lược". Ông Ngô Đình Diệm đã sai lầm trong việc lên án tất cả các những người dân tộc chủ nghĩa không theo Diemist như là công cụ của Bảo Đại hay Pháp.
Chính tất cả những điều này đã kích thích các phong trào đấu tranh hòa bình đòi thống nhất đất nước của dân chúng ở miền Nam. Tuy nhiên, tất cả đều bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa đàn áp, nhất là những người Cộng sản và Việt Minh cũ còn ở lại miền Nam, những người mà Tổng thống Ngô Đình Diệm cho là đối thủ tiềm tàng nguy hiểm nhất. Bị đàn áp, những người cộng sản miền Nam cùng với những đồng minh của mình tập hợp và tổ chức ra có một số tổ chức vũ trang, bán vũ trang để chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa một cách tự phát. Từ giữa 1957, những người cộng sản miền Nam đã áp dụng chiến thuật du kích phù hợp học thuyết quân sự Mao - Giáp.
Sự lệ thuộc quá nhiều của Việt Nam Cộng hòa vào Mỹ, chính sách kinh tế tuy có một số ưu điểm khuyến khích kinh tế phát triển nhưng hố sâu phân hóa xã hội lớn, cùng với việc chia lại ruộng đất, mà phần lớn đã được chính quyền Việt Minh tại miền Nam đã chia cho các nông dân nghèo, nay lại tập trung lại cho các địa chủ cũ. Trong khi đó, những người cộng sản đã tham gia đấu tranh giành độc lập, những uy tín có được từ thời tiền cách mạng, Cách mạng Tháng Tám và Kháng chiến chống Pháp, đã hướng nhiều người dân tin tưởng vào người cộng sản.
Ngoài ra thì sự phân chia đất nước khiến cho nhiều gia đình phân ly, những người có tinh thần dân tộc cũng bất bình. Do vậy, những người cách mạng ở miền Nam đã ủng hộ cho giải pháp khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khi Hội nghị Trung ương 15 của Đảng Lao động tháng 1 năm 1959 tán thành khởi nghĩa ở miền Nam, phong trào cách mạng có biến chuyển. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không muốn can thiệp trực tiếp vào tình hình miền Nam, trong khi vấn đề cấp bách là cần có một lực lượng chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa và có chính sách độc lập, từ nhu cầu đó Mặt trận được thành lập.
Dự định thành lập Mặt trận được công khai nói đến lần đầu tiên trong Đại hội toàn quốc lần thứ 3 của Đảng Lao động Việt Nam. Tại đại hội, Tôn Đức Thắng đã nói rằng Mặt trận sẽ được dựa trên các khái niệm của Lenin
về liên minh 4 giai cấp, nhưng để phù hợp với sự phức tạp của xã hội
miền Nam, Mặt trận cần bao gồm cả các nhóm tôn giáo và dân tộc khác
nhau; mục tiêu đấu tranh của Mặt trận phải rộng để kêu gọi được đông đảo
quần chúng; Mặt trận cần nhấn mạnh các chủ trương dân tộc và cải cách,
đặt ra mục tiêu cuối cùng là sự xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, dân chủ và phồn vinh. Cũng như tiền thân Việt Minh của nó, Mặt trận mới này sẽ cần được tổ chức thành nhiều cấp, từ ủy ban trung ương đến các tổ chức ở cấp làng; chủ nghĩa cộng sản sẽ không được nói đến [5].
Theo Nghị quyết Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, được đăng tải trên báo Nhân dân khi đó "nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới... Để bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận phải nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ lực lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung lập, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh chung chống Mỹ - Diệm nhằm giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc[6].
Mặt trận đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Cục miền Nam. Những người Cộng sản miền Nam hoạt động dưới danh nghĩa Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam, hoạt động công khai và là thành viên tham gia Mặt trận. Trung ương Cục Miền Nam là tổ chức đại diện Đảng Lao động trong Nam, hoạt động bí mật (đến 1969 công khai), thời kỳ chiến tranh không công khai về vai trò chỉ đạo (trong khi Đảng Nhân dân Cách mạng là đảng hoạt động công khai), trực tiếp chỉ đạo hay phối hợp với Trung ương Mặt trận - Chính phủ, với Ban dân vận Trung ương Cục (phụ trách dân vận - mặt trận - chính quyền) là cầu nối. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt đại diện tại căn cứ địa của Mặt trận (và Chính phủ cách mạng sau này), và Mặt trận (Chính phủ cách mạng lâm thời) đặt đại diện tại Hà Nội.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên) trong vùng căn cứ của mình ở tỉnh Tây Ninh, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động bí mật ở miền Nam. Lãnh đạo ban đầu là Võ Chí Công, Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát. Huỳnh Tấn Phát giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương.
Từ khi ra đời, Mặt trận được tổ chức để thu hút tất cả các nhà hoạt động chống Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả những người theo chủ nghĩa cộng sản, với mục tiêu kết nối tất cả những người đối nghịch với "Mỹ Diệm". Trên danh nghĩa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một phong trào giải phóng, liên minh của các đảng phái, tổ chức chính trị - xã hội tại miền Nam và có lập trường, chủ quyền kiểm soát riêng nhwung không độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Theo ước tính của Mỹ, trong vòng vài tháng thành lập, số thành viên của nó tăng gấp đôi, gấp đôi một lần nữa vào mùa thu năm 1961, và sau đó tăng gấp đôi vào đầu năm 1962, ước tính khoảng 300.000 người.
Ngày 15-12-1961 (mồng một Tết Tân Sửu), tại vùng giải phóng Tây Ninh, mặt trận đã làm lễ kết nạp Lực lượng võ trang giải phóng là thành viên chính thức. Tại cuộc mít-tinh này, Ban tổ chức đã giới thiệu đoàn chủ tịch (cũng là bộ phận lâm thời công khai của mặt trận) gồm các vị: Bác sĩ Phùng Văn Cung thay mặt giới trí thức Sài Gòn; Ông Nguyễn Văn Linh thay mặt Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam; Ông Ung Ngọc Ky thay mặt Đảng dân chủ Việt Nam; Ông Nguyễn Văn Hiếu thay mặt Đảng xã hội cấp tiến Việt Nam; Ông Lê Thanh thay mặt Lực lượng quân giải phóng. Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận là Nguyễn Hữu Thọ (1961).
Mặt trận đã ra "Tuyên ngôn" và "Chương trình hành động 10 điểm" với mục tiêu đại diện cho quyền lợi của nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh nhằm đánh Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tiến tới sự thống nhất của Việt Nam. Mặt trận cũng quyết định lấy lá cờ nửa đỏ, nửa xanh có ngôi sao vàng năm cánh và bài "Giải phóng miền Nam" làm cờ và bài hát chính thức của Mặt trận...
Chương trình của Mặt trận: "Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, dân tộc Việt Nam ta đã chiến đấu không ngừng cho độc lập và tự do của Tổ quốc. Năm 1945, đồng bào cả nước đã đứng lên đánh đổ Nhật - Pháp giành chính quyền và đã anh dũng kháng chiến 9 năm, đánh bại xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, đưa cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc ta đến thắng lợi vẻ vang.Tại hội nghị Giơ ne vơ tháng 7-1954, đế quốc Pháp buộc phải cam kết rút quân khỏi Việt Nam và các nước tham dự hội nghị đều trịnh trọng tuyên bố công nhận chủ quyền, độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam... Vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc, quyết phấn đấu đến cùng cho những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thuận theo trào lưu tiến bộ của thế giới, Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời.Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam Việt Nam không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, thực hiện độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình trung lập ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất tổ quốc...Vì hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì vận mạng của dân tộc, vì đời sống của chúng ta, vì tương lai của ta và con cháu ta. Tất cả hãy đứng lên !Tất cả hãy đoàn kết lại! Hãy xiết chặt hàng ngũ, tiến lên chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt Trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam để đánh đổ ách thống trị tàn ác của đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm để cứu nước, cứu nhà.
Chúng ta nhất định thắng, vì lực lượng đoàn kết của nhân dân ta là lực lượng vô địch, vì chính nghĩa thuộc về chúng ta, vì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời ngày nay đang tan rã và đi tới diệt vong. Trên thế giới, phong trào hoà bình dân chủ, độc lập dân tộc đang phát triển rộng rãi, mạnh mẽ và ngày càng thu được nhiều thắng lợi mới. Tình hình đó hết sức thuận lợi cho sự nghiệp cứu nước cứu nhà của chúng ta. Đế quốc Mỹ và tay sai của Mỹ nhất định sẽ thất bại! Sự nghiệp giải phóng dân tộc ở miền Nam Việt Nam nhất định sẽ thành công! Hãy đoàn kết, tin tưởng và phấn đấu anh dũng ! Tiến lên giành lấy thắng lợi huy hoàng cho dân tộc ta, cho Tổ quốc ta."[7]
Ngày 8-1-1967, Mặt trận họp Đại hội bất thường, công bố Cương lĩnh mới, kế tục và phát triển chương trình hành động 10 điểm. Đại hội đã thông qua một chương trình mới phác thảo cách nhằm thu hút lực lượng người Việt Nam tham gia để đánh đuổi đế quốc Mỹ, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng hòa, và tạo ra một nền độc lập, hòa bình, dân chủ, trung lập, và thịnh vượng Nam Việt Nam, tiến tới hiệp thương thống nhất đất nước. Cương lĩnh cũng đưa ra các cải cách dân chủ và sự phát triển của nền kinh tế và văn hóa dân tộc.
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam được chính thức công nhận là một chính quyền tại Nam Việt Nam và là một trong 4 bên tham gia hiệp định. Tuy nhiên, những người lãnh đạo vẫn tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đã giành được quyền kiểm soát Nam Việt Nam vào năm 1975.
Ngày 25 tháng 4 năm 1976 tổng tuyển cử trong cả nước được tổ chức, bầu ra 492 đại biểu của Quốc hội Việt Nam thống nhất. Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội họp phiên đầu tiên, đặt tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, xác định Thủ đô, bầu chính phủ, đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đây, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chính thức hợp nhất với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra đời chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của một quốc gia Việt Nam thống nhất.
Sau khi hợp nhất lãnh thổ và chính quyền, các đơn vị đoàn thể khác cũng tiếp tục hợp nhất. Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam Mặt trận bắt đầu ngày 31 tháng 1 năm 1977 đã tuyên bố hợp nhất Mặt trận với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Miền Nam Việt Nam thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Các tổ chức Mặt trận tổ chức tại cấp dưới theo vùng: Tây Nam Bộ, Trung Nam Bộ, Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Sài Gòn - Gia Định (Huỳnh Tấn Phát đứng đầu), Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, tỉnh Tây Ninh. Tổ chức Mặt trận cấp vùng chịu sự lãnh đạo của cấp Trung ương.
Ủy ban Mặt trận giải phóng địa phương được tổ chức ở 4 cấp: cấp miền, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Từ năm 1960-1967, Ủy ban Mặt trận giải phóng địa phương các cấp thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở cấp mình. Đến năm 1968 một số địa phương như Thừa Thiên-Huế, Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, Đà Nẵng... thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng thì Ủy ban nhân dân cách mạng làm nhiệm vụ của chính quyền. Sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời ra đời thì chính phủ và Ủy ban nhân dân cách mạng các cấp làm nhiệm vụ chính quyền.
Ngày 18/1/1962 trên sóng Radio Hà Nội tuyên bố Đảng Nhân dân cách mạng đã thành lập ngày 1/1/1962, là tổ chức có lập trường chống thực dân, đế quốc và phong kiến. Tuy không đề cập trực tiếp là tổ chức cộng sản, nhưng tuyên bố tuyên truyền chủ nghĩa Marx - Lenin tại miền nam Việt Nam. Trung ương Cục miền Nam và các khu ủy lãnh đạo trực tiếp, điều lệ đảng do Trung ương Đảng Lao động đề ra. Đứng đầu là bí thư Trung ương Cục, và Võ Chí Công đại diện đảng tại Mặt trận. Đảng Dân chủ trên cơ sở một phần Đảng Dân chủ năm 1944, do Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Tấn Phát đứng đầu, và Đảng Xã hội cấp tiến thành lập năm 1961 do Nguyễn Văn Hiếu đứng đầu, đều là đảng viên cộng sản. Theo tài liệu của Mỹ, Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam chịu chỉ đạo từ Trung ương Đảng ở Hà Nội, còn Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội cấp tiến, là "đối tác" của Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam[9].
Đảng Nhân dân Cách mạng theo điều lệ là đại diện giai cấp công - nông miền Nam Việt Nam.
Theo tài liệu của Mỹ, Trung ương Cục Miền Nam là Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam (sau đổi thành Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam VN), nhưng năm 1969 khi thành lập Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Trung ương Cục Miền Nam lại là đại diện của Đảng Lao động Việt Nam (được hiểu như có trụ sở tại Miền Bắc) tại miền Nam Việt Nam, và độc lập với "Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng").
Theo nhận định của Mỹ dựa vào các tin tình báo, giới lãnh đạo cộng sản tại miền Bắc đứng đằng sau sự hình thành Mặt trận và các cuộc nổi dậy ở miền Nam. Họ đề ra chiến lược quân sự lẫn chính trị cho các nhà lãnh đạo Mặt trận tại miền Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ và Việt Nam Cộng hoà vẫn không nắm rõ sự tác động của Miền Bắc đến mức nào giai đoạn trước và sau năm 1959 do Miền Bắc phủ nhận hoàn toàn sự can thiệp trong giai đoạn đầu, nhưng công khai lãnh đạo giai đoạn 1959-1961 và hỗ trợ vào giai đoạn sau.
Theo nhận định của Mỹ, trước năm 1959, Miền Bắc bị giằng xé giữa chính sách thân Liên Xô "cùng tồn tại hòa bình", và chính sách thân Trung Quốc cổ vũ cho cho bạo lực cách mạng vô sản cho dù Trung Quốc không thích viện trợ nhiều cho Việt Nam. Về kinh tế, Miền Bắc cũng đạt được thành tích về kinh tế từ 1959, nhất là công nghiệp.
Đến năm 1959, có vẻ như có khả năng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã chọn để theo đuổi một chiến lược "súng và bơ", và thu được viện trợ cần thiết của Liên Xô và Trung Quốc. Nghị quyết 15 năm 1959 và Nghị quyết đại hội Đảng III, Đảng Lao động công khai hỗ trợ cho cuộc chiến ở Miền Nam.
Trong suốt thời gian chiến tranh Miền Bắc luôn khẳng định là chỉ chi viện, hỗ trợ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bao gồm cả phối hợp chỉ đạo quân sự chứ không can thiệp trực tiếp vào chính sách đối nội - ngoại của Mặt trận. Sau chiến tranh, nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam luôn khẳng định Đảng lãnh đạo toàn bộ cách mạng, nhưng trong vài năm đầu tiên các hoạt động vũ trang do các cấp chỉ huy địa phương tự quyết định ngoài các chỉ thị từ trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại miền Bắc.[cần dẫn nguồn]
Philippe Devillers, nhà phân tích người Pháp nhận định: những người kháng chiến buộc phải hành động, cho dù có sự hỗ trợ từ Hà Nội hay không, bởi các đồng đội của họ bị bắt, bị bỏ tù và bị tra tấn. Ông này công bố tài liệu của Nambo Veterans of the Resistance Association, tháng 3/1960, Mặt trận tuyên bố kêu gọi "đấu tranh" để "giải phóng mình từ sự phục tùng Mỹ, loại bỏ tất cả các căn cứ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, trục xuất các cố vấn quân sự Mỹ..." và kết thúc "chế độ thực dân và chế độ độc tài phát xít của nhà Ngô". Ông cũng nhận định "chính phủ Nam Việt Nam cuối cùng đã phá hủy sự tin tưởng của người dân, mà nó đã giành được trong những năm đầu, và thực tế đã đưa họ vào cuộc nổi loạn và tuyệt vọng". Arthur Schlesinger, Jr. cũng có nhận định tương tự.
Ủy ban giám sát thi hành Hiệp định lại không thể kiểm tra hết các cơ sở để khẳng định khả năng hai bên sử dụng vũ lực. Năm 1959 và 1961 Ủy ban này đã công bố rằng Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã trắng trợn vi phạm các quy định kiểm soát vũ khí của Hiệp định Geneva, cho dù lưu ý vấn đề lật đổ ở miền Nam Việt Nam.
Chính phủ Hoa Kỳ, trong sách trắng về Việt Nam năm 1961 và 1965, đã đổ lỗi cho sự nổi dậy trên là "xâm lược" của Hà Nội, tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam luôn là công cụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đối phương đáp lại các cuộc nổi dậy bắt đầu như là một cuộc nổi loạn chống lại chính phủ áp bức của Ngô Đình Diệm, và chỉ từ cuối năm 1960, khi Hoa Kỳ sẽ cam kết nguồn lực lớn để giúp chính phủ Diệm trong cuộc chiến của mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thúc đẩy cuộc chiến với khẩu hiệu giải phóng miền Nam Việt Nam khỏi sự xâm lược của Mỹ.
Tổng thể cấu trúc lực lượng cộng sản tại miền Nam theo phía Mỹ gồm 3 thành phần:
Đảng Lao động Việt Nam chia chiến trường miền Nam thành 5 khu vực B-5 - Quảng Trị (giáp vĩ tuyến 17), B4- Trị Thiên, B3 - Tây Nguyên, B1 - Khu V, B2 - Nam Bộ (từ cực Nam của Nam Trung bộ và Tây Nguyên vào - tương ứng từ Quảng Đức, Tuyên Đức và Ninh Thuận, gồm Khu VI, VII, VIII, IX, X, Sài Gòn - Gia Định), có sự thay đổi ranh giới và phân chia theo thời gian. Về hình thức Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng chỉ huy toàn bộ quân Giải phóng trên toàn miền Nam. Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Hà Nội giám sát tất cả nhưng trực tiếp phụ trách các khu Quảng Trị, Trị Thiên, Khu V và Tây Nguyên. Về mặt chính trị, phân vùng có khác, Khu ủy Trị Thiên và Khu ủy Khu V (địa bàn rộng hơn Khu V về quân sự) nhận chỉ thị trực tiếp từ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chứ không phải từ Trung ương Cục miền Nam. Tại mỗi Khu, Khu ủy thực hiện chỉ đạo đối với lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn Khu. Ban Thống nhất thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam điều phối các vấn đề phức tạp.[cần dẫn nguồn]
Theo nhận định của Mỹ, Trung ương Cục miền Nam có vai trò nổi bật trong việc giám sát lực lượng vũ trang tại Nam Bộ (B2). Trên danh nghĩa, Quân Giải phóng là một phần của một phong trào dân tộc giải phóng. Theo nhận định của Mỹ, trong thực tế nó đã được kiểm soát bởi Trung Ương Cục Miền Nam, mà lần lượt được kiểm soát bởi Đảng Lao động. Quân đội Nhân dân Việt Nam khi vào các địa bàn này cũng chịu sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam và Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền.[cần dẫn nguồn]
Theo định nghĩa thông thường của Mỹ, Quân giải phóng để chỉ Quân đội thuộc phía cách mạng ở địa bàn B2. Nhưng cũng có định nghĩa khác. Sự phân biệt của phía Mỹ có tính chất chiến lược trong quân sự chứ không vì các mục đích thuần túy chính trị. Thực chất tất cả lực lượng vũ trang do Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo, trực tiếp là các Khu ủy và Quân ủy từng quân khu hay Trung ương cục Miền Nam và Quân ủy Miền, Khu. Các tổ chức khác của Mặt trận đều do Trung ương Đảng lãnh đạo và đều tôn vinh Hồ Chí Minh làm lãnh tụ, dù cơ cấu tổ chức và tuyên bố bên ngoài độc lập với hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ cộng hòa [13][14].
Trên thực tế cơ cấu tổ chức của phía cách mạng phức tạp và biến chuyển hơn các tin tức từ phía đối phương khai thác được. Tựu trung, để tạo cho lực lượng cách mạng ở miền Nam một vị thế chính trị độc lập với vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nâng cao vị thế của họ trên bình diện quốc tế, có lợi cho cách mạng, nhất là trong thu hút lực lượng, tranh thủ ủng hộ quốc tế, và trên bàn đàm phán, tránh mang tiếng Miền Bắc "xâm lược"... nên cơ cấu tổ chức của lực lượng cách mạng ở miền Nam độc lập với các thiết chế ở miền Bắc, bao gồm cả Đảng, Mặt trận, chính quyền, quân đội,... Sau 30/4/1975 mới công khai đảng Nhân dân Cách mạng là bộ phận của Đảng Lao động, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Riêng Mặt trận và chính quyền đại diện lãnh thổ quản lý, thì sáp nhập sau các hội nghị hiệp thương, bầu cử và địa hội thống nhất.[cần dẫn nguồn]
Trong thời gian đầu khi lực lượng cộng sản miền Nam còn yếu, Miền Bắc luôn phủ nhận sự can thiệp vào các vấn đề nội bộ của miền Nam, nhưng sau thì Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phát hiện đường mòn Hồ Chí Minh và các lực lượng từ Bắc di chuyển vào thì Việt Nam Dân chủ cộng hòa công khai ủng hộ cho lực lượng Quân Giải phóng, các lực lượng từ Bắc vào được xem là một bộ phận của lực lượng cách mạng Miền Nam, chịu sự chỉ đạo chung của Đảng Lao động, "Đảng nhân dân cách mạng", Mặt trận và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên ngoài tham gia chỉ đạo về quân sự, với danh nghĩa giúp đỡ để hoàn thành mục tiêu chung, Miền Bắc không thừa nhận chỉ đạo về đường lối chính sách đối ngoại đối nội của phái Mặt trận, tạo uy thế có tính độc lập trong chính sách của phía Mặt trận, nhằm thu hút thêm quần chúng ủng hộ cách mạng, phân hóa kẻ thù, và tạo thêm sự ủng hộ từ các lực lượng chính trị khác trong và ngoài nước, nhất là các nước nằm ngoài phe Xã hội Chủ nghĩa. Về phía đối phương, họ lúc thì khẳng định Mặt trận là do Miền Bắc thành lập để phản đối Miền Bắc xâm lược, nhưng nhiều khi họ luôn khai thác các yếu tố sự độc lập của Mặt trận để chia rẽ nội bộ giữa Mặt trận và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[cần dẫn nguồn]
Về hợp nhất Mặt trận, các đoàn thể và chính quyền là mang tính nguyên tắc trên cơ sở pháp lý. Sau 30/4/1975 trên thực tế tồn tại hai chính quyền có lãnh thổ riêng và chính sách riêng, nhưng lúc này Đảng Lao động công khai chỉ đạo cả Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Trong thời gian còn chiến tranh thì các chỉ đạo chính sách với Mặt trận và Chính phủ Cách mạng là mang tính bí mật, đôi khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời có tuyên bố không giống nhau thể hiện sách lược của đảng. Do Chính phủ khi đặt trụ ở tại Tây Ninh hay Campuchia, hay Quảng Trị, hay phần lớn thành viên ở ngoài Bắc do đó các chỉ thị từ Trung ương Đảng là trực tiếp hay thông qua Trung ương Cục Miền Nam. Các lãnh đạo Mặt trận và chính quyền là đảng viên công khai hay bí mật nhiều lần tham gia vào các cuộc họp ra quyết định của Đảng liên quan công tác của họ.
Đối phương thường cho Mặt trận không có thực quyền, mà thực quyền thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không chuẩn xác. Vì các thiết chế nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ ra các văn bản chỉ đạo đối với Miền Bắc, và các văn bản ủng hộ cho Miền Nam chứ không có các văn bản chỉ đạo. Các văn bản chỉ đạo thuộc thiết chế của Đảng, mà Đảng được phía cách mạng định nghĩa không chỉ thuộc Miền Bắc như sau này thừa nhận. Hệ thống của Đảng trụ sở tại Hà Nội nhưng chỉ đạo xuyên suốt từ miền Bắc đến miền Nam, nhiều ủy viên Bộ Chính trị và Trung ương Đảng cũng công tác trong Nam, trong đó một bộ phận tham gia Trung ương Cục Miền Nam. Trong khi đó chính quyền ngoài Bắc gồm nhiều người ngoài Đảng hay các đảng Xã hội và Dân chủ.
Đảng lãnh đạo toàn bộ (sau này được công khai), nhưng đường lối chính sách của Mặt trận có tính độc lập bề ngoài vì Mặt trận gồm nhiều thành phần, nhưng chịu chỉ đạo bí mật từ các cấp lãnh đạo Đảng theo nguyên tắc xác lập trong nội bộ Mặt trận. Các lãnh đạo của Mặt trận nhiều người không công khai là đảng viên cộng sản (trừ các vị công khai là lãnh đạo Đảng Nhân dân Cách mạng), sau này mới công khai, nhằm tạo ra một vị thế đa thành phần tranh thủ ủng hộ quốc tế, và thu hút lực lượng rộng rãi hơn, nhất là các thành phần ở đô thị, tầng lớp trên tư sản dân tộc hay trí thức, hay tín đồ và chức sắc các tôn giáo,... Điểm này rất giống với Mặt trận Việt Minh trước đây, nhiều đảng viên trong Mặt trận hoạt động danh nghĩa trí thức hay của đảng Dân chủ và đảng Xã hội.
Nhìn chung tổ chức của phía cách mạng đều do Đảng lãnh đạo toàn bộ như sau này thừa nhận, và các tin tức bóp méo có tính chất chia rẽ nội bộ đối phương khai thác thời chiến tranh và cả sau này đều không có sơ sở, như không biết Mặt trận là Cộng sản hay hai quân đội riêng độc lập nhau hay mâu thuẫn giữa Mặt trận và Miền Bắc. Mặt khác sự chỉ đạo toàn bộ này chỉ công bố sau chiến tranh, thể hiện rõ sách lược phân hóa kẻ thù, "đánh lạc hướng" và tranh thủ lực lượng của Đảng. Càng về cuối cuộc chiến tranh thì tính chất giống nhau về bề ngoài của phía cách mạng với miền Bắc càng bộc lộ khi lực lượng của họ mạnh lên, như các khẩu hiệu tuyên truyền về Xã hội Chủ nghĩa, hay các biểu tượng Lenin, Hồ Chí Minh,... cho dù đến 1976-1977 đất nước mới thống nhất chính thức hệ thống chính trị và tuyên bố đi lên Xã hội Chủ nghĩa cả nước chỉ đặt ra từ đại hội IV.[cần dẫn nguồn]
Phía đối phương có khi phân chia quân giải phóng (với quân đội nhân dân) để chỉ lực lượng ở B2 là căn cứ vào thẩm quyền chỉ huy, vì từ B2 trở vào là do Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam chỉ huy - là chỉ huy Quân giải phóng công khai khi quân giải phóng mới thành lập. Trên thực tế, B2 là địa bàn xa, Trung ương cần một ban chỉ đạo trực tiếp nên thiết lập Trung ương Cục Miền Nam để chỉ đạo. Cơ cấu tổ chức của phía cách mạng địa bàn này cũng khác biệt với các địa bàn do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Như Trung ương có Trung ương Đảng thì B2 có Trung ương Cục, Trung ương có Bộ Tổng tư lệnh, thì B2 có Bộ Tư lệnh Miền, Trung ươngcó quân ủy Trung ương thì B2 có quân ủy Miền... tức các thiết chế tương tự như ở Trung ương, dưới nữa mới đến các Khu hay quân khu, tương tự như các khu do Trung ương trực tiếp chỉ đạo, nhưng vẫn chịu chỉ đạo thông suốt từ Trung ương Đảng.[cần dẫn nguồn]
Theo nhận định của Mỹ, lực lượng quân chủ lực gồm từ cả ngoài Bắc vào, được trang bị vũ khí hạng nặng, tỷ lệ đảng viên cao, trình độ học vấn tốt nghiệp phổ thông, được huấn luyện chu đáo. Quân địa phương thường chiến đấu gần tỉnh nhà của họ, không cần đảng viên, không cần biết chữ, dù hoạt động chuyên nghiệp. Du kích hầu hết là nông dân nghèo hoạt động bán thời gian ở địa phương, tham gia xây dựng công sự, vận chuyển khí tài, đánh địch... chịu chỉ đạo của quân giải phóng ở mức độ thấp hoặc của Mặt trận. Đôi khi có sự thiếu hụt nhân lực phải bổ sung nhưng ít có hoán chuyển và quân chủ lực luôn bảo đảm tinh nhuệ nhất. Lính miền Bắc khi vào Nam vẫn giữ phù hiệu, dù có cá nhân độn vào lực lượng tiểu đoàn Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Các đơn vị từ miền Bắc di chuyển sâu hơn về phía Nam cần phối hợp nhiều hơn với Quân Giải phóng và các lực lượng tại địa phương. Về công khai tất cả các lực lượng vũ trang tại miền Nam đều do Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ huy. Việc phân chia quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân đội Việt Cộng cũng một phần nhằm mục đích chia rẽ, nhưng chủ yếu để có chiến thuật quân sự thích hợp, vì quân miền Bắc được huấn luyện tốt hơn lực lượng tại chỗ.
Theo nhận định của Mỹ, trong khi Bắc Việt Nam và đồng minh của họ cố gắng ngụy trang tổ chức thực sự chỉ đạo chiến tranh, điều quan trọng cần lưu ý là cả Quân Giải phóng và các chiến binh thường xuyên của quân Bắc Việt Nam đều thuộc một lực lượng. Mỗi bộ phận đều có đặc tính riêng biệt của địa phương, cách tuyển dụng, các nhiệm vụ, nhưng tựu chung họ đều được kiểm soát bởi bộ chỉ huy ở Hà Nội.
Theo tài liệu của đảng cộng sản, khi đó chưa công khai, chỉ thị của Tổng quân ủy Trung ương chỉ rõ "Quân giải phóng Miền Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, do đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo,..."[15]
Mặt trận luôn cho rằng miền Nam chưa có độc lập, nên gọi đó là cuộc
chiến tranh giải phóng. Việt Nam dân chủ cộng hòa và sau này thì Nhà
nước lại hay dùng từ Kháng chiến chống Mỹ, để khẳng định Việt Nam đã độc
lập từ 1945, và chống các kẻ thù xâm lược một nước đã có chủ quyền, hay
dùng từ cách mạng dân tộc dân chủ, hay cách mạng tư sản dân quyền, để
chỉ một giai đoạn trong chính sách của Đảng cộng sản. Giai đoạn cách
mạng tiếp theo là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là cách dùng từ theo
quan điểm hai giai đoạn cách mạng của Lenin rút ra từ thực tiễn đấu
tranh giành chính quyền tại Nga.
Đường lối của họ là chống Mỹ, và trong một số hoàn cảnh chấp thuận thương lượng với phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tùy thuộc chính quyền đó do ai lãnh đạo, và hoàn cảnh cụ thể. Mặt trận còn chủ trương chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa mà theo họ là chế độ độc tài, đòi thi hành dân sinh dân chủ, bao gồm cả cải cách ruộng đất, xây dựng Miền Nam là một chính thể tự do dân chủ và đi đến hiệp thương với miền Bắc thống nhất nước nhà. Mặt trận thông qua nhiều tổ chức khác do họ điều khiển, tổ chức biểu tình chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tuyên truyền kêu gọi "Hòa bình và Hòa giải dân tộc" để thu hút quần chúng, cô lập và phân hoá đối phương.
Mặt trận còn chủ trương cho Tây Nguyên tự trị và kết nạp tổ chức Phong Trào Các Dân Tộc Tự Trị Tây Nguyên[16]. Tuy nhiên sau chiến tranh chủ trương này không được Nhà nước hiện nay thực hiện, vì đất nước đã "thống nhất" rồi thì không thể chia xẻ nữa.
Các vấn đề liên quan đến Chủ nghĩa Cộng sản hay Chủ nghĩa Xã hội không được nhắc đến trong Cương lĩnh Mặt trận tương tự Việt Minh trước đây. Các khái niệm "chuyên chính vô sản", "quốc hữu hóa", "tập thể hóa", nhà nước của giai cấp công nhân không được phổ biến công khai và rộng rãi. Tuy nhiên đối phương luôn khẳng định Mặt trận là cộng sản, vì trong thành phần Mặt trận, Đảng Nhân dân cách mạng theo chủ nghĩa Marx-Lenin là lực lượng nòng cốt. Ngoài ra do các nguồn tin khác nhau họ biết sự chỉ đạo từ Đảng Lao động Việt Nam ở miền Bắc đối với Mặt trận.
Theo tài liệu phía cách mạng, năm 1962 phía cách mạng kiểm soát 76% lãnh thổ và 50% dân số toàn miền Nam. Từ 1964 đến 1965, vùng do Mặt trận kiểm soát chiếm 3/4 diện tích và 2/3 dân số miền Nam [17]. Năm 1968 Mặt trận quản lý 10/14 triệu người, trong đó "4 triệu sống trong vùng giải phóng và ít nhất 6 triệu rưỡi người nữa thuộc quyền cai trị bí mật của Mặt trận trong các vùng danh nghĩa là của Mỹ và Sài Gòn kiểm soát"[18]
Nghị quyết Quốc hội khóa I kỳ 11 ngày 31-12-1959 (khi đó vẫn có các đại biểu Miền Nam được bầu năm 1946 đủ tư cách) - khi đó vẫn xem là Quốc hội Việt Nam thống nhất - khẳng định "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiêu biểu cho tính chất thống nhất của nước ta và tiêu biểu cho ý chí tranh đấu của nhân dân cả hai miền Nam - Bắc". Những ghi nhận này khẳng định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính thể duy nhất có quyền lực pháp lý trên toàn lãnh thổ Việt Nam và công khai không thừa nhận Việt Nam Cộng hòa là một nhà nước hợp pháp, miền Nam chưa được giải phóng và cũng "ám chỉ" Việt Nam nếu không thể thống nhất bằng hòa bình thì bằng chiến tranh.
Hiến pháp năm 1959 cũng ghi nhận Đảng Lao động là lãnh đạo cách mạng trong Lời nói đầu, nhưng không quy định là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội trong điều khoản nào như Hiến pháp 1980 và 1992 sau này (chưa có địa vị pháp lý lãnh đạo chính thức) nhằm để ngỏ khả năng hiệp thương với chính quyền Miền Nam và động viên nhưng người không có lập trường cộng sản nhưng chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đứng về phía cách mạng. Đến 1960 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn công khai đưa ra đề nghị thương lượng lần cuối (khẩu hiệu đấu tranh hòa bình thống nhất vẫn được khẳng định tại Hiến pháp, và cả văn kiện công khai của đại hội III Đảng Lao động, nhưng các văn kiện bí mật chỉ lưu hành nội bộ thì ủng hộ cho giải pháp khởi nghĩa và lập đoàn chi viện vào Nam).
Phía Việt Nam Cộng hòa trước đó ban hành Hiến pháp riêng 1956 và bầu cử riêng, cũng thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền này dựa trên Quốc gia Việt Nam trước đây và tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam. Điều này (cộng với từ chối tổng tuyển cử cả nước) được phía bên kia xem là một cử chỉ thể hiện sự "hiếu chiến" chuẩn bị cho "Bắc tiến".
Sau Đồng khởi, thì một vùng do Đảng Lao động và cách mạng kiểm soát ở Miền Nam hình thành, đồng thời miền Bắc viện trợ cho miền Nam một lượng lớn vũ khí, quân trang, quân dụng và cử nhiều cán bộ, binh sỹ vào Nam chiến đấu. Trong khi Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã đưa ra những chứng cớ mà họ cho là Miền Bắc "xâm lược", do đó chủ trương của Đảng Lao động là thành lập một Mặt trận lấy danh nghĩa giải phóng Miền Nam để kiểm soát các vùng đất này, và tách đảng bộ miền Nam lập một đảng danh nghĩa (tương tự với đảng Xã hội và Dân chủ). Mặt trận lấy danh nghĩa là Việt Nam đã độc lập năm 1945 và kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhưng miền Nam chưa có độc lập để đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam - tính độc lập hình thức với Miền Bắc không rõ ràng bằng khi lập chính thể Cộng hòa Miền Nam như sau này. Mặt trận thừa nhận Miền Bắc đã được giải phóng, và Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính thể hợp pháp cả nước. Tuy nhiên tính chất độc lập tương đối được đưa ra khi văn kiện Mặt trận khẳng định Mặt trận sẽ hiệp thương với Miền Bắc để thống nhất. Tính độc lập này chỉ là tương đối và khớp với văn kiện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (khi khẳng định chủ quyền với toàn lãnh thổ). Chương trình hành động của Mặt trận (điểm IX):
Yêu cầu bức thiết của đồng bào trên toàn quốc là phải hoà bình thống nhất Tổ quốc. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam chủ trương thống nhất nước nhà từng bước bằng phương pháp hoà bình, trên nguyên tắc hai miền cùng nhau thương lượng, cùng nhau bàn bạc mọi hình thức và biện pháp có lợi cho dân tộc, cho Tổ quốc Việt Nam. Trong khi nước nhà chưa thống nhất, chính phủ hai miền cùng nhau thương lượng cam kết không tuyên truyền chia rẽ dân tộc, không tuyên truyền chiến tranh, không dùng binh lực đối với nhau. Thực hiện trao đổi kinh tế văn hoá giữa hai miền. Cho nhân dân hai miền được tự do đi lại buôn bán, thăm viếng, tự do gửi thư từ cho nhau.
Sau khi Mặt trận ra đời thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công khai khẳng định Mặt trận đại diện nhân dân miền Nam, nhưng không sửa lại Hiến pháp. Hồ Chí Minh trong trả lời phỏng vấn của Daily Worker năm 1965 khẳng định Mặt trận có đường lối riêng của họ, phù hợp với hoàn cảnh mỗi miền, nhưng Việt Nam là một[19]. Sau này Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức xem Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một chính thể và nhà nước độc lập với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng chỉ giới hạn ở Miền Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không sửa lại Hiến pháp. Tuy vậy Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không đặt quan hệ bình thường như thiết lập đại sứ hay quan hệ ngoại giao với các nước khác mà đặt đại diện. Mục tiêu hiệp thương thống nhất hai nhà nước luôn thể hiện trong các tuyên bố hai phía và hai bên đặt đại diện (chứ không phải cấp đại sứ hay lập quan hệ ngoại giao thông thường) tại Hà Nội và Tây Ninh thể hiện ý chí này.
Bên cạnh đó, Đảng Lao động bề ngoài vẫn thừa nhận Đảng Nhân dân Cách mạng có tính "độc lập" tuy nhiên sau này thừa nhận Trung ương Cục là đại diện Đảng Lao động tại miền Nam. Lập trường quốc tế nói chung đa số vẫn thừa nhận Việt Nam có hai chính quyền ở hai miền chứ không nói là hai nước theo cách hiểu thông thường, và sau nhiều nước thừa nhận Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một trong hai chính quyền ở Miền Nam (chứ không phải Miền Nam có hai nước). Do lập trường của Mặt trận và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là Miền Nam chưa có độc lập nên họ sử dụng cụm từ "giải phóng", và Việt Nam dân chủ cộng hòa dùng từ "kháng chiến" để chỉ cuộc kháng chiến hai miền nam - bắc vì một mục tiêu chung. Sau đó cụm từ "kháng chiến" lại phổ biến, do lập trường của Việt Nam là Việt Nam độc lập từ 1945 và kháng chiến để chống lại một nước đã có chủ quyền (không phải chưa có độc lập như các văn kiện Mặt trận thời chiến tranh).
Lập trường Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phía Mặt trận thường giống nhau, trừ việc Mặt trận không hề đề cập đến các chính sách cải tạo Xã hội Chủ nghĩa ở miền Nam. Năm 1955 và năm 1960 Miền Bắc cho thành lập các khu tự trị, có ý nghĩa trong chính sách lôi kéo người dân tộc thiểu số miền Nam đứng về phía cách mạng (khi đó chính quyền Việt Nam Cộng hòa phủ nhận sự tự trị mà Pháp trao cho các dân tộc thiểu số). Phía Mặt trận và Chính phủ Cách mạng Lâm thời cũng cho thành lập các Ủy ban tự trị dân tộc thuộc địa phận vùng kiểm soát của mình, trong thời gian chiến tranh như miền Bắc có khu tự trị. Tuy nhiên sau 1975 thì do vấn đề Trung Quốc, Khmer Đỏ và các vấn đề an ninh... nên các chính quyền tự trị này ở miền Bắc lẫn miền Nam đều bị giải tán.
Về phía Mặt trận, chỉ công khai các chức danh do hiệp thương bầu cử ra (của Mặt trận hay chính quyền các cấp), hay chức vụ của các tổ chức, Đảng (cả đảng Nhân dân cách mạng) trong Mặt trận, cũng như quân giải phóng (Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang,...), nhưng trước khi Hiệp định Paris ký kết không công khai các chức danh hay cán bộ thuộc về phía Đảng Lao động chỉ định (như ủy viên Trung ương hay Bộ Chính trị hay trong Trung ương Cục, và các cấp lãnh đạo đảng ở địa phương, cũng như nhiều chỉ huy quân đội,...) để thể hiện rõ lập trường Miền Bắc chỉ chi viện giúp đỡ miền Nam và phối hợp quân sự, kể cả cử cán bộ chỉ huy Quân giải phóng, lực lượng cách mạng, chứ không chi phối chính sách của phía Mặt trận do sự hiệp thương của các lực lượng tham gia quyết định, mặt khác thể hiện nguyên tắc bí mật trong thời chiến.
Nếu so với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thì Việt Minh trước đây cũng là một liên minh gồm nhiều đảng phái, tổ chức và cá nhân bao gồm cả Đảng Cộng sản (nòng cốt). Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương giải tán và Việt Minh trở thành bình phong của người cộng sản trong một hai năm đầu, chủ yếu nhất giai đoạn trước kháng chiến toàn quốc, còn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam luôn là một liên minh trong đó những người cộng sản làm nòng cốt.
Theo đánh giá của William Colby, cựu giám đốc CIA và người từng chỉ huy Chiến dịch Phượng Hoàng, để làm mờ đi lý lịch cộng sản (và thu hút nhiều người tham gia hơn), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được coi là một phong trào của riêng người Nam Việt Nam sẵn sàng đón nhận mọi đảng phái và những nhân vật miền Nam mà tên tuổi được tung ra như là những người lãnh đạo tổ chức thì trên thực tế họ không có mấy quyền hành kiểm soát mặt trận cũng như những người trong mặt trận Việt Minh thời Chiến tranh Đông Dương. Quyền chi phối Mặt trận chủ yếu thuộc về nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [20].
Theo định nghĩa hiện nay thì các Mặt trận do đảng lãnh đạo hay chủ trương thành lập (ngầm hay công khai) đều là các tổ chức Mặt trận Dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, và trong khối dân vận. Như vậy về thực tế các tổ chức này làm dân vận cho đảng, đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của đảng, cho dù thực tế về mặt quá khứ công khai như Việt Minh được xem như là một "đảng": 1945-1951, hay Mặt trận Dân tộc Giải phóng là một liên minh chính trị "độc lập" với Đảng Lao động Việt Nam.
Tàu Doña Paz là một tàu phà chở hành khách của Philippines đã bị đắm sau khi va chạm với tàu chở dầu Vector ngày 20.12.1987. Với số người chết là 4.375 người,[1] đây là tai họa đắm tàu trong thời bình có nhiều người chết nhất trong lịch sử hàng hải[2]. Tàu phà này chạy từ đảo Leyte tới thủ đô Manila.[3]
Khi va chạm, hàng dầu chở trên tàu "Vector" bốc cháy gây ra một trận hỏa hoạn lan sang tàu "Dona Paz". Các người sống sót nhớ lại họ cảm thấy sự đổ vỡ và một tiếng nổ, khiến những người trên tàu hoảng loạn.[8] Một trong những người đó, Paquito Osabel, thuật lại rằng các ngọn lửa lan nhanh khắp tàu, và cả trên mặt biển quanh tàu.[6][8] Một người sống sót khác cho biết là ánh đèn trên tàu bị tắt ngấm, rằng trên tàu Doña Paz không có áo phao cứu đắm, và không ai trong số thủy thủ đoàn ra một lệnh nào.[6] Sau này nghe nói là các tủ chứa áo phao cứu đắm bị khóa lại.[11] Các người sống sót đã bị buộc phải nhẩy xuống biển và bơi giữa các thi thể cháy đen.[12] Tàu Doña Paz đã chìm trong khoảng 2 giờ sau khi va chạm, còn tàu chở dầu Vector thì chìm trong vòng 4 giờ.[11] Cả 2 tàu đều chìm ở độ sâu khoảng 545 mét ở eo biển Tablas lúc nhúc cá mập.[13]
Theo như tường trình thì 8 giờ sau các giới chức hàng hải Philippines mới biết tin tai nạn này và phải mất thêm 8 giờ nữa mới tổ chức được các hoạt động tìm kiếm, cứu cấp.[11]
Theo thông báo ban đầu của công ty Sulpicio Lines, thì danh sách chính thức hành khách trên tàu Doña Paz là 1.493 người và 60 nhân viên thủy thủ đoàn trên tàu.[5][12] Theo công ty này thì tàu có sức chở 1.424 hành khách.[8] Một bản danh sách sửa lại công bố ngày 23.12.1987 cho biết có 1.583 hành khách và 58 nhân viên thủy thủ đoàn trên tàu Doña Paz, trong đó 675 người lên tàu ở thành phố Tacloban, còn 908 người lên tàu từ thành phố Catbalogan.[13] Tuy nhiên, một viên chức giấu tên của Công ty Sulpicio Lines nói với hãng UPI rằng các vé phụ thường được bán bất hợp pháp ở trên tàu với giá rẻ hơn, và những hành khách mua loại vé trên không có tên trên danh sách chính thức.[5] Cũng viên chức này còn nói thêm rằng những người có vé biếu và những trẻ em dưới 4 tuổi không phải mua vé cũng không có tên trên danh sách.[5][15]
Các người sống sót nói rằng có thể tàu Doña Paz đã chở từ 3.000 tới 4.000 hành khách.[5][12] Họ thấy các dấu hiệu quá đông người trên tàu vì các hành khách phải ngủ dọc theo các hành lang hoặc trên các giường nhỏ của trẻ em với 3 hoặc 4 người trong số họ.[12] Trong số 21 thi thể được nhận dạng 5 ngày sau tai nạn, chỉ có 1 người có tên trong danh sách hành khách chính thức.[16]
Ngày 28.12.1987,dân biểu Hạ viện Philippines Raul Daza của hạt Bắc Samar nói rằng có ít nhất 2.000 hành khách trên tàu Doña Paz không có tên trong bản danh sách hành khách của tàu.[17] Ông đưa ra con số đó dựa trên một danh sách những người mất tích được cho là ở trên tàu phà này, do các thân nhân và bạn bè của họ cung cấp; các tên trong danh sách trên được các đài phát thanh và truyền hình thành phố Tacloban thu thập biên soạn.[17] Tên của 2.000+ hành khách mất tích này được đăng trên các trang 29 tới 31 của nhật báo Philippine Daily Inquirer ngày 29.12.1987.
Số người chết chính thức cuối cùng sau đó đã được ghi nhận là 1.749,[18] một con số chứng tỏ đây là một tai nạn tàu phà nhiều người chết nhất trong lịch sử.[19] Tuy nhiên, người ta thường chấp nhận rằng số người chết thực tế lớn hơn rất nhiều.[18][19] Năm 1999 Tòa án Tối cao Philippines đã chính thức thừa nhận là tàu Dona Paz đã chở một số ước lượng 4.000 hành khách.[7] Ấn bản năm 2008 của World Almanac (Niên giám Thế giới) ghi số ước lượng sinh mạng bị mất trong vụ đắm tàu này là 4.341.[20] Tạp chí Time magazine gọi tai nạn này là thảm họa hàng hải chết chóc nhất trong thời bình của thế kỷ 20.[21] Với số người chết ước tính như trên, vụ chìm tàu Doña Paz được gọi là thảm kịch trên biển chết chóc nhất thế giới trong thời bình.[22][23][24][25]
Ba ngày sau tai nạn, công ty Sulpicio Lines đã loan báo là tàu Doña Paz được bảo hiểm 25 triệu peso Philippines (khoảng 1 triệu dollar Mỹ năm 2011), và công ty sẽ bồi thường cho những người sống sót mỗi nạn nhân 20.000 peso Philippines.[28] Những ngày sau đó, hàng trăm thân nhân các gia đình nạn nhân đã tụ tập tại công viên Rizal đòi các chủ tàu cũng phải bồi thường cho các gia đình những nạn nhân không có tên treong danh sách hành khách chính thức, cũng như phải làm bản báo cáo đầy đủ những người bị mất tích.[15]
Theo cuộc điều tra ban đầu do Lực lượng tuần duyên Philippines thực hiện, thì lúc xảy ra tai nạn chỉ có một nhân viên học nghề của thủy thủ đoàn tàu Doña Paz theo dõi ở trên đài chỉ huy của tàu.[29] Các sĩ quan khác thi hoặc là đang uống bia hoặc đang xem truyền hình,[30] trong khi viên thuyền trưởng thì đang coi một phim ở băng video Betamax của mình.[29] Tuy nhiên, các cuộc điều tra tiếp theo cũng phát hiện là tàu chở dầu Vector hoạt động mà không có giấy phép, đài gác hoặc thuyền trưởng đủ tiêu chuẩn hợp thức.[11] Ban điều tra hàng hải cuối cùng đã xóa lỗi của công ty Sulpicio Lines trong vụ tai nạn này.[14] Năm 1999, Tòa án tối cao Philippines phán quyết là các chủ tàu chở dầu Vector có trách nhiệm phải bồi thường cho các nạn nhân của vụ va chạm tàu này.[7][14] Một số đơn khiếu kiện chống lại hoặc công ty Sulpicio Lines hoặc các chủ nhân của tàu chở dầu Vector - chẳng hạn các đơn của gia đình Cañezal (mất 2 thành viên) và gia đình Macasas (mất 3 thành viên) - được Tòa án tối cao phán quyết là các gia đình của những nạn nhân không có tên trong danh sách hành khách chính thức cũng đều được bồi thường.[7][14].
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
![]() |
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam |
|
---|---|
![]()
Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam,
sau là quốc kỳ của Cộng hòa miền Nam Việt Nam |
|
Thành lập | 20 tháng 12, 1960 |
Giải thể | 31 tháng 1, 1977 |
Loại hình | Tổ chức chính trị Việt Nam |
Tình trạng pháp lý | Đã giải thể, hợp nhất với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam |
Mục đính | chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa và sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước |
Tọa độ | Miền Nam Việt Nam |
Thành viên | Xem nội dung |
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Việt |
Chủ tịch | Nguyễn Hữu Thọ |
Đây là tổ chức kế thừa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Mặt trận của cả nước từ Bắc đến Nam) ở miền Nam (thừa nhận sau năm 1975) nhưng Việt Nam Cộng hòa được sự hỗ trợ của Mỹ không thi hành Hiệp định Geneva về Việt Nam, làm trở ngại cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy trong phong trào Đồng khởi ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam ra đời.[1] Chủ trương của Mặt trận là: "Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.".[2]
Tổ chức này được thành lập dưới sự hậu thuẫn và được hỗ trợ tài chính, thiết bị và nhân sự bởi nhiều bộ phận dân cư tại miền Nam Việt Nam cũng như của chính phủ và quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước khi chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thành lập, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tồn tại như một chính thể và Ủy ban Trung ương hoạt động như là một chính phủ lâm thời, đại diện cho các vùng thuộc quyền kiểm soát, quản lý các vùng do Mặt trận quản lý. Thực chất đây là một tổ chức được thành lập theo yêu cầu chiến tranh của Đảng Lao động Việt Nam và những người có lập trường thân cộng sản nhằm tạo vị thế chính trị cho phong trào đấu tranh chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, đồng thời quản lý các vùng đất do họ quản lý có được kể từ sau phong trào đồng khởi.
Mặt trận liên tục tổ chức, lãnh đạo các hoạt động chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa, chống lại sự can thiệp của Mỹ và các đồng minh. Để thực hiện mục đích đó, Quân Giải phóng Miền Nam đã được thành lập ngày 15 tháng 2 năm 1961, do Trung ương cục miền Nam lãnh đạo, sau đó gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Quân Giải phóng Miền Nam đã thực hiện chiến tranh du kích chống lại chính quyền Sài Gòn, với chi viện về vũ khí và người từ miền Bắc.
Trước 1975, Mặt trận này tuyên bố là tổ chức độc lập với Miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi đó tuyên bố chủ quyền trên cả nước cho đến khi Cộng hòa Miền nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở miền Nam năm 1969. Từ 31 tháng 1 năm 1977, tổ chức này sát nhập hoàn toàn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngày nay Nhà nước Việt Nam khẳng định Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các mặt trận trước đó và sau này là các tổ chức chính trị - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân dưới lá cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra. Tuy nhiên trước đây sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và các tổ chức tương tự không công khai với đối phương (nhưng có công khai với đối tượng trong thành phần cách mạng hay cảm tình cách mạng), do mặt trận mang ý nghĩa là một liên minh chính trị gồm nhiều thành phần[cần dẫn nguồn].
Mục lục
Tên gọi khác
Trong các chiến dịch Tố Cộng của mình năm 1956, Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đã phổ biến cụm từ Việt Cộng để chỉ những người "Cộng sản Việt Nam".[3] viết ngắn gọn của từ Việt Nam Cộng-sản, (Vietnamese communist). Sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập, nhiều người Nam Việt Nam cũng gọi những người tham gia Mặt trận bằng cụm từ này. Khi quân Mỹ vào Nam Việt Nam, họ cũng chịu ảnh hưởng của cách gọi này và gọi một cách ngắn gọn là VC (viết tắt từ "Việt Cộng" và đọc theo tiếng Anh là "vi-xi"), hoặc biến tấu đi thành Victor Charlie (nguyên nhân là do hai chữ cái V và C lần lượt được phát âm là Victor và Charlie theo bảng mẫu tự ngữ âm của NATO).Bối cảnh chính trị - xã hội
Theo nhận định của người Mỹ, theo Hiệp định Genève, 190.000 quân của Quân đội viễn chinh Pháp, và 900.000 thường dân di chuyển từ miền Bắc Việt Nam để vào miền Nam Việt Nam; hơn 100.000 binh lính Việt Minh và dân thường di chuyển từ Nam ra Bắc. Với chính quyền Ngô Đình Diệm, việc một số lượng lớn người vào Nam là một thành công lớn, coi như bằng chứng phản kháng chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bằng chứng thuyết phục được người Mỹ, thứ hai lực lượng này sẽ hỗ trợ cho chính quyền của ông. Sau đó những người di cư nhận được viện trợ của Mỹ còn cao hơn dân bản địa (100 USD, cao hơn thu nhập bình quân hàng năm của người miền Nam).Hiệp định Genève dẫn đến Việt Nam tạm thời bị phân chia thành hai vùng tập trung quân sự. Miền Bắc đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại miền Nam, với sự hậu thuẫn của người Mỹ, Thủ tướng Ngô Đình Diệm của chính phủ Quốc gia Việt Nam đã thực hiện cuộc trưng cầu dân ý để phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính thể Việt Nam Cộng hòa.
Theo nhận định của Mỹ, Ngô Đình Diệm trong một thời gian ngắn đã làm được nhiều hơn mong đợi, lên nắm quyền trong vòng 10 tháng vượt qua các cuộc đảo chính, ổn định tình hình, thành lập một nhà nước có chủ quyền vào năm 1955 được 36 quốc gia công nhận, soạn thảo một hiến pháp mới, và mở rộng kiểm soát Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tới các khu vực được Việt Minh kiểm soát trong suốt Chiến tranh Đông Dương... Theo ước tính của Pháp, vào năm 1954, Việt Minh kiểm soát 60% - 90% nông thôn miền Nam Việt Nam.
Tháng 1-1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố tẩy chay bầu cử Hiệp định Genève, với lý do ông đưa ra là không thể có bầu cử tự do tại miền Bắc được cai trị bởi "nhà nước cảnh sát". Ông không loại trừ khả năng thống nhất đất nước trong hòa bình và dân chủ với điều kiện bầu cử không có sự cưỡng ép hay đe dọa cử tri.[4]
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhiều lần đã cố gắng đề nghị Chính phủ Việt Nam Cộng hoà trong tháng 7 năm 1955, tháng 5 và tháng 6 năm 1956, 1958, tháng 7 năm 1959, và tháng 7 năm 1960, đề xuất tham vấn đàm phán "các cuộc bầu cử tự do chung bằng cách bỏ phiếu kín" và tự do hóa quan hệ Bắc-Nam nói chung. Chính phủ Việt Nam Cộng hoà hoặc từ chối, hoặc im lặng.[cần dẫn nguồn]
Chính phủ Mỹ cũng cho rằng so với thời những nguồn tin khác nhau chỉ ra cho Tổng thống Mỹ Eisenhower thấy 80% dân chúng sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh, thì sẽ được rút ngắn lại, do ông Ngô Đình Diệm đã đạt được một số thành công, trong khi Miền Bắc đang gặp nhiều khó khăn do khan hiếm lương thực và mất uy tín sau cải cách ruộng đất được tướng Giáp thừa nhận (dẫn đến một cuộc bạo động của nông dân Công giáo tháng 11 năm 1956).
Tuy nhiên sự thật các cải cách của ông kéo theo các biện pháp áp bức. Ông nắm quyền khi mà ngoài Sài Gòn và các vùng phụ cận, miền Nam Việt Nam được phân chia thành các vùng đất do Việt Minh kiểm soát và lãnh địa các giáo phái "thần quyền" như Cao Đài và Hòa Hảo. Ông chống lại bất đồng chính kiến, và đòi hỏi lòng trung thành tuyệt đối cá nhân với các quan chức hàng đầu. Tài liệu của Mỹ cũng cho biết Ngô Đình Diệm là một người Công giáo bảo thủ. Ngô Đình Diệm lúc đầu đã được chào đón nồng nhiệt trong một số người từng là thành viên Việt Minh. Nhưng chương trình cải cách điền địa của ông thất bại và dừng lại năm 1959.
Trong tháng 6 năm 1956, Ngô Đình Diệm hủy bỏ cuộc bầu cử hội đồng làng, có vẻ như vì lo ngại rằng một số lượng lớn Việt Minh có thể giành chiến thắng, thay vào đó là các các quan chức Chính phủ bổ nhiệm, là người miền Bắc, Công giáo hoặc thân cận. Năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tiết lộ rằng khoảng 15.000-20.000 người cộng sản đã bị giam giữ trong các "trại tập trung chính trị", trong khi Devillers đưa ra con số 50.000.
Tháng ba năm 1958, sau một bài xã luận "ăn da", chính phủ Ngô Đình Diệm đóng cửa các tờ báo lớn nhất ở Sài Gòn. Mùa xuân năm 1960, một nhóm các nhà lãnh đạo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản đến với nhau - ban hành Tuyên Ngôn Caravelle, một cuộc biểu tình bất bình chống chế độ Ngô Đình Diệm. Chính sách của Ngô Đình Diệm hầu như đảm bảo rằng những thách thức chính trị với ông ta sẽ bị liệt nằm ngoài luật pháp. Cuối cùng, những nổi lên từ các nguồn truyền thống quyền lực ở miền Nam Việt Nam - lực lượng vũ trang, các giáo phái tôn giáo, và nông dân vũ trang. Đến năm 1958, khoảng 1/3 tỉnh trưởng là sĩ quan quân đội, đến năm 1960, đã tăng lên đến gần 2/3; 1962, 7/8 của tất cả các tỉnh đã được lãnh đạo bởi các sĩ quan. Ông lập luận các mối đe dọa từ những người cộng sản để biện minh cho sự tập trung của mình về an ninh nội bộ.
Người Mỹ cũng nhận thức được sự yếu kém của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Theo nhận định của người Mỹ, Mỹ cũng thấy được sự vỡ mộng "đặc biệt là ở các tầng lớp có học", sự "bất mãn trong các sĩ quan quân đội", "nỗ lực của chế độ bảo đảm an ninh nội bộ khi cho rằng một chính phủ độc tài là cần thiết để xử lý các vấn đề của đất nước sẽ dẫn đến một áp lực liên tục của các yếu tố đối lập tiềm năng", "trong một khoảng thời gian dài, sự tích tụ bất bình giữa các nhóm khác nhau và các cá nhân có thể dẫn đến sự phát triển của phong trào đối kháng quốc gia"... Mỹ thấy cần ủng hộ việc thành lập một chính phủ mới ở miền Nam Việt Nam, không phân biệt thành phần.
Hội đồng an ninh quốc gia của Mỹ đưa ra quan điểm "Hỗ trợ miễn phí Việt Nam để phát triển một chính phủ mạnh mẽ, ổn định, và hiến pháp để cho phép Việt Nam Tự Do, để khẳng định một sự tương phản ngày càng hấp dẫn đối với các điều kiện trong vùng Cộng sản hiện nay". Từ năm tài chính 1946 - năm tài chính 1961, Việt Nam đứng thứ ba bảng xếp hạng nước ngoài NATO được Mỹ hỗ trợ, và trên toàn thế giới xếp thứ bảy. 75% viện trợ kinh tế của Mỹ cung cấp trong cùng thời kỳ đã đi vào ngân sách quân sự của Chính phủ Việt Nam, và nhiều dự án ngoài quân sự đã lọt vào chi tiêu phục vụ quân sự. Tuy nhiên can thiệp của Mỹ ngày càng tăng vào chính phủ Việt Nam Cộng hòa dẫn đến việc Tổng thống Ngô Đình Diệm lên tiếng phản đối.
Hoa Kỳ ước tính được khuyết tật do sự phụ thuộc của Chính phủ Việt Nam vào nguồn đầu tư vào cho các cơ sở của xã hội Việt Nam, các làng nông thôn. Có những bằng chứng tích lũy đủ để khẳng định nông dân oán giận chống lại Ngô Đình Diệm. Khi Kennedy nhậm chức 1960, 90% dân chúng nông thôn "tàn tạ và ốm yếu".
Theo Hoa Kỳ, Tuyên ngôn của Mặt trận tháng 12 năm 1960 đánh vào sự bất mãn này trong dân chúng. Mặt trận Dân tộc Giải phóng dùng khẩu hiệu lăng nhục Ngô Đình Diệm (Mỹ-Diệm) do đó giành lại sự thần bí của chủ nghĩa dân tộc trong Chiến tranh Đông Dương, kết hợp các bài ngoại tự nhiên của nông thôn Việt Nam. Hoa Kỳ bị xem là đáng khiển trách như một lực lượng hiện đại hóa một xã hội hoàn toàn truyền thống, như các nhà cung cấp vũ khí và tiền bạc cho một chính phủ đáng ghét, và như là một người nước ngoài, phá hoại khi họ hy vọng giải quyết vấn đề thống nhất đất nước bằng Hiệp định Genève, 1954. Còn các quan chức địa phương thì "tham nhũng và tàn bạo" trong khi "Ngô Đình Diệm hứa nông dân nhiều, giao ít".
Trong chương trình di dân từ ven biển lên Tây Nguyên, chỉ có 2% người dân miền Nam Việt Nam, đã hấp thụ 50% viện trợ cho nông nghiệp của Hoa Kỳ, và gây bất bình cho các tộc người Tây Nguyên. Tuy nhiên thất vọng và gây bất bình nhất là các "Ấp chiến lược". Ông Ngô Đình Diệm đã sai lầm trong việc lên án tất cả các những người dân tộc chủ nghĩa không theo Diemist như là công cụ của Bảo Đại hay Pháp.
Chính tất cả những điều này đã kích thích các phong trào đấu tranh hòa bình đòi thống nhất đất nước của dân chúng ở miền Nam. Tuy nhiên, tất cả đều bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa đàn áp, nhất là những người Cộng sản và Việt Minh cũ còn ở lại miền Nam, những người mà Tổng thống Ngô Đình Diệm cho là đối thủ tiềm tàng nguy hiểm nhất. Bị đàn áp, những người cộng sản miền Nam cùng với những đồng minh của mình tập hợp và tổ chức ra có một số tổ chức vũ trang, bán vũ trang để chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa một cách tự phát. Từ giữa 1957, những người cộng sản miền Nam đã áp dụng chiến thuật du kích phù hợp học thuyết quân sự Mao - Giáp.
Sự lệ thuộc quá nhiều của Việt Nam Cộng hòa vào Mỹ, chính sách kinh tế tuy có một số ưu điểm khuyến khích kinh tế phát triển nhưng hố sâu phân hóa xã hội lớn, cùng với việc chia lại ruộng đất, mà phần lớn đã được chính quyền Việt Minh tại miền Nam đã chia cho các nông dân nghèo, nay lại tập trung lại cho các địa chủ cũ. Trong khi đó, những người cộng sản đã tham gia đấu tranh giành độc lập, những uy tín có được từ thời tiền cách mạng, Cách mạng Tháng Tám và Kháng chiến chống Pháp, đã hướng nhiều người dân tin tưởng vào người cộng sản.
Ngoài ra thì sự phân chia đất nước khiến cho nhiều gia đình phân ly, những người có tinh thần dân tộc cũng bất bình. Do vậy, những người cách mạng ở miền Nam đã ủng hộ cho giải pháp khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khi Hội nghị Trung ương 15 của Đảng Lao động tháng 1 năm 1959 tán thành khởi nghĩa ở miền Nam, phong trào cách mạng có biến chuyển. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không muốn can thiệp trực tiếp vào tình hình miền Nam, trong khi vấn đề cấp bách là cần có một lực lượng chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa và có chính sách độc lập, từ nhu cầu đó Mặt trận được thành lập.
Lịch sử
Thành lập

Huy hiệu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Theo Nghị quyết Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, được đăng tải trên báo Nhân dân khi đó "nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới... Để bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở. Mặt trận này phải đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân tộc đa số, các dân tộc thiểu số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo, và tất cả những người có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm. Mục tiêu phấn đấu của mặt trận này là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Công tác mặt trận phải nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ lực lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung lập, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh chung chống Mỹ - Diệm nhằm giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc[6].
Mặt trận đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Cục miền Nam. Những người Cộng sản miền Nam hoạt động dưới danh nghĩa Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam, hoạt động công khai và là thành viên tham gia Mặt trận. Trung ương Cục Miền Nam là tổ chức đại diện Đảng Lao động trong Nam, hoạt động bí mật (đến 1969 công khai), thời kỳ chiến tranh không công khai về vai trò chỉ đạo (trong khi Đảng Nhân dân Cách mạng là đảng hoạt động công khai), trực tiếp chỉ đạo hay phối hợp với Trung ương Mặt trận - Chính phủ, với Ban dân vận Trung ương Cục (phụ trách dân vận - mặt trận - chính quyền) là cầu nối. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt đại diện tại căn cứ địa của Mặt trận (và Chính phủ cách mạng sau này), và Mặt trận (Chính phủ cách mạng lâm thời) đặt đại diện tại Hà Nội.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên) trong vùng căn cứ của mình ở tỉnh Tây Ninh, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động bí mật ở miền Nam. Lãnh đạo ban đầu là Võ Chí Công, Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát. Huỳnh Tấn Phát giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương.
Từ khi ra đời, Mặt trận được tổ chức để thu hút tất cả các nhà hoạt động chống Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả những người theo chủ nghĩa cộng sản, với mục tiêu kết nối tất cả những người đối nghịch với "Mỹ Diệm". Trên danh nghĩa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một phong trào giải phóng, liên minh của các đảng phái, tổ chức chính trị - xã hội tại miền Nam và có lập trường, chủ quyền kiểm soát riêng nhwung không độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Theo ước tính của Mỹ, trong vòng vài tháng thành lập, số thành viên của nó tăng gấp đôi, gấp đôi một lần nữa vào mùa thu năm 1961, và sau đó tăng gấp đôi vào đầu năm 1962, ước tính khoảng 300.000 người.
Ngày 15-12-1961 (mồng một Tết Tân Sửu), tại vùng giải phóng Tây Ninh, mặt trận đã làm lễ kết nạp Lực lượng võ trang giải phóng là thành viên chính thức. Tại cuộc mít-tinh này, Ban tổ chức đã giới thiệu đoàn chủ tịch (cũng là bộ phận lâm thời công khai của mặt trận) gồm các vị: Bác sĩ Phùng Văn Cung thay mặt giới trí thức Sài Gòn; Ông Nguyễn Văn Linh thay mặt Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam; Ông Ung Ngọc Ky thay mặt Đảng dân chủ Việt Nam; Ông Nguyễn Văn Hiếu thay mặt Đảng xã hội cấp tiến Việt Nam; Ông Lê Thanh thay mặt Lực lượng quân giải phóng. Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận là Nguyễn Hữu Thọ (1961).
Đại hội lần I
Đại hội lần thứ nhất khai mạc ngày 16 tháng 2 năm 1962 tại Tân Biên (Tây Ninh) chính thức bầu Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch, Phó Chủ tịch: Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Huỳnh Tấn Phát, Ybih Aleo, Đại đức Sơn Vọng, Trần Nam Trung, và Nguyễn Văn Hiếu là Tổng thư ký Mặt trận. Ủy viên Đoàn Chủ tịch gồm có: Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng, Nguyễn Hữu Thế, Trần Bửu Kiếm, bà Nguyễn Thị Định, Hòa thượng Thích Thượng Hào, Ngọc đầu sư Nguyễn Văn Ngợi, Lê Quang Thành, ông Đặng Trần Thi.Mặt trận đã ra "Tuyên ngôn" và "Chương trình hành động 10 điểm" với mục tiêu đại diện cho quyền lợi của nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh nhằm đánh Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tiến tới sự thống nhất của Việt Nam. Mặt trận cũng quyết định lấy lá cờ nửa đỏ, nửa xanh có ngôi sao vàng năm cánh và bài "Giải phóng miền Nam" làm cờ và bài hát chính thức của Mặt trận...
Chương trình của Mặt trận: "Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, dân tộc Việt Nam ta đã chiến đấu không ngừng cho độc lập và tự do của Tổ quốc. Năm 1945, đồng bào cả nước đã đứng lên đánh đổ Nhật - Pháp giành chính quyền và đã anh dũng kháng chiến 9 năm, đánh bại xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, đưa cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc ta đến thắng lợi vẻ vang.Tại hội nghị Giơ ne vơ tháng 7-1954, đế quốc Pháp buộc phải cam kết rút quân khỏi Việt Nam và các nước tham dự hội nghị đều trịnh trọng tuyên bố công nhận chủ quyền, độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam... Vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc, quyết phấn đấu đến cùng cho những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thuận theo trào lưu tiến bộ của thế giới, Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời.Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam Việt Nam không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, thực hiện độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình trung lập ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất tổ quốc...Vì hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì vận mạng của dân tộc, vì đời sống của chúng ta, vì tương lai của ta và con cháu ta. Tất cả hãy đứng lên !Tất cả hãy đoàn kết lại! Hãy xiết chặt hàng ngũ, tiến lên chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt Trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam để đánh đổ ách thống trị tàn ác của đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm để cứu nước, cứu nhà.
Chúng ta nhất định thắng, vì lực lượng đoàn kết của nhân dân ta là lực lượng vô địch, vì chính nghĩa thuộc về chúng ta, vì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời ngày nay đang tan rã và đi tới diệt vong. Trên thế giới, phong trào hoà bình dân chủ, độc lập dân tộc đang phát triển rộng rãi, mạnh mẽ và ngày càng thu được nhiều thắng lợi mới. Tình hình đó hết sức thuận lợi cho sự nghiệp cứu nước cứu nhà của chúng ta. Đế quốc Mỹ và tay sai của Mỹ nhất định sẽ thất bại! Sự nghiệp giải phóng dân tộc ở miền Nam Việt Nam nhất định sẽ thành công! Hãy đoàn kết, tin tưởng và phấn đấu anh dũng ! Tiến lên giành lấy thắng lợi huy hoàng cho dân tộc ta, cho Tổ quốc ta."[7]
Đại hội lần II
Ngày 1-11-1964, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã họp Đại hội lần thứ 2. Có 150 đại biểu tham dự. Đoàn Chủ tịch Mặt trận được bầu gồm có: Chủ tịch: Nguyễn Hữu Thọ - đại diện liên minh các đảng yêu nước, Phó chủ tịch: Abil Aleo - đại diện những người Tin Lành yêu nước, người dân tộc Êđê, chủ tịch Phong trào tự trị các dân tộc Tây Nguyên, Phùng Văn Cung - đại diện liên minh các đảng yêu nước, Võ Chí Công - chủ tịch Đảng Nhân dân cách mạng VN, Huỳnh Tấn Phát - Tổng thư ký Đảng Dân chủ, Thích Thơm Mê Thế Nhêm - đại diện người Khmer yêu nước (mất 1966), Trần Nam Trung - đại diện Quân giải phóng Miền Nam. Các ủy viên: Nguyễn Thị Định, Trần Bạch Đằng, Thích Thiện Hào, Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Văn Ngợi, Phan Xuân Thái (Phan Văn Đáng), Nguyễn Hữu Thế, Đặng Trần Thi. Ban Thư ký: Huỳnh Tấn Phát (TTK), Lê Văn Huân, Hồ Thu, Ung Ngọc Kỳ, Hồ Xuân Sơn (phó TTK) [8]. Sau ông Nguyễn Văn Hiếu lại tham gia Đoàn chủ tịch.Ngày 8-1-1967, Mặt trận họp Đại hội bất thường, công bố Cương lĩnh mới, kế tục và phát triển chương trình hành động 10 điểm. Đại hội đã thông qua một chương trình mới phác thảo cách nhằm thu hút lực lượng người Việt Nam tham gia để đánh đuổi đế quốc Mỹ, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng hòa, và tạo ra một nền độc lập, hòa bình, dân chủ, trung lập, và thịnh vượng Nam Việt Nam, tiến tới hiệp thương thống nhất đất nước. Cương lĩnh cũng đưa ra các cải cách dân chủ và sự phát triển của nền kinh tế và văn hóa dân tộc.
Thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Từ ngày 6 đến 8 tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là nòng cốt, cùng với Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam do Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, đã lập ra Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để đối chọi với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ cách mạng lâm thời do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch, và Hội đồng cố vấn Chính phủ do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Hội đồng làm việc với Chính phủ theo cơ chế hiệp thương, song thực ra có quyền hơn. Chính phủ thực hiện các chức năng hành chính nhà nước bao gồm đại diện và quản lý hành chính lãnh thổ. Chính phủ cách mạng lâm thời đã được các nước theo phe cộng sản và một số nước thuộc Thế giới thứ Ba công nhận. Ngay trong tháng 6 năm 1969, cho đến ngày 5 tháng 11 năm 1975 đã có 23 nước công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có 21 nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Quyền lực của nó không phân biệt được với quyền của Đảng Lao động, theo nhận định phía Mỹ[9]. Bộ trưởng Quốc phòng Trần Nam Trung, Trưởng Ban Quân sự của Mặt trận cũng công khai là ủy viên Trung ương Đảng Lao động, thành viên Trung ương Cục, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Đồng Văn Cống công khai là thành viên Trung ương Cục Miền Nam của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, trong khi Nguyễn Văn Cúc (Tổng bí thư Đảng NDCM, tham gia thành lập CP) tuy không công khai là ủy viên Trung ương của Đảng Lao động, nhưng công khai là đại diện Đảng NDCM trong Trung ương Cục Miền Nam của Đảng Lao động (một số thành viên của Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam cũng công khai là thành viên Trung ương Cục, theo báo cáo tháng 12 năm 1969 về "Ủy ban quân sự Miền Nam".[cần dẫn nguồn]Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam được chính thức công nhận là một chính quyền tại Nam Việt Nam và là một trong 4 bên tham gia hiệp định. Tuy nhiên, những người lãnh đạo vẫn tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đã giành được quyền kiểm soát Nam Việt Nam vào năm 1975.
Hợp nhất với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Dưới sự chỉ đạo của Đảng Lao Động Việt Nam, từ ngày 15 đến 21 tháng 11 năm 1975, hội nghị hiệp thương chính trị được tổ chức để tiến tới thống nhất về mặt nhà nước. Đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Trường Chinh đứng đầu, đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do ông Phạm Hùng đứng đầu. Hội nghị đã tán thành tổ chức bầu cử Quốc hội thống nhất.Ngày 25 tháng 4 năm 1976 tổng tuyển cử trong cả nước được tổ chức, bầu ra 492 đại biểu của Quốc hội Việt Nam thống nhất. Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội họp phiên đầu tiên, đặt tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, xác định Thủ đô, bầu chính phủ, đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đây, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chính thức hợp nhất với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để ra đời chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của một quốc gia Việt Nam thống nhất.
Sau khi hợp nhất lãnh thổ và chính quyền, các đơn vị đoàn thể khác cũng tiếp tục hợp nhất. Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam Mặt trận bắt đầu ngày 31 tháng 1 năm 1977 đã tuyên bố hợp nhất Mặt trận với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Miền Nam Việt Nam thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tổ chức
Cơ cấu tổ chức
Ở cấp trung ương, Ủy ban Trung ương bầu ra Đoàn chủ tịch, là cấp cao nhất, giúp việc có các Ban chuyên môn của Mặt trận, hay các Hội đồng chuyên môn của Trung ương Mặt trận. Các cấp địa phương cũng có các ban thành lập theo quy định. Trong đó có cả Ban Quân sự, nhưng tương tự như Bộ Quốc phòng sau này nó chỉ làm nhiệm vụ hành chính. Quân giải phóng Miền Nam là lực lượng tham gia Mặt trận công khai là do Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng chỉ đạo, nhưng thực chất đều do các cấp ủy đảng, quân ủy lãnh đạo, theo cơ chế phức tạp, như cơ chế hiện nay với quân đội nhân dân. Bộ Tư lệnh chỉ đạo chuyên môn thuần túy quân sự theo phân công địa bàn của Đảng Lao động. Ước tính của Mỹ, đầu 1969 có 750.000 thành viên, trong đó 300.000 thành viên dân sự[10].Các tổ chức Mặt trận tổ chức tại cấp dưới theo vùng: Tây Nam Bộ, Trung Nam Bộ, Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Sài Gòn - Gia Định (Huỳnh Tấn Phát đứng đầu), Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, tỉnh Tây Ninh. Tổ chức Mặt trận cấp vùng chịu sự lãnh đạo của cấp Trung ương.
Ủy ban Mặt trận giải phóng địa phương được tổ chức ở 4 cấp: cấp miền, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Từ năm 1960-1967, Ủy ban Mặt trận giải phóng địa phương các cấp thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở cấp mình. Đến năm 1968 một số địa phương như Thừa Thiên-Huế, Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, Đà Nẵng... thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng thì Ủy ban nhân dân cách mạng làm nhiệm vụ của chính quyền. Sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời ra đời thì chính phủ và Ủy ban nhân dân cách mạng các cấp làm nhiệm vụ chính quyền.
Các tổ chức thành viên
Sau khi Mặt trận ra đời, hàng loạt các tổ chức của Mặt trận được thành lập và các tổ chức cách mạng ra đời tham gia Mặt trận[cần dẫn nguồn]:
Một người lính Quân Giải phóng Miền Nam, 1973
- Hội Liên hiệp Sinh viên Học sinh Giải phóng, chủ tịch Trần Bạch Đằng, phó chủ tịch Lê Văn Thanh, thành lập 24-4-1961
- Hội Liên hiệp Thanh niên Học sinh, Chủ tịch Trần Bửu Kiếm, thành lập 9-1-1961
- Kỳ ủy Đảng Dân chủ Miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Trần Bửu Kiếm, Tổng thư ký Huỳnh Tấn Phát, phó Tổng thư ký Ung Ngọc Kỳ, thành lập 31-1-1961
- Đảng Xã hội Cấp tiến Miền Nam Việt Nam, Tổng thư ký Nguyễn Văn Hiếu, sau là Nguyễn Văn Tiến, phó Tổng thư ký: Nguyễn Ngọc Thương, ủy viên Trung ương Lê Văn Thà, thành lập 1-7-1961
- Thông tấn xã Giải phóng
- Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (do Bộ tư lệnh Các Lực lượng Vũ trang Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ huy)
- Hội Phụ nữ Giải phóng, chủ tịch Nguyễn Thị Tú (về sau là Nguyễn Thị Định), thành lập 8-3-1961
- Ủy ban Tự trị Dân tộc Tây Nguyên (sau là Phong Trào Các Dân Tộc Tự Trị Tây Nguyên), chủ tịch Ybih Aleo, thành lập 19-5-1961
- Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước - chủ tịch Joseph Marie Hồ Huệ Bá
- Hội Lục hòa Phật tử - chủ tịch Thích Thiện Hào
- Hội Nông dân Giải phóng, Chủ tịch hội là Nguyễn Hữu Thế, thành lập 20-2-1961
- Hội Lao động Giải phóng (sau đổi là Liên hiệp đoàn Giải phóng), chủ tịch Hội là Phạm Xuân Thái, phó chủ tịch: Đặng Trần Thi
- Hội Văn nghệ Giải phóng - chủ tịch Huỳnh Minh Siêng (Lưu Hữu Phước)
- Ủy ban Đoàn kết Á Phi của miền Nam Việt Nam - chủ tịch Nguyễn Ngọc Thương
- Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới của miền Nam Việt Nam -chủ tịch Phùng Văn Cung
- Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (bộ phận của Đảng Lao động Việt Nam ở miền Nam Việt Nam, do Bí thư Trung ương Cục miền Nam đứng đầu) - công khai Chủ tịch Võ Chí Công, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh), ủy viên Trung ương công khai: Nguyễn Văn Linh và Nguyễn Văn Đông (Hai Văn, Phạm Xuân Thái, tức Phan Văn Đáng).
- Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Việt Nam sau đổi tên Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Hồ Chí Minh - chủ tịch Trần Bạch Đằng
- Hồng thập tự Giải phóng - chủ tịch Phùng Văn Cung
- Hội đồng Quân Dân Y
- Hội Nhà giáo yêu nước - chủ tịch Lê Văn Vỵ
- Báo Giải phóng
- Ủy ban nhân dân miền Nam Việt Nam đoàn kết với nhân dân Mỹ - chủ tịch Hồ Thu
- Hội nhà báo dân chủ và hòa bình: chủ tịch Tân Đức
- Hội phục hưng thiểu số hiến dâng cho Hòa Hảo: chủ tịch Nguyễn Thị Biên, Huỳnh Văn Trí
- Hội Phật giáo yêu nước: chủ tịch Thích Thiện Hảo
- Ban Củng cố Hoà bình chung sống đạo Cao Đài (Tòa Thánh Tây Ninh)[11]
- Cao Đài chi phái Tiên Thiên: Ngọc Đầu sư Nguyễn Văn Ngợi đứng đầu
- Ủy ban hòa bình thế giới Nam Việt Nam: đứng đầu Ung Ngọc Kỳ
- Ủy ban đoàn kết với nhân dân Mỹ Latinh: chủ tịch Thích Thiện Hảo, tổng thư ký: Phạm Văn Quang, Lê Văn Huấn
- Ủy ban bảo vệ trẻ em và phụ nữ: chủ tịch Bùi Thị Mê
- Hội những người kháng chiến cũ ở miền Nam Việt Nam, chủ tịch Phan Văn Đáng, phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Trần Bạch Đằng
- Nhóm những người đấu tranh cho hòa bình thống nhất độc lập Tổ quốc Việt Nam, bao gồm những binh sĩ trong quân đội Việt Nam Cộng hòa theo cách mạng thành lập 4-1-1961
Vai trò của Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam
Ngày 18/1/1962 trên sóng Radio Hà Nội tuyên bố Đảng Nhân dân cách mạng đã thành lập ngày 1/1/1962, là tổ chức có lập trường chống thực dân, đế quốc và phong kiến. Tuy không đề cập trực tiếp là tổ chức cộng sản, nhưng tuyên bố tuyên truyền chủ nghĩa Marx - Lenin tại miền nam Việt Nam. Trung ương Cục miền Nam và các khu ủy lãnh đạo trực tiếp, điều lệ đảng do Trung ương Đảng Lao động đề ra. Đứng đầu là bí thư Trung ương Cục, và Võ Chí Công đại diện đảng tại Mặt trận. Đảng Dân chủ trên cơ sở một phần Đảng Dân chủ năm 1944, do Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Tấn Phát đứng đầu, và Đảng Xã hội cấp tiến thành lập năm 1961 do Nguyễn Văn Hiếu đứng đầu, đều là đảng viên cộng sản. Theo tài liệu của Mỹ, Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam chịu chỉ đạo từ Trung ương Đảng ở Hà Nội, còn Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội cấp tiến, là "đối tác" của Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam[9].
Đảng Nhân dân Cách mạng theo điều lệ là đại diện giai cấp công - nông miền Nam Việt Nam.
Sự kiểm soát của Đảng Lao động Việt Nam
Trong suốt chiến tranh Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam không tuyên bố công khai rõ ràng về tính độc lập với Đảng Lao động "ở Miền Bắc" (chưa bao giờ thừa nhận là đảng của miền bắc dù mặc nhiên thừa nhận Đảng nhân dân cách mạng là đảng cộng sản ở miền nam), nhưng là đảng cộng sản ở miền Nam, là tiên phong lãnh đạo Quân giải phóng Miền Nam thông qua Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang, thành viên chủ chốt của Mặt trận, theo tài liệu Mỹ có được lúc đó quan hệ với đảng Lao động trên tình huynh đệ cộng sản. Tuy nhiên đảng công khai cử đại diện tham gia Trung ương Cục Miền Nam, là bộ phận đặt ở phía nam của Trung ương Đảng Lao động. Nhưng thực chất Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam chỉ là cánh tay phía Nam của Đảng Lao động Việt Nam, và là công cụ chủ yếu thông qua đó Hà Nội kiểm soát cuộc nổi dậy chống lại "Mỹ-Diệm".{Theo tài liệu của Mỹ, Trung ương Cục Miền Nam là Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam (sau đổi thành Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam VN), nhưng năm 1969 khi thành lập Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, Trung ương Cục Miền Nam lại là đại diện của Đảng Lao động Việt Nam (được hiểu như có trụ sở tại Miền Bắc) tại miền Nam Việt Nam, và độc lập với "Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng").
Theo nhận định của Mỹ dựa vào các tin tình báo, giới lãnh đạo cộng sản tại miền Bắc đứng đằng sau sự hình thành Mặt trận và các cuộc nổi dậy ở miền Nam. Họ đề ra chiến lược quân sự lẫn chính trị cho các nhà lãnh đạo Mặt trận tại miền Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ và Việt Nam Cộng hoà vẫn không nắm rõ sự tác động của Miền Bắc đến mức nào giai đoạn trước và sau năm 1959 do Miền Bắc phủ nhận hoàn toàn sự can thiệp trong giai đoạn đầu, nhưng công khai lãnh đạo giai đoạn 1959-1961 và hỗ trợ vào giai đoạn sau.
Về chiến lược
Theo nhận định của Mỹ, Mặt trận tuyên truyền tranh thủ thành phần dân chúng bất mãn, và thành lập lực lượng "Phong trào giải phóng nhân dân Việt Nam", một đơn vị quân sự bao gồm các cựu chiến binh Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, tù nhân chính trị chạy thoát, và các cán bộ cộng sản (1957). Một ví dụ sau này là "Hội Phật Giáo Việt Nam-Campuchia", một trong các tổ chức tuyên truyền cho khẩu hiệu "Hòa bình và Hòa Hợp dân tộc."Theo nhận định của Mỹ, trước năm 1959, Miền Bắc bị giằng xé giữa chính sách thân Liên Xô "cùng tồn tại hòa bình", và chính sách thân Trung Quốc cổ vũ cho cho bạo lực cách mạng vô sản cho dù Trung Quốc không thích viện trợ nhiều cho Việt Nam. Về kinh tế, Miền Bắc cũng đạt được thành tích về kinh tế từ 1959, nhất là công nghiệp.
Đến năm 1959, có vẻ như có khả năng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã chọn để theo đuổi một chiến lược "súng và bơ", và thu được viện trợ cần thiết của Liên Xô và Trung Quốc. Nghị quyết 15 năm 1959 và Nghị quyết đại hội Đảng III, Đảng Lao động công khai hỗ trợ cho cuộc chiến ở Miền Nam.
Trong suốt thời gian chiến tranh Miền Bắc luôn khẳng định là chỉ chi viện, hỗ trợ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bao gồm cả phối hợp chỉ đạo quân sự chứ không can thiệp trực tiếp vào chính sách đối nội - ngoại của Mặt trận. Sau chiến tranh, nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam luôn khẳng định Đảng lãnh đạo toàn bộ cách mạng, nhưng trong vài năm đầu tiên các hoạt động vũ trang do các cấp chỉ huy địa phương tự quyết định ngoài các chỉ thị từ trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại miền Bắc.[cần dẫn nguồn]
Philippe Devillers, nhà phân tích người Pháp nhận định: những người kháng chiến buộc phải hành động, cho dù có sự hỗ trợ từ Hà Nội hay không, bởi các đồng đội của họ bị bắt, bị bỏ tù và bị tra tấn. Ông này công bố tài liệu của Nambo Veterans of the Resistance Association, tháng 3/1960, Mặt trận tuyên bố kêu gọi "đấu tranh" để "giải phóng mình từ sự phục tùng Mỹ, loại bỏ tất cả các căn cứ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, trục xuất các cố vấn quân sự Mỹ..." và kết thúc "chế độ thực dân và chế độ độc tài phát xít của nhà Ngô". Ông cũng nhận định "chính phủ Nam Việt Nam cuối cùng đã phá hủy sự tin tưởng của người dân, mà nó đã giành được trong những năm đầu, và thực tế đã đưa họ vào cuộc nổi loạn và tuyệt vọng". Arthur Schlesinger, Jr. cũng có nhận định tương tự.
Ủy ban giám sát thi hành Hiệp định lại không thể kiểm tra hết các cơ sở để khẳng định khả năng hai bên sử dụng vũ lực. Năm 1959 và 1961 Ủy ban này đã công bố rằng Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã trắng trợn vi phạm các quy định kiểm soát vũ khí của Hiệp định Geneva, cho dù lưu ý vấn đề lật đổ ở miền Nam Việt Nam.
Chính phủ Hoa Kỳ, trong sách trắng về Việt Nam năm 1961 và 1965, đã đổ lỗi cho sự nổi dậy trên là "xâm lược" của Hà Nội, tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam luôn là công cụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đối phương đáp lại các cuộc nổi dậy bắt đầu như là một cuộc nổi loạn chống lại chính phủ áp bức của Ngô Đình Diệm, và chỉ từ cuối năm 1960, khi Hoa Kỳ sẽ cam kết nguồn lực lớn để giúp chính phủ Diệm trong cuộc chiến của mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thúc đẩy cuộc chiến với khẩu hiệu giải phóng miền Nam Việt Nam khỏi sự xâm lược của Mỹ.
Về tổ chức
Theo nhận định của Mỹ, cơ cấu chỉ huy cộng sản khá phức tạp với một loạt các hội đồng, ủy ban, ban giám đốc lồng vào nhau. Tất cả đều được kiểm soát bởi Ủy ban Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam Hà Nội. Cấu trúc tổ chức chồng chéo, trùng lặp và dư thừa để tạo tính đàn hồi, và cũng để tăng tính linh hoạt, có thể điều chỉnh để tách rời hay loại trừ giữa các thành viên trong tổ chức.[12]Tổng thể cấu trúc lực lượng cộng sản tại miền Nam theo phía Mỹ gồm 3 thành phần:
- Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam: thay mặt cho Đảng Lao Động Việt Nam tại miền Bắc chỉ đạo phong trào chống Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hoà tại miền Nam. Trung ương Cục miền Nam bao gồm một số hoạt động công khai là một ủy ban điều hành của Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam, với đội ngũ nhân viên có liên quan để phối hợp các nỗ lực chiến tranh. Hà Nội thực hiện việc chỉ đạo chiến tranh tại miền Nam thông qua liên lạc với cấp lãnh đạo tại Văn phòng Trung ương Cục Miền Nam và các Khu ủy trực thuộc Trung ương. Tất cả các quyết định chỉ đạo của Đảng Lao động Việt Nam đều bí mật, chỉ công khai trong đội ngũ những người cách mạng, các đảng anh em. Các chính sách liên quan đến xã hội chủ nghĩa chỉ được phổ biến trong đảng viên và quần chúng theo cách mạng, chứ không công khai bên ngoài. Sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng bí mật để tạo ra một tổ chức hoàn toàn độc lập chính sách của Miền Bắc.[cần dẫn nguồn]
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là tập hợp của các nhóm chống Diệm và những người thừa kế, có cảm tình cộng sản. Vài nhóm thuộc Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam, một số không thuộc, hay có sự liên kết lỏng lẻo hoặc cảm tình. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là vỏ bọc chính trị và tập hợp lực lượng rộng rãi cho sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam thông qua Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam đối với toàn bộ phong trào cách mạng tại miền Nam Việt Nam. Mặt trận thành lập còn để bảo đảm tính pháp lý cho cuộc chiến ở Miền Nam và thu hút những thành phần xã hội không sử dụng học thuyết cộng sản để tuyên truyền. Do quân đội dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam nên Mặt trận và chính quyền không có quyền chỉ huy quân sự, chỉ quản lý trên danh nghĩa lực lượng vũ trang. Điểm này rất giống hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.[cần dẫn nguồn]
- Quân giải phóng bao gồm lực lượng ngoài Bắc vào và lực lượng được tuyển mộ tại chỗ do Trung ương Cục nhận chỉ đạo từ Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam điều khiển. Bên cạnh một ban lãnh đạo song song làm "vỏ bọc" còn có các thành viên Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam giữ vị trí chỉ huy quan trọng nhất trong quân đội, và giám sát hoạt động tất cả các nhóm khác đến cấp thôn, bản. Về phía cách mạng, Quân giải phóng được định nghĩa khác. Trong giai đoạn đầu Miền Bắc phủ nhận can thiệp quân sự ở miền Nam, nên các chỉ thị Trung ương đảng mang tính bí mật cao. Sau này khi chiến tranh leo thang, Quân đội ngoài Bắc vào ngày càng nhiều thì Miền Bắc công khai quyền quân sự, trong sự phối hợp với Bộ tư lệnh của quân giải phóng. Để tạo cho Mặt trận một vị thế độc lập tương đối, nên phía cách mạng đôi khi cũng tạo một sự phân biệt nhất định giữa "quân đội nhân dân" và "quân giải phóng" (dù nhiều đơn vị có cả người bắc và nam) nhưng điều này không có ý nghĩa vào giai doạn cuối của chiến tranh. Cụ thể thành lập các quân đoàn, bao gồm cả lực lượng ngoài bắc và tuyển mộ tại chỗ. Đến giai đoạn này sự phân biệt Quân Giải phóng và Quân đội Nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có ý nghĩa nữa. Và sau 30/4/1975 hai lực lượng vũ trang của Miền Bắc và Miền Nam chính thức hợp nhất năm 1976 sau khi thống nhất nhà nước.[cần dẫn nguồn]
Đảng Lao động Việt Nam chia chiến trường miền Nam thành 5 khu vực B-5 - Quảng Trị (giáp vĩ tuyến 17), B4- Trị Thiên, B3 - Tây Nguyên, B1 - Khu V, B2 - Nam Bộ (từ cực Nam của Nam Trung bộ và Tây Nguyên vào - tương ứng từ Quảng Đức, Tuyên Đức và Ninh Thuận, gồm Khu VI, VII, VIII, IX, X, Sài Gòn - Gia Định), có sự thay đổi ranh giới và phân chia theo thời gian. Về hình thức Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng chỉ huy toàn bộ quân Giải phóng trên toàn miền Nam. Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Hà Nội giám sát tất cả nhưng trực tiếp phụ trách các khu Quảng Trị, Trị Thiên, Khu V và Tây Nguyên. Về mặt chính trị, phân vùng có khác, Khu ủy Trị Thiên và Khu ủy Khu V (địa bàn rộng hơn Khu V về quân sự) nhận chỉ thị trực tiếp từ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chứ không phải từ Trung ương Cục miền Nam. Tại mỗi Khu, Khu ủy thực hiện chỉ đạo đối với lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn Khu. Ban Thống nhất thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam điều phối các vấn đề phức tạp.[cần dẫn nguồn]
Theo nhận định của Mỹ, Trung ương Cục miền Nam có vai trò nổi bật trong việc giám sát lực lượng vũ trang tại Nam Bộ (B2). Trên danh nghĩa, Quân Giải phóng là một phần của một phong trào dân tộc giải phóng. Theo nhận định của Mỹ, trong thực tế nó đã được kiểm soát bởi Trung Ương Cục Miền Nam, mà lần lượt được kiểm soát bởi Đảng Lao động. Quân đội Nhân dân Việt Nam khi vào các địa bàn này cũng chịu sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam và Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền.[cần dẫn nguồn]
Theo định nghĩa thông thường của Mỹ, Quân giải phóng để chỉ Quân đội thuộc phía cách mạng ở địa bàn B2. Nhưng cũng có định nghĩa khác. Sự phân biệt của phía Mỹ có tính chất chiến lược trong quân sự chứ không vì các mục đích thuần túy chính trị. Thực chất tất cả lực lượng vũ trang do Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo, trực tiếp là các Khu ủy và Quân ủy từng quân khu hay Trung ương cục Miền Nam và Quân ủy Miền, Khu. Các tổ chức khác của Mặt trận đều do Trung ương Đảng lãnh đạo và đều tôn vinh Hồ Chí Minh làm lãnh tụ, dù cơ cấu tổ chức và tuyên bố bên ngoài độc lập với hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ cộng hòa [13][14].
Trên thực tế cơ cấu tổ chức của phía cách mạng phức tạp và biến chuyển hơn các tin tức từ phía đối phương khai thác được. Tựu trung, để tạo cho lực lượng cách mạng ở miền Nam một vị thế chính trị độc lập với vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nâng cao vị thế của họ trên bình diện quốc tế, có lợi cho cách mạng, nhất là trong thu hút lực lượng, tranh thủ ủng hộ quốc tế, và trên bàn đàm phán, tránh mang tiếng Miền Bắc "xâm lược"... nên cơ cấu tổ chức của lực lượng cách mạng ở miền Nam độc lập với các thiết chế ở miền Bắc, bao gồm cả Đảng, Mặt trận, chính quyền, quân đội,... Sau 30/4/1975 mới công khai đảng Nhân dân Cách mạng là bộ phận của Đảng Lao động, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là bộ phận của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Riêng Mặt trận và chính quyền đại diện lãnh thổ quản lý, thì sáp nhập sau các hội nghị hiệp thương, bầu cử và địa hội thống nhất.[cần dẫn nguồn]
Về lãnh đạo
Trong thời gian đầu, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận chính quyền Miền Nam có địa vị tương đương, nhưng không công nhận chính thể Việt Nam Cộng hòa và hai quốc gia khác nhau, nhằm tranh thủ đấu tranh thống nhất đất nước bằng hòa bình. Các cuộc đấu tranh ở Miền Nam giai đoạn này Miền Bắc cơ bản không kiểm soát được hoàn toàn, mà do các đảng bộ miền Nam chỉ đạo, có khi vượt ngoài chỉ đạo của Trung ương. Sau Hội nghị Trung ương 15 và sau này ra đời Mặt trận, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không còn công nhận Việt Nam Cộng hòa để công khai ủng hộ cho phía cách mạng Miền Nam.Trong thời gian đầu khi lực lượng cộng sản miền Nam còn yếu, Miền Bắc luôn phủ nhận sự can thiệp vào các vấn đề nội bộ của miền Nam, nhưng sau thì Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phát hiện đường mòn Hồ Chí Minh và các lực lượng từ Bắc di chuyển vào thì Việt Nam Dân chủ cộng hòa công khai ủng hộ cho lực lượng Quân Giải phóng, các lực lượng từ Bắc vào được xem là một bộ phận của lực lượng cách mạng Miền Nam, chịu sự chỉ đạo chung của Đảng Lao động, "Đảng nhân dân cách mạng", Mặt trận và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên ngoài tham gia chỉ đạo về quân sự, với danh nghĩa giúp đỡ để hoàn thành mục tiêu chung, Miền Bắc không thừa nhận chỉ đạo về đường lối chính sách đối ngoại đối nội của phái Mặt trận, tạo uy thế có tính độc lập trong chính sách của phía Mặt trận, nhằm thu hút thêm quần chúng ủng hộ cách mạng, phân hóa kẻ thù, và tạo thêm sự ủng hộ từ các lực lượng chính trị khác trong và ngoài nước, nhất là các nước nằm ngoài phe Xã hội Chủ nghĩa. Về phía đối phương, họ lúc thì khẳng định Mặt trận là do Miền Bắc thành lập để phản đối Miền Bắc xâm lược, nhưng nhiều khi họ luôn khai thác các yếu tố sự độc lập của Mặt trận để chia rẽ nội bộ giữa Mặt trận và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[cần dẫn nguồn]
Về hợp nhất Mặt trận, các đoàn thể và chính quyền là mang tính nguyên tắc trên cơ sở pháp lý. Sau 30/4/1975 trên thực tế tồn tại hai chính quyền có lãnh thổ riêng và chính sách riêng, nhưng lúc này Đảng Lao động công khai chỉ đạo cả Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Trong thời gian còn chiến tranh thì các chỉ đạo chính sách với Mặt trận và Chính phủ Cách mạng là mang tính bí mật, đôi khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời có tuyên bố không giống nhau thể hiện sách lược của đảng. Do Chính phủ khi đặt trụ ở tại Tây Ninh hay Campuchia, hay Quảng Trị, hay phần lớn thành viên ở ngoài Bắc do đó các chỉ thị từ Trung ương Đảng là trực tiếp hay thông qua Trung ương Cục Miền Nam. Các lãnh đạo Mặt trận và chính quyền là đảng viên công khai hay bí mật nhiều lần tham gia vào các cuộc họp ra quyết định của Đảng liên quan công tác của họ.
Đối phương thường cho Mặt trận không có thực quyền, mà thực quyền thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không chuẩn xác. Vì các thiết chế nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ ra các văn bản chỉ đạo đối với Miền Bắc, và các văn bản ủng hộ cho Miền Nam chứ không có các văn bản chỉ đạo. Các văn bản chỉ đạo thuộc thiết chế của Đảng, mà Đảng được phía cách mạng định nghĩa không chỉ thuộc Miền Bắc như sau này thừa nhận. Hệ thống của Đảng trụ sở tại Hà Nội nhưng chỉ đạo xuyên suốt từ miền Bắc đến miền Nam, nhiều ủy viên Bộ Chính trị và Trung ương Đảng cũng công tác trong Nam, trong đó một bộ phận tham gia Trung ương Cục Miền Nam. Trong khi đó chính quyền ngoài Bắc gồm nhiều người ngoài Đảng hay các đảng Xã hội và Dân chủ.
Đảng lãnh đạo toàn bộ (sau này được công khai), nhưng đường lối chính sách của Mặt trận có tính độc lập bề ngoài vì Mặt trận gồm nhiều thành phần, nhưng chịu chỉ đạo bí mật từ các cấp lãnh đạo Đảng theo nguyên tắc xác lập trong nội bộ Mặt trận. Các lãnh đạo của Mặt trận nhiều người không công khai là đảng viên cộng sản (trừ các vị công khai là lãnh đạo Đảng Nhân dân Cách mạng), sau này mới công khai, nhằm tạo ra một vị thế đa thành phần tranh thủ ủng hộ quốc tế, và thu hút lực lượng rộng rãi hơn, nhất là các thành phần ở đô thị, tầng lớp trên tư sản dân tộc hay trí thức, hay tín đồ và chức sắc các tôn giáo,... Điểm này rất giống với Mặt trận Việt Minh trước đây, nhiều đảng viên trong Mặt trận hoạt động danh nghĩa trí thức hay của đảng Dân chủ và đảng Xã hội.
Nhìn chung tổ chức của phía cách mạng đều do Đảng lãnh đạo toàn bộ như sau này thừa nhận, và các tin tức bóp méo có tính chất chia rẽ nội bộ đối phương khai thác thời chiến tranh và cả sau này đều không có sơ sở, như không biết Mặt trận là Cộng sản hay hai quân đội riêng độc lập nhau hay mâu thuẫn giữa Mặt trận và Miền Bắc. Mặt khác sự chỉ đạo toàn bộ này chỉ công bố sau chiến tranh, thể hiện rõ sách lược phân hóa kẻ thù, "đánh lạc hướng" và tranh thủ lực lượng của Đảng. Càng về cuối cuộc chiến tranh thì tính chất giống nhau về bề ngoài của phía cách mạng với miền Bắc càng bộc lộ khi lực lượng của họ mạnh lên, như các khẩu hiệu tuyên truyền về Xã hội Chủ nghĩa, hay các biểu tượng Lenin, Hồ Chí Minh,... cho dù đến 1976-1977 đất nước mới thống nhất chính thức hệ thống chính trị và tuyên bố đi lên Xã hội Chủ nghĩa cả nước chỉ đặt ra từ đại hội IV.[cần dẫn nguồn]
Về quân sự
Phía đối phương có khi phân chia quân giải phóng (với quân đội nhân dân) để chỉ lực lượng ở B2 là căn cứ vào thẩm quyền chỉ huy, vì từ B2 trở vào là do Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam chỉ huy - là chỉ huy Quân giải phóng công khai khi quân giải phóng mới thành lập. Trên thực tế, B2 là địa bàn xa, Trung ương cần một ban chỉ đạo trực tiếp nên thiết lập Trung ương Cục Miền Nam để chỉ đạo. Cơ cấu tổ chức của phía cách mạng địa bàn này cũng khác biệt với các địa bàn do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Như Trung ương có Trung ương Đảng thì B2 có Trung ương Cục, Trung ương có Bộ Tổng tư lệnh, thì B2 có Bộ Tư lệnh Miền, Trung ươngcó quân ủy Trung ương thì B2 có quân ủy Miền... tức các thiết chế tương tự như ở Trung ương, dưới nữa mới đến các Khu hay quân khu, tương tự như các khu do Trung ương trực tiếp chỉ đạo, nhưng vẫn chịu chỉ đạo thông suốt từ Trung ương Đảng.[cần dẫn nguồn]
Theo nhận định của Mỹ, lực lượng quân chủ lực gồm từ cả ngoài Bắc vào, được trang bị vũ khí hạng nặng, tỷ lệ đảng viên cao, trình độ học vấn tốt nghiệp phổ thông, được huấn luyện chu đáo. Quân địa phương thường chiến đấu gần tỉnh nhà của họ, không cần đảng viên, không cần biết chữ, dù hoạt động chuyên nghiệp. Du kích hầu hết là nông dân nghèo hoạt động bán thời gian ở địa phương, tham gia xây dựng công sự, vận chuyển khí tài, đánh địch... chịu chỉ đạo của quân giải phóng ở mức độ thấp hoặc của Mặt trận. Đôi khi có sự thiếu hụt nhân lực phải bổ sung nhưng ít có hoán chuyển và quân chủ lực luôn bảo đảm tinh nhuệ nhất. Lính miền Bắc khi vào Nam vẫn giữ phù hiệu, dù có cá nhân độn vào lực lượng tiểu đoàn Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Các đơn vị từ miền Bắc di chuyển sâu hơn về phía Nam cần phối hợp nhiều hơn với Quân Giải phóng và các lực lượng tại địa phương. Về công khai tất cả các lực lượng vũ trang tại miền Nam đều do Bộ Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Giải phóng thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ huy. Việc phân chia quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân đội Việt Cộng cũng một phần nhằm mục đích chia rẽ, nhưng chủ yếu để có chiến thuật quân sự thích hợp, vì quân miền Bắc được huấn luyện tốt hơn lực lượng tại chỗ.
Theo nhận định của Mỹ, trong khi Bắc Việt Nam và đồng minh của họ cố gắng ngụy trang tổ chức thực sự chỉ đạo chiến tranh, điều quan trọng cần lưu ý là cả Quân Giải phóng và các chiến binh thường xuyên của quân Bắc Việt Nam đều thuộc một lực lượng. Mỗi bộ phận đều có đặc tính riêng biệt của địa phương, cách tuyển dụng, các nhiệm vụ, nhưng tựu chung họ đều được kiểm soát bởi bộ chỉ huy ở Hà Nội.
Theo tài liệu của đảng cộng sản, khi đó chưa công khai, chỉ thị của Tổng quân ủy Trung ương chỉ rõ "Quân giải phóng Miền Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, do đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo,..."[15]
Hoạt động

Một cuộc tấn công của MTDTGPMNVN tại Sài Gòn năm 1965
Đường lối của họ là chống Mỹ, và trong một số hoàn cảnh chấp thuận thương lượng với phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tùy thuộc chính quyền đó do ai lãnh đạo, và hoàn cảnh cụ thể. Mặt trận còn chủ trương chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa mà theo họ là chế độ độc tài, đòi thi hành dân sinh dân chủ, bao gồm cả cải cách ruộng đất, xây dựng Miền Nam là một chính thể tự do dân chủ và đi đến hiệp thương với miền Bắc thống nhất nước nhà. Mặt trận thông qua nhiều tổ chức khác do họ điều khiển, tổ chức biểu tình chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tuyên truyền kêu gọi "Hòa bình và Hòa giải dân tộc" để thu hút quần chúng, cô lập và phân hoá đối phương.
Mặt trận còn chủ trương cho Tây Nguyên tự trị và kết nạp tổ chức Phong Trào Các Dân Tộc Tự Trị Tây Nguyên[16]. Tuy nhiên sau chiến tranh chủ trương này không được Nhà nước hiện nay thực hiện, vì đất nước đã "thống nhất" rồi thì không thể chia xẻ nữa.
Các vấn đề liên quan đến Chủ nghĩa Cộng sản hay Chủ nghĩa Xã hội không được nhắc đến trong Cương lĩnh Mặt trận tương tự Việt Minh trước đây. Các khái niệm "chuyên chính vô sản", "quốc hữu hóa", "tập thể hóa", nhà nước của giai cấp công nhân không được phổ biến công khai và rộng rãi. Tuy nhiên đối phương luôn khẳng định Mặt trận là cộng sản, vì trong thành phần Mặt trận, Đảng Nhân dân cách mạng theo chủ nghĩa Marx-Lenin là lực lượng nòng cốt. Ngoài ra do các nguồn tin khác nhau họ biết sự chỉ đạo từ Đảng Lao động Việt Nam ở miền Bắc đối với Mặt trận.
Lãnh thổ
Mỹ ước tính vào giữa 1962 miền Nam Việt Nam có khoảng 2.500 làng, khoảng 85% tổng dân số, 20% đã được kiểm soát một cách hiệu quả bởi Việt Cộng. Mặc dù Việt Cộng kiểm soát số làng nơi sinh sống của ước tính 9% dân số nông thôn, tổng diện tích đại diện những ngôi làng này bao phủ một tỷ lệ lớn hơn nhiều của các vùng nông thôn. Ngược lại, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát có hiệu quả khoảng 47% dân cư nông thôn và 33% của các làng, phần lớn nằm ở vùng ven của các thành phố lớn, thị xã và các khu vực dân cư đông đúc hơn dọc theo các đường chính. Trong 47% còn lại của các vùng nông thôn và 44% dân cư nông thôn, không phải là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng không phải là Việt Cộng kiểm soát có hiệu quả, mặc dù Chính phủ Việt Nam ảnh hưởng dường như lớn hơn trong hầu hết những ngôi làng này. Theo tài liệu của Mỹ, năm 1965 lên đến 50% của vùng nông thôn ở miền Nam Việt Nam bây giờ, ở một số mức độ do Việt Cộng kiểm soát.Theo tài liệu phía cách mạng, năm 1962 phía cách mạng kiểm soát 76% lãnh thổ và 50% dân số toàn miền Nam. Từ 1964 đến 1965, vùng do Mặt trận kiểm soát chiếm 3/4 diện tích và 2/3 dân số miền Nam [17]. Năm 1968 Mặt trận quản lý 10/14 triệu người, trong đó "4 triệu sống trong vùng giải phóng và ít nhất 6 triệu rưỡi người nữa thuộc quyền cai trị bí mật của Mặt trận trong các vùng danh nghĩa là của Mỹ và Sài Gòn kiểm soát"[18]
Quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một chính thể lãnh đạo thực tế Miền Bắc Việt Nam từ 1954, nhưng thừa nhận chủ quyền hợp pháp đối với toàn thể lãnh thổ Việt Nam. Điều này được ghi nhận trong Lời nói đầu và Điều 1 Hiến pháp năm 1959. Các quy định công khai này được phía đối phương xem là "hiếu chiến" chuẩn bị cho "xâm lược" Miền Nam (dù trong bản Hiến pháp chỉ quy định là thống nhất trong hòa bình, nhưng đề cập cách mạng dân tộc - dân chủ ở Miền Nam). Trong những năm đầu sau khi đất nước bị chia cắt làm hai miền, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận công khai chính quyền Việt Nam cộng hòa là một chính thể ngang hàng (gọi là nhà đương cục Miền Nam, hay chính quyền Miền Nam), nhưng không thừa nhận Việt Nam cộng hòa với tư cách chính thể và có hai nước Việt Nam, và đề nghị tổ chức Hội nghị Hiệp thương để thống nhất Việt Nam đồng thời tố cáo Việt Nam Cộng hòa không tuân thủ Hiệp định Genève, đàn áp những người yêu nước và đấu tranh hòa bình ở miền Nam để thống nhất đất nước (nhưng trong văn kiện Đảng thì luôn coi chính quyền Việt Nam Cộng hòa là bù nhìn, tay sai). Do lập trường như vậy nên đến năm 1959, sau khi thấy khả năng không thể thống nhất trong hòa bình, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam ngầm ủng hộ cho khởi nghĩa ở Miền Nam thì mới công bố Hiến pháp mới khẳng định Việt Nam là một nước không thể chia cắt và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính thể có địa vị hợp pháp, chủ quyền hợp pháp toàn Việt Nam bằng cách viện dẫn Cách mạng Tháng Tám, bầu cử Quốc hội năm 1946 và Hiến pháp 1946 mà Hiến pháp 1959 là kế thừa.Nghị quyết Quốc hội khóa I kỳ 11 ngày 31-12-1959 (khi đó vẫn có các đại biểu Miền Nam được bầu năm 1946 đủ tư cách) - khi đó vẫn xem là Quốc hội Việt Nam thống nhất - khẳng định "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiêu biểu cho tính chất thống nhất của nước ta và tiêu biểu cho ý chí tranh đấu của nhân dân cả hai miền Nam - Bắc". Những ghi nhận này khẳng định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính thể duy nhất có quyền lực pháp lý trên toàn lãnh thổ Việt Nam và công khai không thừa nhận Việt Nam Cộng hòa là một nhà nước hợp pháp, miền Nam chưa được giải phóng và cũng "ám chỉ" Việt Nam nếu không thể thống nhất bằng hòa bình thì bằng chiến tranh.
Hiến pháp năm 1959 cũng ghi nhận Đảng Lao động là lãnh đạo cách mạng trong Lời nói đầu, nhưng không quy định là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội trong điều khoản nào như Hiến pháp 1980 và 1992 sau này (chưa có địa vị pháp lý lãnh đạo chính thức) nhằm để ngỏ khả năng hiệp thương với chính quyền Miền Nam và động viên nhưng người không có lập trường cộng sản nhưng chống Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đứng về phía cách mạng. Đến 1960 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn công khai đưa ra đề nghị thương lượng lần cuối (khẩu hiệu đấu tranh hòa bình thống nhất vẫn được khẳng định tại Hiến pháp, và cả văn kiện công khai của đại hội III Đảng Lao động, nhưng các văn kiện bí mật chỉ lưu hành nội bộ thì ủng hộ cho giải pháp khởi nghĩa và lập đoàn chi viện vào Nam).
Phía Việt Nam Cộng hòa trước đó ban hành Hiến pháp riêng 1956 và bầu cử riêng, cũng thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền này dựa trên Quốc gia Việt Nam trước đây và tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam. Điều này (cộng với từ chối tổng tuyển cử cả nước) được phía bên kia xem là một cử chỉ thể hiện sự "hiếu chiến" chuẩn bị cho "Bắc tiến".
Sau Đồng khởi, thì một vùng do Đảng Lao động và cách mạng kiểm soát ở Miền Nam hình thành, đồng thời miền Bắc viện trợ cho miền Nam một lượng lớn vũ khí, quân trang, quân dụng và cử nhiều cán bộ, binh sỹ vào Nam chiến đấu. Trong khi Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã đưa ra những chứng cớ mà họ cho là Miền Bắc "xâm lược", do đó chủ trương của Đảng Lao động là thành lập một Mặt trận lấy danh nghĩa giải phóng Miền Nam để kiểm soát các vùng đất này, và tách đảng bộ miền Nam lập một đảng danh nghĩa (tương tự với đảng Xã hội và Dân chủ). Mặt trận lấy danh nghĩa là Việt Nam đã độc lập năm 1945 và kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhưng miền Nam chưa có độc lập để đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam - tính độc lập hình thức với Miền Bắc không rõ ràng bằng khi lập chính thể Cộng hòa Miền Nam như sau này. Mặt trận thừa nhận Miền Bắc đã được giải phóng, và Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính thể hợp pháp cả nước. Tuy nhiên tính chất độc lập tương đối được đưa ra khi văn kiện Mặt trận khẳng định Mặt trận sẽ hiệp thương với Miền Bắc để thống nhất. Tính độc lập này chỉ là tương đối và khớp với văn kiện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (khi khẳng định chủ quyền với toàn lãnh thổ). Chương trình hành động của Mặt trận (điểm IX):
Yêu cầu bức thiết của đồng bào trên toàn quốc là phải hoà bình thống nhất Tổ quốc. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam chủ trương thống nhất nước nhà từng bước bằng phương pháp hoà bình, trên nguyên tắc hai miền cùng nhau thương lượng, cùng nhau bàn bạc mọi hình thức và biện pháp có lợi cho dân tộc, cho Tổ quốc Việt Nam. Trong khi nước nhà chưa thống nhất, chính phủ hai miền cùng nhau thương lượng cam kết không tuyên truyền chia rẽ dân tộc, không tuyên truyền chiến tranh, không dùng binh lực đối với nhau. Thực hiện trao đổi kinh tế văn hoá giữa hai miền. Cho nhân dân hai miền được tự do đi lại buôn bán, thăm viếng, tự do gửi thư từ cho nhau.
Sau khi Mặt trận ra đời thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công khai khẳng định Mặt trận đại diện nhân dân miền Nam, nhưng không sửa lại Hiến pháp. Hồ Chí Minh trong trả lời phỏng vấn của Daily Worker năm 1965 khẳng định Mặt trận có đường lối riêng của họ, phù hợp với hoàn cảnh mỗi miền, nhưng Việt Nam là một[19]. Sau này Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức xem Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một chính thể và nhà nước độc lập với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng chỉ giới hạn ở Miền Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không sửa lại Hiến pháp. Tuy vậy Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không đặt quan hệ bình thường như thiết lập đại sứ hay quan hệ ngoại giao với các nước khác mà đặt đại diện. Mục tiêu hiệp thương thống nhất hai nhà nước luôn thể hiện trong các tuyên bố hai phía và hai bên đặt đại diện (chứ không phải cấp đại sứ hay lập quan hệ ngoại giao thông thường) tại Hà Nội và Tây Ninh thể hiện ý chí này.
Bên cạnh đó, Đảng Lao động bề ngoài vẫn thừa nhận Đảng Nhân dân Cách mạng có tính "độc lập" tuy nhiên sau này thừa nhận Trung ương Cục là đại diện Đảng Lao động tại miền Nam. Lập trường quốc tế nói chung đa số vẫn thừa nhận Việt Nam có hai chính quyền ở hai miền chứ không nói là hai nước theo cách hiểu thông thường, và sau nhiều nước thừa nhận Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một trong hai chính quyền ở Miền Nam (chứ không phải Miền Nam có hai nước). Do lập trường của Mặt trận và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là Miền Nam chưa có độc lập nên họ sử dụng cụm từ "giải phóng", và Việt Nam dân chủ cộng hòa dùng từ "kháng chiến" để chỉ cuộc kháng chiến hai miền nam - bắc vì một mục tiêu chung. Sau đó cụm từ "kháng chiến" lại phổ biến, do lập trường của Việt Nam là Việt Nam độc lập từ 1945 và kháng chiến để chống lại một nước đã có chủ quyền (không phải chưa có độc lập như các văn kiện Mặt trận thời chiến tranh).
Lập trường Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phía Mặt trận thường giống nhau, trừ việc Mặt trận không hề đề cập đến các chính sách cải tạo Xã hội Chủ nghĩa ở miền Nam. Năm 1955 và năm 1960 Miền Bắc cho thành lập các khu tự trị, có ý nghĩa trong chính sách lôi kéo người dân tộc thiểu số miền Nam đứng về phía cách mạng (khi đó chính quyền Việt Nam Cộng hòa phủ nhận sự tự trị mà Pháp trao cho các dân tộc thiểu số). Phía Mặt trận và Chính phủ Cách mạng Lâm thời cũng cho thành lập các Ủy ban tự trị dân tộc thuộc địa phận vùng kiểm soát của mình, trong thời gian chiến tranh như miền Bắc có khu tự trị. Tuy nhiên sau 1975 thì do vấn đề Trung Quốc, Khmer Đỏ và các vấn đề an ninh... nên các chính quyền tự trị này ở miền Bắc lẫn miền Nam đều bị giải tán.
Về phía Mặt trận, chỉ công khai các chức danh do hiệp thương bầu cử ra (của Mặt trận hay chính quyền các cấp), hay chức vụ của các tổ chức, Đảng (cả đảng Nhân dân cách mạng) trong Mặt trận, cũng như quân giải phóng (Bộ tư lệnh các lực lượng vũ trang,...), nhưng trước khi Hiệp định Paris ký kết không công khai các chức danh hay cán bộ thuộc về phía Đảng Lao động chỉ định (như ủy viên Trung ương hay Bộ Chính trị hay trong Trung ương Cục, và các cấp lãnh đạo đảng ở địa phương, cũng như nhiều chỉ huy quân đội,...) để thể hiện rõ lập trường Miền Bắc chỉ chi viện giúp đỡ miền Nam và phối hợp quân sự, kể cả cử cán bộ chỉ huy Quân giải phóng, lực lượng cách mạng, chứ không chi phối chính sách của phía Mặt trận do sự hiệp thương của các lực lượng tham gia quyết định, mặt khác thể hiện nguyên tắc bí mật trong thời chiến.
Quan hệ ngoại giao
Ngày 25 tháng 2 năm 1962, Mặt trận đặt đại diện thường trực tại Cuba, đến tháng 2 năm 1963 đặt đại diện thường trực tại Algérie, sau đó tại Indonesia, Cộng hòa Dân chủ Đức, Trung Quốc, Liên Xô, Campuchia, România, Mông Cổ, Thụy Điển, Albania, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bắc Triều Tiên, Đan Mạch, Congo - Brazzaville, Pháp, Phần Lan, Iraq, Mali, Nam Yemen, Somalia, Tanzania,...Đánh giá
Nhìn chung, các chủ trương thành lập các Mặt trận và sự lãnh đạo của Đảng chỉ được công khai với thế giới sau này, và tùy theo thực tế, có khi đảng không hoàn toàn chi phối được tất cả các chính sách các Mặt trận do có nhiều tổ chức tham gia ngoại trừ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau này. Do đó tính chất của các Mặt trận kể trên không hoàn toàn như lịch sử công khai ở Việt Nam hiện nay nêu và như các lực lượng chống đối Đảng Cộng sản đánh giá do không có đủ tư liệu.Nếu so với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thì Việt Minh trước đây cũng là một liên minh gồm nhiều đảng phái, tổ chức và cá nhân bao gồm cả Đảng Cộng sản (nòng cốt). Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương giải tán và Việt Minh trở thành bình phong của người cộng sản trong một hai năm đầu, chủ yếu nhất giai đoạn trước kháng chiến toàn quốc, còn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam luôn là một liên minh trong đó những người cộng sản làm nòng cốt.
Theo đánh giá của William Colby, cựu giám đốc CIA và người từng chỉ huy Chiến dịch Phượng Hoàng, để làm mờ đi lý lịch cộng sản (và thu hút nhiều người tham gia hơn), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được coi là một phong trào của riêng người Nam Việt Nam sẵn sàng đón nhận mọi đảng phái và những nhân vật miền Nam mà tên tuổi được tung ra như là những người lãnh đạo tổ chức thì trên thực tế họ không có mấy quyền hành kiểm soát mặt trận cũng như những người trong mặt trận Việt Minh thời Chiến tranh Đông Dương. Quyền chi phối Mặt trận chủ yếu thuộc về nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [20].
Theo định nghĩa hiện nay thì các Mặt trận do đảng lãnh đạo hay chủ trương thành lập (ngầm hay công khai) đều là các tổ chức Mặt trận Dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, và trong khối dân vận. Như vậy về thực tế các tổ chức này làm dân vận cho đảng, đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của đảng, cho dù thực tế về mặt quá khứ công khai như Việt Minh được xem như là một "đảng": 1945-1951, hay Mặt trận Dân tộc Giải phóng là một liên minh chính trị "độc lập" với Đảng Lao động Việt Nam.
Nguồn tham khảo
- ^ TÊN GỌI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trích: "gây ra chiến tranh đặc biệt, rồi chiến tranh cục bộ và sau cùng chúng đưa chiến tranh lan rộng ra toàn quốc làm trở ngại cho sự hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy trong cao trào đồng khởi ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam mới ra đời và trong dịp tổng tấn công Tết Mậu thân năm 1968 có thêm Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam" (Bài phát biểu của ông Xuân Thuỷ, Uỷ viên Ban Trù bị Đại hội hợp nhất 3 tổ chức Mặt trận - Đại hội 1 (tháng 2 năm 1977).
- ^ MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM Việt Nam VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, TRẦN TRỌNG TÂN, Tạp chí Mặt Trận, số 86, 12/2010
- ^ “Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954–1960”. The Pentagon Papers. 1971. tr. 242–314.
- ^ Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960, Boston, Beacon Press, 1971
- ^ William Duiker, Ho Chi Minh, Hyperion, 2000, tr. 525
- ^ Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, ngày 10-9-1960, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 10/2002
- ^ Trần Bạch Đằng chủ biên (1993) Chung một bóng cờ (Về MTDTGPMNVN), NXB CTQG, Hà Nội tr.958-962
- ^ Nguyễn Khắc Viện, Nam Việt Nam: từ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đến Chính phủ Cách mạng Lâm thời, trang 239-243, Hà Nội, 1970
- ^ a ă Trond Gilberg: Coalition Strategies of Marxist Parties. Duke University Press 1989, p.187
- ^ Douglas Pike: War, Peace, and the Viet Cong, The MIT Press; First Edition edition (April 15, 1969)
- ^ Báo Tây Ninh 66 năm xây dựng và trưởng thành, Báo Tây Ninh
- ^ Victory in Vietnam. The official history of the people's army of Vietnam 2002, University Press of Kansas Merle Pribbenow, trang 18-211
- ^ Văn kiện Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II (1945-1977), NXB Sự thật, Hà Nội 1970
- ^ Nguyễn Hữu Thọ, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam - mấy bài học lớn, Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế kỷ XX, NXB Lao động 2005
- ^ Hồ Sĩ Thành- Trần Thị Nhung, Bộ tư lệnh Miền, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh
- ^ Công tác dân tộc của Đảng qua các thời kỳ cách mạng, Dân tộc, Ủy ban Dân tộc
- ^ Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 4 NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1966
- ^ Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 5, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1978, tr.201
- ^ Douglas Pike War, Peace, and the Viet Cong-The MIT Press; First Edition edition (April 15, 1969)
- ^ William Colby, Một chiến thắng bị bỏ lỡ, Nxb Công an Nhân dân, trang 110
Xem thêm
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Việt Cộng |
- Danh sách những vụ tấn công của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
- Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam
- Đội quân tóc dài
Liên kết ngoài
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Bách khoa Toàn thư Việt Nam
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Website Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tàu Doña Paz
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
![]() Tàu Doña Paz tại Thành phố Tacloban, 1984 |
|
Phục vụ | |
---|---|
Tên gọi: | Himeyuri Maru |
Chủ sở hữu: | Ryukyu Kaiun Kaisha |
Cảng đăng ký: | ![]() |
Hãng đóng tàu: | Onomichi Zosen ở Onomichi, Hiroshima, Nhật Bản |
Số hiệu xưởng đóng tàu: | 118 |
Hạ thủy: | 25.4.1963 |
Số phận: | Bán cho Sulpicio Lines năm 1975 |
Phục vụ | |
Tên gọi: | MV Don Sulpicio |
Chủ sở hữu: | Sulpicio Lines |
Cảng đăng ký: | ![]() |
Trưng dụng: | 1975 |
Đổi tên: | Doña Paz năm 1981 |
Tân trang: | Sau vụ hỏa hoạn trên tàu ngày 5.6.1979 |
Số phận: | Bốc cháy và bị chìm sau khi va chạm với tàu chở dầu Vector' ngày 20.12.1987. |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp và kiểu: | Tàu phà chở hành khách |
Dung tải: | 2.602 1.192 (trọng tải) |
Độ dài: | 93,1 m (305 ft)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ] |
Sườn ngang: | 13,6 m (45 ft)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ] |
Tốc độ: | 18 knots |
Sức chứa: | Hành khách: 1.518 |
Thủy thủ đoàn: | 66 |
Mục lục
Lý lịch tàu
Tàu Doña Paz được đóng năm 1963 bởi Onomichi Zosen ở Onomichi, Hiroshima, Nhật Bản, có tên gốc là Himeyuri Maru.[4] Trong thời gian vận hành ở Nhật Bản, tàu có sức chở 608 hành khách.[5] Năm 1975, tàu được bán cho Sulpicio Lines, một công ty hàng hải Philippines có một đội tàu phà chở hành khách. Tàu được công ty Sulpicio Lines đặt tên lại là Don Sulpicio, rồi sau đó là Doña Paz.[5] Một tháng trước khi xảy ra tai nạn, tàu được đưa vào sửa chữa ở xưởng sửa chữa cạn (drydock).[6] Vào thời điểm bị đắm, tàu Doña Paz chạy tuyến đường Manila/ Tacloban/ Catbalogan/ Manila/ Catbalogan/ Tacloban/ Manila, mỗi tuần 2 chuyến.[7]Va chạm
Ngày 20.12.1987, lúc 06 giờ 30, giờ tiêu chuẩn Philippines, tàu Doña Paz khởi hành từ thành phố Tacloban, đảo Leyte để tới Manila thủ đô Philippines,[7][8] với trạm dừng ở thành phố Catbalogan, đảo Samar.[6] Theo lịch trình thì tàu sẽ tới Manila lúc 04 giời sáng hôm sau, và nghe nói rằng cú liên lạc vô tuyến chót của tàu là vào khoảng lúc 20 giờ.[8] Tuy nhiên, các báo cáo sau đó cho biết là tàu Doña Paz không có máy vô tuyến.[9][10] Vào khoảng 22 giờ 30 tối, tàu này ở vị trí Dumali Point, dọc theo Eo biển Tablas, gần Marinduque.[8] Một người sống sót sau này kể rằng thời tiết trên biển đêm đó sáng sủa nhưng có sóng vỗ.[6] Trong khi đa số các hành khách còn đang ngủ thì tàu Doña Paz đụng phải "tàu chở dầu Vector", một tàu bồn chở dầu tuyến đường từ Bataan tới Masbate. Tàu "Vector" lúc đó chở 8.800 thùng dầu cùng các sản phẩm dầu lửa khác do hãng Caltex Philippines sở hữu.[7]Khi va chạm, hàng dầu chở trên tàu "Vector" bốc cháy gây ra một trận hỏa hoạn lan sang tàu "Dona Paz". Các người sống sót nhớ lại họ cảm thấy sự đổ vỡ và một tiếng nổ, khiến những người trên tàu hoảng loạn.[8] Một trong những người đó, Paquito Osabel, thuật lại rằng các ngọn lửa lan nhanh khắp tàu, và cả trên mặt biển quanh tàu.[6][8] Một người sống sót khác cho biết là ánh đèn trên tàu bị tắt ngấm, rằng trên tàu Doña Paz không có áo phao cứu đắm, và không ai trong số thủy thủ đoàn ra một lệnh nào.[6] Sau này nghe nói là các tủ chứa áo phao cứu đắm bị khóa lại.[11] Các người sống sót đã bị buộc phải nhẩy xuống biển và bơi giữa các thi thể cháy đen.[12] Tàu Doña Paz đã chìm trong khoảng 2 giờ sau khi va chạm, còn tàu chở dầu Vector thì chìm trong vòng 4 giờ.[11] Cả 2 tàu đều chìm ở độ sâu khoảng 545 mét ở eo biển Tablas lúc nhúc cá mập.[13]
Theo như tường trình thì 8 giờ sau các giới chức hàng hải Philippines mới biết tin tai nạn này và phải mất thêm 8 giờ nữa mới tổ chức được các hoạt động tìm kiếm, cứu cấp.[11]
Những người chết trong tai nạn
26 người sống sót đã được vớt lên, trong đó 24 người là hành khách trên tàu Doña Paz, còn 2 người kia là nhân viên thủy thủ đoàn của tàu chở dầu Vector.[6][14] Không có nhân viên thủy thủ đoàn nào của tàu Doña Paz sống sót. Phần lớn các người sống sót đã bị bỏng khi nhảy xuống biển đang bị cháy.[8]Theo thông báo ban đầu của công ty Sulpicio Lines, thì danh sách chính thức hành khách trên tàu Doña Paz là 1.493 người và 60 nhân viên thủy thủ đoàn trên tàu.[5][12] Theo công ty này thì tàu có sức chở 1.424 hành khách.[8] Một bản danh sách sửa lại công bố ngày 23.12.1987 cho biết có 1.583 hành khách và 58 nhân viên thủy thủ đoàn trên tàu Doña Paz, trong đó 675 người lên tàu ở thành phố Tacloban, còn 908 người lên tàu từ thành phố Catbalogan.[13] Tuy nhiên, một viên chức giấu tên của Công ty Sulpicio Lines nói với hãng UPI rằng các vé phụ thường được bán bất hợp pháp ở trên tàu với giá rẻ hơn, và những hành khách mua loại vé trên không có tên trên danh sách chính thức.[5] Cũng viên chức này còn nói thêm rằng những người có vé biếu và những trẻ em dưới 4 tuổi không phải mua vé cũng không có tên trên danh sách.[5][15]
Các người sống sót nói rằng có thể tàu Doña Paz đã chở từ 3.000 tới 4.000 hành khách.[5][12] Họ thấy các dấu hiệu quá đông người trên tàu vì các hành khách phải ngủ dọc theo các hành lang hoặc trên các giường nhỏ của trẻ em với 3 hoặc 4 người trong số họ.[12] Trong số 21 thi thể được nhận dạng 5 ngày sau tai nạn, chỉ có 1 người có tên trong danh sách hành khách chính thức.[16]
Ngày 28.12.1987,dân biểu Hạ viện Philippines Raul Daza của hạt Bắc Samar nói rằng có ít nhất 2.000 hành khách trên tàu Doña Paz không có tên trong bản danh sách hành khách của tàu.[17] Ông đưa ra con số đó dựa trên một danh sách những người mất tích được cho là ở trên tàu phà này, do các thân nhân và bạn bè của họ cung cấp; các tên trong danh sách trên được các đài phát thanh và truyền hình thành phố Tacloban thu thập biên soạn.[17] Tên của 2.000+ hành khách mất tích này được đăng trên các trang 29 tới 31 của nhật báo Philippine Daily Inquirer ngày 29.12.1987.
Số người chết chính thức cuối cùng sau đó đã được ghi nhận là 1.749,[18] một con số chứng tỏ đây là một tai nạn tàu phà nhiều người chết nhất trong lịch sử.[19] Tuy nhiên, người ta thường chấp nhận rằng số người chết thực tế lớn hơn rất nhiều.[18][19] Năm 1999 Tòa án Tối cao Philippines đã chính thức thừa nhận là tàu Dona Paz đã chở một số ước lượng 4.000 hành khách.[7] Ấn bản năm 2008 của World Almanac (Niên giám Thế giới) ghi số ước lượng sinh mạng bị mất trong vụ đắm tàu này là 4.341.[20] Tạp chí Time magazine gọi tai nạn này là thảm họa hàng hải chết chóc nhất trong thời bình của thế kỷ 20.[21] Với số người chết ước tính như trên, vụ chìm tàu Doña Paz được gọi là thảm kịch trên biển chết chóc nhất thế giới trong thời bình.[22][23][24][25]
Các phản ứng và hậu quả
Tổng thống Philippines Corazon Aquino đã mô tả thảm kịch này như "một thảm kịch quốc gia có tầm vóc rất đau thương...nỗi buồn của [nhân dân Philippines] càng đau đớn hơn vì thảm kịch này đã xẩy ra khi sắp tới lễ Chúa giáng sinh".[26] Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thủ tướng Nhật Bản Noboru Takeshita và Nữ hoàng Elizabeth II của Vương quốc Anh đã gửi thư chính thức phân ưu.[27]Ba ngày sau tai nạn, công ty Sulpicio Lines đã loan báo là tàu Doña Paz được bảo hiểm 25 triệu peso Philippines (khoảng 1 triệu dollar Mỹ năm 2011), và công ty sẽ bồi thường cho những người sống sót mỗi nạn nhân 20.000 peso Philippines.[28] Những ngày sau đó, hàng trăm thân nhân các gia đình nạn nhân đã tụ tập tại công viên Rizal đòi các chủ tàu cũng phải bồi thường cho các gia đình những nạn nhân không có tên treong danh sách hành khách chính thức, cũng như phải làm bản báo cáo đầy đủ những người bị mất tích.[15]
Theo cuộc điều tra ban đầu do Lực lượng tuần duyên Philippines thực hiện, thì lúc xảy ra tai nạn chỉ có một nhân viên học nghề của thủy thủ đoàn tàu Doña Paz theo dõi ở trên đài chỉ huy của tàu.[29] Các sĩ quan khác thi hoặc là đang uống bia hoặc đang xem truyền hình,[30] trong khi viên thuyền trưởng thì đang coi một phim ở băng video Betamax của mình.[29] Tuy nhiên, các cuộc điều tra tiếp theo cũng phát hiện là tàu chở dầu Vector hoạt động mà không có giấy phép, đài gác hoặc thuyền trưởng đủ tiêu chuẩn hợp thức.[11] Ban điều tra hàng hải cuối cùng đã xóa lỗi của công ty Sulpicio Lines trong vụ tai nạn này.[14] Năm 1999, Tòa án tối cao Philippines phán quyết là các chủ tàu chở dầu Vector có trách nhiệm phải bồi thường cho các nạn nhân của vụ va chạm tàu này.[7][14] Một số đơn khiếu kiện chống lại hoặc công ty Sulpicio Lines hoặc các chủ nhân của tàu chở dầu Vector - chẳng hạn các đơn của gia đình Cañezal (mất 2 thành viên) và gia đình Macasas (mất 3 thành viên) - được Tòa án tối cao phán quyết là các gia đình của những nạn nhân không có tên trong danh sách hành khách chính thức cũng đều được bồi thường.[7][14].
Trong văn hóa bình dân
National Geographic Channel (Kênh truyền hình Địa lý quốc gia) đã chiếu ra mắt phim tài liệu về tàu Doña Paz dưới tên Tàu Titanic của châu Á vào ngày 25.8.2009.[31][32]Tham khảo
- ^ “Doña Paz”. Retrieved 2009-08-08
- ^ John Withington (2010). Disaster!: a history of earthquakes, floods, plagues, and other catastrophes. Skyhorse Publishing Inc. tr. 342.
- ^ “MSNBC World News/Asia Pacific”. Retrieved 2009-08-08.
- ^ R.B.Haworth (2006). “Search results for "5415822"”. Miramar Ship Index. Wellington, New Zealand. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ a ă â b c d Omar Acosta, Dave Veridiano & Marlen Ronquillo (23 tháng 12 năm 1987). “Doña Paz Overloaded; Inquiry Set”. Philippine Daily Inquirer.
- ^ a ă â b c d “Tanker Rams Ferry, 1,500 Feared Dead”. Philippine Daily Inquirer. 22 tháng 12 năm 1987.
- ^ a ă â b c d Caltex Philippines v. Sulpicio Lines, 374 Phil. 325 (Supreme Court of the Philippines 1999-09-30).
- ^ a ă â b c d đ Associated Press (21 tháng 12 năm 1987). “1,500 Are Feared Lost as Two Ships Collide and Sink Near Philippines”. New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ John Lancaster, Engineering catastrophes: causes and effects of major accidents. Woodhead Publishing, 2005, 3rd. ed., p. 71.
- ^ DNV Annex 1 Passenger vessel Evacuation descriptions P36
- ^ a ă â b Det Norske Veritas. “Annex 1: Passenger Vessel Evacuation Descriptions” (PDF). Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ a ă â b Sheila Coronel (22 tháng 12 năm 1987). “Searchers Find No Trace of 1,500 From 2 Ships Sunk in Philippines”. New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ a ă Omar Acosta, Dave Veridiano, & Gerry Lirio (24 tháng 12 năm 1987). “238 Bodies Washed Ashore in Mindoro”. Philippine Daily Inquirer.
- ^ a ă â b Vector Shipping Corp. v. Macasa, [1] (Supreme Court of the Philippines 2008-07-21).
- ^ a ă Associated Press (27 tháng 12 năm 1987). “Bodies of 133 Found From Ferry Disaster, The Filipinos Report”. New York Times. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ “300 More Charred Victims Retrieved”. Philippine Daily Inquirer. 26 tháng 12 năm 1987.
- ^ a ă Ed Perpena & Dave Veridiano (29 tháng 12 năm 1987). “2,000 On Ship Not On Manifest”. Philippine Daily Inquirer.
- ^ a ă Seth Mydans (26 tháng 10 năm 1988). “500 in Philippines Lost as Ship Sinks”. New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ a ă Stephen Kinzer (29 tháng 9 năm 1994). “Little Hope for 800 Lost in Sinking of Baltic Sea Ferry”. New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ The World Almanac and Book of Facts 2008: 140th Anniversary Edition. United States: World Almanac Education Group Inc. 2008. tr. 301. ISBN 1-60057-072-0.
- ^ Howard Chua Eo & Nelly Sindayen (4 tháng 1 năm 1988). “The Philippines Off Mindoro, a Night to Remember”. Time. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ “200 Feared Dead as Ferry Sinks in Bangladesh”. New York Times. 21 tháng 8 năm 1994. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Hundreds Missing After Sinking Of Ferry in a Philippine Storm”. New York Times. 19 tháng 9 năm 1998. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ Francis Earl Cueto & AFP (1 tháng 7 năm 2008). “Sulpicio blames Del Monte on toxic cargo on ‘Princess’”. Manila Times. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ Leila Salaverria (13 tháng 7 năm 2008). “Ships' 45 accidents listed: Lloyd's details Sulpicio's 28-year history”. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2008.
- ^ Barbara Crosette (23 tháng 12 năm 1987). “It's Gloom And Glitter For Manila”. New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2008.
- ^ Agence France Presse & Associated Press (24 tháng 12 năm 1987). “Pope, Takeshita Send Condolences”. Philippine Daily Inquirer.
- ^ Agence France Presse (23 tháng 12 năm 1987). “Sulpicio Willing to Pay Victims”. Philippine Daily Inquirer.
- ^ a ă “Coast Guard Says: Dona Paz Officers Not at Their Posts”. Philippine Daily Inquirer. 25 tháng 12 năm 1987.
- ^ Associated Press (25 tháng 12 năm 1987). “Officers Were Not at Posts, Ship Disaster Survivor Says”. New York Times. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Davao boy’s Titanic debuts today”. Mindanao Times. 25 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Asia's Titanic”. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2009.
Liên kết ngoài
Ma Cao
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khu hành chính đặc biệt Ma Cao của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | |||||
---|---|---|---|---|---|
中華人民共和國澳門特別行政區 (tiếng Trung) Região Administrativa Especial de Macau da República Popular da China (tiếng Bồ Đào Nha) |
|||||
|
|||||
Theo chiều kim đồng hồ từ phía trên bên phải: Di tích Thánh Phaolô; Casino Lisboa;
Nhà thờ Trường Dòng Thánh Giuse; Cầu Tổng đốc Nobre de Carvalho; Miếu Ma Các; Pháo đài Đông Vọng Dương; Macau Tower. |
|||||
Khẩu hiệu | |||||
không có | |||||
Quốc ca | |||||
![]() Nghĩa dũng quân tiến hành khúc (quốc ca của Trung Quốc) |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Đặc khu hành chính | ||||
Trưởng Đặc khu | Thôi Thế An (崔世安) | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Hoa (Quảng Đông trên thực tế) Bồ Đào Nha |
||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 28.2 km² 10.9 mi² (hạng không thiết lập) |
||||
Diện tích nước | 0 % | ||||
Múi giờ | MST (UTC+8); mùa hè: không | ||||
Lịch sử | |||||
Thành lập
|
|||||
Thế kỷ thứ 5 | Người Hoa bản địa thành lập | ||||
1557 | Bị Bồ Đào Nha xâm lăng | ||||
13 tháng 8 năm 1862 | Thành thuộc địa của Bồ Đào Nha | ||||
20 tháng 12 năm 1999 | Đặc khu hành chính | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2014) | 614.500[1][2] người | ||||
Dân số (2011) | 552.503[3] người (hạng 167) | ||||
Mật độ | 18.568 người/km² (hạng 1) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2008) | Tổng số: 31,271 tỷ Đô la Mỹ | ||||
GDP (danh nghĩa) (2009) | Tổng số: 21,7 tỷ Đô la Mỹ | ||||
HDI (2007) | ![]() |
||||
Đơn vị tiền tệ | (MOP ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .mo | ||||
Mã điện thoại | 853 |
Ma Cao | |||
---|---|---|---|
Tên tiếng Trung | |||
Phồn thể: | 澳門 | ||
Giản thể: | 澳门 | ||
Nghĩa: | cửa vịnh | ||
|
|||
Khu hành chính đặc biệt Ma Cao | |||
Phồn thể: | 澳門特別行政區 (hay 澳門特區) | ||
Giản thể: | 澳门特别行政区 (hay 澳门特区) | ||
|
|||
Tên Bồ Đào Nha | |||
Tiếng Bồ Đào Nha: | Região Administrativa Especial de Macau của "Khu hành chính đặc biệt Ma Cao" | ||
Tên tiếng Việt | |||
Tiếng Việt Nam: | Áo Môn đặc biệt hành chính khu |
Ma Cao nguyên là một thuộc địa của Bồ Đào Nha và phải chịu sự quản lý của đế quốc này từ giữa thế kỷ 16 cho đến năm 1999, và là thuộc địa hay tô giới cuối cùng của người châu Âu tại Trung Quốc.[6][7] Các thương nhân Bồ Đào Nha lần đầu đến định cư tại Ma Cao trong thập niên 1550. Năm 1557, triều đình nhà Minh đã cho Bồ Đào Nha thuê Ma Cao để làm cảng giao thương. Từ đó, người Bồ Đào Nha đã quản lý thành phố song nó vẫn nằm trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc. Đến năm 1887, Ma Cao trở thành một thuộc địa của đế quốc Bồ Đào Nha. Bồ Đào Nha đã chuyển giao chủ quyền đối với Ma Cao cho Trung Quốc vào ngày 20 tháng 12 năm 1999. Tuyên bố chung Trung-Bồ và Luật cơ bản Ma Cao quy định rằng Ma Cao có quyền tự trị cao độ ít nhất là đến năm 2049, tức 50 năm sau ngày chuyển giao.[8]
Theo chính sách "một quốc gia, hai chế độ", chính quyền Trung ương của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chịu trách nhiệm về các vấn đề quốc phòng và ngoại giao của lãnh thổ, trong khi Ma Cao duy trì hệ thống riêng của mình trên các lĩnh vực luật pháp, lực lượng cảnh sát, tiền tệ, hải quan, nhập cư. Ma Cao tham gia nhiều tổ chức và sự kiện quốc tế không yêu cầu các thành viên phải là các quốc gia có chủ quyền.[8][9]
Theo The World Factbook của CIA, năm 2012, Ma Cao xếp thứ hai về tuổi thọ trên thế giới.[10] Ngoài ra, Ma Cao là một trong số ít khu vực tại châu Á có Chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức rất cao.
Mục lục
Từ nguyên
Trước khi có khu dân cư của người Bồ Đào Nha vào giữa thế kỷ 16, Ma Cao được biết đến với các tên gọi Hào Kính (濠鏡) hay Kính Hải (鏡海).[11] Tên gọi Macau có nguồn gốc từ miếu Ma Các (Trung văn phồn thể: 媽閣廟; Bính âm Quan Thoại: Māgé Miào; Việt bính: Maa1 Gok3 Miu6), một công trình được xây dựng vào năm 1448 để thờ Ma Tổ – nữ thần của thuyền viên và ngư dân. Người ta nói rằng khi các thủy thủ Bồ Đào Nha đổ bộ lên bờ biển ngay bên ngoài miếu và hỏi tên của địa điểm này, những người bản địa đã trả lời là "媽閣" (Bính âm Quan Thoại: Māgé; Việt bính: Maa1 Gok3; Hán-Việt: Ma Các). Sau đó, người Bồ Đào Nha đặt tên cho bán đảo là "Macau".[12]Lịch sử

Nhà thờ Lớn Thánh Phaolô, hình của George Chinnery
(1774–1852). Nhà thờ này được xây năm 1602 và bị hỏa hoạn phả hủy vào
năm 1835. Chỉ có mặt bằng đá ở phía nam là còn lại đến nay.
Ma Cao đã chỉ phát triển thành một khu vực dân cư lớn khi người Bồ Đào Nha đến vào thế kỷ 16.[14] Năm 1513, Jorge Álvares trở thành người Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến Trung Quốc. Năm 1535, các thương nhân Bồ Đào Nha đã có được quyền neo tàu ở các bến cảng của Ma Cao và thực hiện hoạt động giao thương, mặc dù không có quyền ở trên bờ.[15] Khoảng 1552–1553, họ giành được sự cho phép tạm thời để lưu trữ hàng hóa trên kho được dựng trên bờ, mục đích là để hàng hóa được khô ráo;[16] họ nhanh chóng xây dựng các ngôi nhà thô sơ bằng đá quanh khu vực mà nay được gọi là Nam Loan. Năm 1557, người Bồ Đào Nha thành lập một khu dân cư lâu dài tại Ma Cao, trả 500 lạng bạc mỗi năm cho tiền thuê đất.[16] Người Bồ Đào Nha tiếp tục trả tiền thuê hàng năm cho đến năm 1863 để được quyền ở tại Ma Cao.[17]
Năm 1564, Bồ Đao Nha là nước chế ngự giao thương giữa phương Tây với Ấn Độ, Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, niềm kiêu hãnh của họ đã bị giội một gáo nước lạnh khi chứng kiến sự thờ ơ của người Trung Hoa đối với họ. Năm 1631, người Trung Hoa hạn chế người Bồ Đào Nha giao thương tại Trung Quốc đến cảng Ma Cao.[18]
Trong thế kỷ 17, có khoảng 5.000 nô lệ sinh sống tại Ma Cao, cùng với họ là 2.000 người Bồ Đào Nha và 20.000 người Hán.[19][20][21]
Do ngày càng có nhiều người Bồ Đào Nha đến định cư ở Ma Cao để tham gia hoạt động thương mại, họ có nhu cầu về tự quản; song điều này không thể đạt được cho đến thập niên 1840. Năm 1576, Giáo hoàng Grêgôriô XIII đã thành lập Giáo phận Ma Cao.[22] Năm 1583, người Bồ Đào Nha tại Ma Cao được cho phép thành lập một viện nguyên lão để xử lý các vấn đề khác nhau liên quan đến những hoạt động xã hội và kinh tế của họ dưới sự giám sát chặt chẽ của chính quyền Trung Quốc, song điều này không có nghĩa là chuyển giao chủ quyền.[13]
Ma Cao trở thành một thương cảng thịnh vương, song cùng với đó, nơi này đã trở thành mục tiêu chinh phục của người Hà Lan trong thế kỷ 17, song các cuộc tấn công lặp di lặp lại này đều thất bại. Ngày 24 tháng 6 năm 1622, người Hà Lan tấn công Ma Cao với hy vọng biến nơi đây thành vùng đất do họ sở hữu, sử gọi là trận Ma Cao. Người Bồ Đào Nha đã đẩy lui cuộc tấn công này và người Hà Lan từ đó không bao giờ cố gắng chinh phục Ma Cao lần nữa. Phần lớn những người bảo vệ Ma Cao khi đó là nô lệ châu Phi, và chỉ có một vài binh sĩ và linh mục người Bồ Đào Nha. Thuyền trưởng Kornelis Reyerszoon là chỉ huy của 800 tinh binh xâm lược người Hà Lan.[23][24][25][26] Tổng đốc Hà Lan Jan Coen đã nói sau khi bị đánh bại rằng "Các nô lệ của Bồ Đào Nha tại Ma Cao phục vụ họ rất tốt và trung thành, rằng đó là những người đã đánh bại và đuổi người của ta đi vào năm ngoái", và "Người của ta nhìn thấy rất ít người Bồ Đào Nha" trong trận chiến.[27][28][29][30]
Sau Chiến tranh Nha phiến (1839–42), Bồ Đào Nha chiếm đóng hai đảo Đãng Tử và Lộ Hoàn tương ứng vào các năm 1851 và 1864. Ngày 1 tháng 12 năm 1887, triều đình nhà Thanh và chính phủ Bồ Đào Nha đã ký kết Điều ước Hòa hảo và Thông thương Trung-Bồ, theo đó Trung Quốc nhượng quyền "chiếm giữ và cai trị vĩnh viễn Ma Cao cho Bồ Đào Nha" tuân theo các bản tuyên bố của Nghị định thư Lisboa. Bồ Đào Nha sẽ có nghĩa vụ "không bao giờ chuyển nhượng Ma Cao khi không có thỏa thuận trước với Trung Quốc", do đó đảm bảo rằng đàm phán giữa Bồ Đào Nha và Pháp (đối với khả năng đổi Ma Cao và Guinea thuộc Bồ Đào Nha với Congo thuộc Pháp) hoặc với các quốc gia khác sẽ không tiến triển – vì vậy mà các lợi ích thương mại của Anh Quốc được bảo đảm; Ma Cao chính thức trở thành một lãnh thổ dưới quyền cai trị của Bồ Đào Nha.[13]
Năm 1928, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Quốc Dân đảng đã thông báo chính thức cho Bồ Đào Nha rằng họ hủy bỏ Điều ước Hòa hảo và Thông thương;[31] Hai bên ký kết một điều ước Hữu nghị và Thông thương Trung-Bồ mới để thay thế điều ước bị bãi bỏ. Ngoại trừ một vài quy định liên quan đến nguyên tắc thuế quan và các vấn đề liên quan đến thương mại, điều ước mới không làm thay đổi chủ quyền của Ma Cao và quyền cai trị của Bồ Đào Nha tại Ma Cao vẫn không thay đổi.[32]
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, không giống như trường hợp của Timor thuộc Bồ Đào Nha khi bị Nhật Bản chiếm đóng cùng với Timor thuộc Hà Lan vào năm 1942, người Nhật tôn trọng tính trung lập của Bồ Đào Nha tại Ma Cao. Như vậy, Ma Cao đã có một thời gian ngắn ngủi đạt được thịnh vượng về kinh tế khi là cảng trung lập duy nhất ở Nam Trung Quốc, sau khi Nhật Bản chiếm Quảng Châu và Hồng Kông. Tháng 8 năm 1943, quân Nhật bắt giữ tàu Sian của Anh tại Ma Cao và giết chết khoảng 20 lính bảo vệ. Trong tháng tiếp theo, họ yêu cầu thiết lập chế độ "cố vấn" Nhật để thay thế chiếm đóng quân sự. Kết quả là Ma Cao trở thành vùng bảo hộ ảo của người Nhật.
Khi phát hiện ra việc Ma Cao trung lập đang có kế hoạch bán nhiên liệu hàng không cho Nhật Bản, chiến đấu cơ Hoa Kỳ từ USS Enterprise đã ném bom và bắn phá nhà chứa máy bay của Trung tâm Hàng không Hải quân vào ngày 16 tháng 1 năm 1945 để triệt phá nguyên liệu. Hoa Kỳ cũng tiến hành không kích vào các mục tiêu ở Ma Cao vào các ngày 25 tháng 2 và 11 tháng 6 1945. Sau khi chính phủ Bồ Đào Nha kháng nghị, vào năm 1950, Hoa Kỳ đã trả 20.255.952 Đô la Mỹ cho chính phủ Bồ Đào Nha.[33] Sự thống trị của Nhật Bản kết thúc vào tháng 8 năm 1945 với việc họ đầu hàng.
Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào năm 1949, chính phủ Bắc Kinh tuyên bố Điều ước Hữu nghị và Thông thương Trung-Bồ là một "điều ước bất bình đẳng" do ngoại quốc áp đặt đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, chính quyền Bắc Kinh đã không sẵn sàng để giải quyết, và duy trì "nguyên trạng" cho đến một thời gian thích hợp hơn.[34]
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa tại Trung Quốc đại lục và tâm trạng bất mãn rộng rãi với chính phủ Bồ Đào Nha, các cuộc bạo động đã nổ ra ở Ma Cao vào năm 1966. Nghiêm trọng nhất là "sự kiện 3 tháng 12", với 6 người bị giết và hơn 200 người bị thương.[35][36] Ngày 28 tháng 1 năm 1967, chính phủ Bồ Đào Nha đã đưa ra một lời xin lỗi chính thức.
Ngay sau khi chế độ độc tài tại Bồ Đào Nha bị lật đổ vào năm 1974 tại Lisboa, chính phủ mới của Bồ Đào Nha đã xác định rằng nước này sẽ từ bỏ toàn bộ các thuộc địa hải ngoại của mình. Năm 1976, chính phủ Lisboa tái định nghĩa Ma Cao là một "lãnh thổ Trung Quốc nằm dưới sự quản lý của Bồ Đào Nha" và trao cho Ma Cao quyền tự trị ở mức độ lớn về hành chính, tài chính và kinh tế. Ba năm sau, Bồ Đào Nha và Trung Quốc đồng thuận xem Ma Cao là "một lãnh thổ Trung Quốc nằm dưới sự quản lý (tạm thời) của Bồ Đào Nha".[13][37] Chính quyền Trung Quốc và Bồ Đào Nha khởi đầu đàm phán về vấn đề Ma Cao vào tháng 6 năm 1986. Hai bên ký kết Tuyên bố chung Trung-Bồ vào năm sau, theo đó Ma Cao sẽ trở thành một đặc khu hành chính của Trung Quốc.[38] Chính phủ Trung Quốc chính thức tiếp nhận chủ quyền đối với Ma Cao vào ngày 20 tháng 12 năm 1999.[39] Từ sau khi trở về với Trung Quốc, kinh tế Ma Cao tiếp tục thịnh vượng với sự tăng trưởng liên tục của du lịch từ Trung Quốc đại lục và xây mới các casino.
Chính quyền và chính trị
Tòa nhà văn phòng của Hội Lập pháp Khu hành chính đặc biệt Ma Cao.
Hành pháp
Đứng đầu chính quyền Ma Cao là trưởng quan hành chính, người này được chính phủ Trung ương tại Bắc Kinh bổ nhiệm theo tiến cử của một ủy ban bầu cử, tổ chức này có ba trăm thành viên, được các đoàn thể và cộng đồng bổ nhiệm. Việc tiến cử được thực hiện bằng một cuộc bầu cử trong khuôn khổ ủy ban.[43] Nội các của trưởng quan hành chính bao gồm năm viên chức chính sách và Hội hành chính bao gồm từ 7 đến 11 thành viên làm nhiệm vụ cố vấn.[44] Hà Hậu Hoa, một lãnh đạo cộng đồng và nguyên là một chủ ngân hàng, là trưởng quan đầu tiên của khu hành chính đặc biệt Ma Cao, thay thế Tổng đốc Vasco Rocha Vieira vào nửa đêm ngày 20 tháng 12 năm 1999. Thôi Thế An là trưởng quan đương nhiệm của Ma Cao.[45]Lập pháp
Cơ quan lập pháp của Ma Cao là Hội Lập pháp, một cơ cấu gồm 29 thành viên trong đó có 12 thành viên được bầu trực tiếp, 10 thành viên được bầu gián tiếp đại diện cho các "khu vực bầu cử chức năng" và 10 thành viên do trưởng quan bổ nhiệm.[46] Bất kỳ thường trú nhân nào đủ hoặc trên 18 tuổi đều có đủ điều kiện bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử trực tiếp.[47] Bầu cử gián tiếp giới hạn trong các tổ chức đã đăng ký được gọi là "cử tri đoàn thể" và một ủy ban gồm 300 thành viên rút ra từ các nhóm khu vực, tổ chức đô thị và các cơ quan của chính phủ Trung ương.[48]Tư pháp
Khuôn khổ ban đầu của hệ thống luật pháp Ma Cao dựa phần lớn vào luật pháp Bồ Đào Nha hay hệ thống luật dân sự Bồ Đào Nha, nó vẫn được duy trì sau năm 1999. Ma Cao có hệ thống tư pháp độc lập của mình với một pháp viện chung thẩm. Một ủy ban lựa chọn ra các thẩm phán và những người này được trưởng quan bổ nhiệm. Các thẩm phán ngoại quốc có thể phụng sự tại các tòa án.[49]Ma Cao có một hệ thống tòa án ba cấp: Pháp viện đệ nhất thẩm, pháp viện cấp trung và pháp viện chung thẩm.[50] Trong tháng 2 năm 2009, Hội Lập pháp đã thông qua một dự luật an ninh dựa trên cơ sở điều luật an ninh đã bị rút lại trước đó ở Hồng Kông.[51] Những người ủng hộ dân chủ lo ngại rằng phạm vi mở rộng quá mức của điều luật này sẽ dẫn đến lạm dụng, lo lắng này được tăng thêm sau khi một số ủng hộ viên dân chủ nổi bật của Hồng Kông đã bị từ chối cho nhập cảnh vào Ma Cao trong thời gian thông qua dự luật.[52]
Quân sự
Dưới quyền cai trị của Bồ Đào Nha, Ma Cao thường được sử dụng làm một căn cứ viễn chinh đến Nhật Bản và các khu vực khác tại Đông Á từ thế kỷ 16 trở đi, người Bồ Đào Nha cũng duy trì một đơn vị đồn trú hùng mạnh, chủ yếu để đẩy lùi các cuộc tấn công của Hà Lan và Trung Quốc đại lục. Tuy nhiên, từ khi những người Anh đồng minh đến định cư tại Hồng Kông, sự cần thiết phải duy trì sự hiện diện mạnh mẽ tại Ma Cao đã trở nên mờ nhạt đối với người Bồ Đào Nha, cuối cùng chấm dứt vào năm 1974. Năm 1999, khi được bàn giao Ma Cao, nhà nước cộng sản đã thiết lập một đơn vị đồn trú đáng kể tại Ma Cao, ngoài ra họ cũng có các đơn vị quân sự lớn đóng quân tại Chu Hải lân cận.Địa lý
Ma Cao nằm cách 60 kilômét (37 mi) về phía tây nam của Hồng Kông và cách Quảng Châu 145 kilômét (90 mi). Ma Cao có 41 kilômét (25 mi) đường bờ biển, song chỉ có 310 mét (1.000 ft) ranh giới trên bộ với Quảng Đông.[5][53] Ma Cao gồm bán đảo Ma Cao cùng hai đảo Đãng Tử (Taipa) và Lộ Hoàn (Coloane), song hai đảo này ngày nay đã được nối với nhau thông qua một vùng đất lấn biển được gọi là Lộ Đãng Thành (Cotai). Bán đảo Ma Cao được thành hình từ cửa sông của Châu Giang ở phía đông và Tây Giang ở phía tây.[53] Ma Cao giáp với đặc khu kinh tế Chu Hải tại Trung Quốc đại lục. Cửa khẩu chính giữa Ma Cao và phần còn lại của Trung Quốc là Portas do Cerco (Quan Áp) ở phía Ma Cao, và cửa khẩu Củng Bắc bên phía Chu Hải.[54]Bán đảo Ma Cao nguyên cũng là một hòn đảo, song về sau đã xuất hiện dải cát nối với lục địa và nó dần phát triển thành một eo đất hẹp, biến Ma Cao thành một bán đảo. Hoạt động cải tạo đất trong thế kỷ 17 đã biến Ma Cao thành một bán đảo với địa hình bằng phẳng, mặc dù vùng đất ban đầu vẫn có rất nhiều đồi dốc.[53] Điệp Thạch Đường Sơn (疊石塘山)/Alto de Coloane là điểm cao nhất tại Ma Cao, với cao độ 170,6 mét (559,7 ft).[5] Với mật độ đô thị hóa dày đặc, Ma Cao không có đất canh tác, đồng cỏ, rừng hay đất rừng.
-
-
Quang cảnh nhìn từ Bảo tàng Ma Cao.
Khí hậu
Ma Cao có một khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cwa), với ẩm độ tương đối trung bình từ 75% đến 90%.[55] Tương tự như phần lớn miền Nam Trung Quốc, khí hậu Ma Cao thay đổi theo mùa do ảnh hưởng từ gió mùa, và sự khác biệt của nhiệt độ và ẩm độ giữa mùa hè và mùa đông là đáng chú ý, mặc dù không phải là lớn nhất tại Trung Quốc. Nhiệt độ trung bình tại Ma Cao là 22,7 °C (72,9 °F).[56] Tháng bảy là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình là 28,9 °C (84,0 °F). Tháng mát nhất là tháng giêng với nhiệt độ trung bình là 14,5 °C (58,1 °F).[55]Nằm trên bờ biển phía nam Trung Quốc, Ma Cao có lượng mưa phong phú, với lượng mưa trung bình năm là 2.120 milimét (83 in). Tuy nhiên, mùa đông chủ yếu là khô hanh do ảnh hưởng từ áp cao Siberi. Mùa thu ở Ma Cao kéo dài từ tháng 10 đến tháng 11, có thời tiết nắng và ấm với ẩm độ thấp. Mùa đông kéo dài từ tháng 12 đến đầu tháng 3 với thời tiết thường ôn hòa và hầu hết thời gian nhiệt độ ở mức trên 13 °C, mặc dù đôi lúc cũng có thể xuống dưới 8 °C. Ẩm độ bắt đầu tăng lên từ cuối tháng 3. Mùa hè có thời tiết từ rất ấm đến nóng và thường lên mức trên 30 °C vào ban ngày. Theo sau thời tiết nóng nực là các cơn mưa lớn, dông và thi thoảng là bão nhiệt đới.[55]
Kinh tế
![]() |
Thông tin ở đây có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. Nếu biết thông tin mới cho trang này, xin bạn giúp cập nhật. Xem trang thảo luận để có thêm thông tin. |
Dân cư phân theo nghề nghiệp năm 2007[57] |
||
---|---|---|
Nghề nghiệp | Con số | |
Quan chức/quản lý cấp cao | 14.600 | |
Chuyên gia | 9.900 | |
Kỹ thuật viên | 28.100 | |
Nhân viên văn phòng | 83.700 | |
Nhân viên dịch vụ và bán hàng | 63.200 | |
Lao động nông nghiệp/ngư nghiệp | 800 | |
Lao động thủ công và tương tự | 33.700 |
Ma Cao là một thành viên sáng lập của WTO và duy trì quan hệ kinh tế và thương mại đầy đủ với trên 120 quốc gia và khu vực, đặc biệt là với Liên minh châu Âu và các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha; Ma Cao cũng là một thành viên của IMF.[59] Ngân hàng Thế giới phân loại Ma Cao là một nền kinh tế có thu nhập cao[60] và GDP bình quân đầu người của khu vực đạt 28.436 Đô la Mỹ vào năm 2006. Sau khi Ma Cao được bàn giao về Trung Quốc vào năm 1999, số du khách từ đại lục đã gia tăng nhanh chóng do Trung Quốc tiến hành nới lỏng hạn chế đi lại. Việc Ma Cao tiến hành tự do hóa ngành công nghiệp đánh bạc vào năm 2001 đã đem đến một dòng vốn đầu tư đáng kể, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn từ 2001 đến 2006 là xấp xỉ 13,1% mỗi năm.[61]
Trong một báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới về du lịch quốc tế năm 2006, Ma Cao xếp hạng 21 về số du khách và xếp thứ 24 về thu nhập từ du lịch.[62] Từ con số 9,1 triệu du khách trong năm 2000, số lượt khách đến Ma Cao đã tăng lên 18,7 triệu vào năm 2005 và 22 triệu vào năm 2006,[63] với trên 50% lượt khách đến từ Trung Quốc đại lục và 30% đến từ Hồng Kông.
Ngành công nghiệp đánh bạc tại Ma Cao bắt đầu vào năm 1962, khi đó ngành này chỉ bao gồm Sociedade de Turismo e Diversões de Macau do Hà Hồng Sân (何鴻燊, Stanley Ho) điều hành theo một giấy phép độc quyền của chính phủ. Sự độc quyền chấm dứt vào năm 2002 và một vài chủ casino từ Las Vegas đã nỗ lực tiến vào thị trường đánh bạc của Ma Cao. Với việc mở cửa Sands Macao,[64] vào năm 2004 và Wynn Macau vào năm 2006,[65] doanh thu đánh bạc từ các casino của Ma Cao đã trở nên rất phát đạt.[66][67][68] Năm 2007, Venetian Macau, khi đó là công trình lớn thứ hai thế giới về không gian sàn, đã mở cửa cho công chúng, theo sau là MGM Grand Macau. Doanh thu của ngành đánh bạc đã biến Ma Cao thành thị trường casino hàng đầu thế giới, vượt qua Las Vegas.[69] Đầu thập niên 2010, Ma Cao cũng tăng cường các hoạt động biểu diễn và giải trí cùng với kinh doanh đánh bạc, bao gồm chương trình biểu diễn nổi tiếng House of Dancing Water,[70] các buổi hòa nhạc, triển lãm thương mại và nghệ thuật.[71]
Ma Cao là một trung tâm tài chính ngoài khơi, một thiên đường thuế, và một cảng tự do với việc không có chế độ quản lý ngoại hối.[72][73][74] Cục quản lý Tiền tệ Ma Cao điều hòa tài chính ngoài khơi,[75] trong khi Viện Thương mại và Xúc tiến đầu tư Ma Cao quy định việc đầu tư tại Ma Cao.[76] Năm 2007, Moody's Investors Service đã nâng xếp hạng quản lý nội và ngoại tệ của Ma Cao lên 'Aa3' từ 'A1', rằng nền tảng tài chính vững chắc của chính quyền Ma Cao giống như một chủ nợ ròng lớn. Cơ quan đánh giá cũng nâng hạng trần tiền gửi ngoại tệ của Ma Cao đến 'Aa3' từ 'A1'.[77]
Theo quy định của Luật cơ bản Ma Cao, chính quyền Ma Cao phải tuân theo nguyên tắc giữ chi tiêu ở trong giới hạn các khoản thu khi lập ngân sách của mình, và cố gắng để đạt được một sự cân bằng tài chính, tránh thâm hụt ngân sách và giữ cho ngân sách tương xứng với tốc độ tăng trưởng GDP. Tất cả các thu nhập tài chính của Đặc khu hành chính Ma Cao sẽ được chính quyền đặc khu quản lý và kiểm soát mà không phải bàn giao cho chính phủ Trung ương ở Bắc Kinh. Chính phủ Trung ương không đánh bất kỳ khoản thuế nào ở đặc khu hành chính Ma Cao.[78]
-
Quang cảnh Macau Tower vào ban đêm
-
Khu Trung tâm thương mại Ma Cao. Tòa BNU tower.
-
Di tích Thánh Phaolô, nguyên là mặt tiền của Nhà thờ Lớn Thánh Phaolô được xây dựng năm 1602.
Nhân khẩu
Ngôn ngữ thường dùng tại nhà của người dân[79] |
|
---|---|
Ngôn ngữ | Tỷ lệ dân số |
tiếng Quảng Đông | 85,7% |
Các phương ngữ tiếng Trung khác |
6,7% |
tiếng Bồ Đào Nha | 0,6% |
Quan thoại | 3,2% |
tiếng Anh | 1,5% |
Khác | 2,3% |
Miếu Ma Các, được xây dựng vào năm 1448 để thờ Ma Tổ.
Tăng trưởng dân số tại Ma Cao chủ yếu là do nhập cư từ Trung Quốc đại lục và dòng người lao động hải ngoại do tỷ suất sinh tại đây ở vào hàng thấp nhất thế giới.[81] Theo một khảo sát do CIA tiến hành, Ma Cao là quốc gia hay lãnh thổ có tuổi thọ tính từ lúc sinh trung bình là 84,36 tuổi,[82] trong khi tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh của Ma Cao nằm ở hàng thấp nhất thế giới.[83]
Cả tiếng Trung (tiếng Quảng Đông) và tiếng Bồ Đào Nha đều là ngôn ngữ chính thức của Ma Cao.[84] Ma Cao vẫn duy trì phương ngữ tiếng Bồ Đào Nha riêng của mình, được gọi là tiếng Bồ Đào Nha Ma Cao. Các ngôn ngữ khác như Quan thoại, tiếng Anh và tiếng Mân Nam cũng được một số cộng đồng bản địa nói.[85] Tiếng Bồ thổ sinh Ma Cao, một ngôn ngữ Creole thường được gọi là Patuá, vẫn được vài chục người Ma Cao nói.[86]
Hầu hết người Hán tại Ma Cao chịu ảnh hưởng sâu sắc từ truyền thống và văn hóa riêng của họ, hầu hết gắn bó với tôn giáo truyền thống Trung Hoa, họ tin tưởng vào Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo, chúng tạo thành một khối không thể tách rời.[44] Ma Cao có một cộng đồng Ki-tô hữu khá lớn; tín hữu Công giáo La Mã và Tin Lành lần lượt chiếm 7% và 2% dân cư. Thêm vào đó, 17% dân số theo Phật giáo Đại thừa nguyên bản.[87]
Từ khi Ma Cao có một nền kinh tế lấy du lịch làm động lực, 14,6% lực lượng lao động làm việc trong các nhà hàng và khách sạn, và 10,3% làm việc trong ngành công nghiệp đánh bạc.[85] Với việc khai trương một số khu nghỉ dưỡng casino và đang tiến hành xây dựng các công trình lớn khác, nhiều lĩnh vực được tường trình là phải chịu cảnh thiếu lao động, và chính quyền Ma Cao đã tìm cách nhập khẩu lao động từ các khu vực lân cận.
Số lao động nhập khẩu đã lên mức cao kỷ lục 98.505 vào quý 2 năm 2008, tương ứng với hơn 25% lực lượng lao động tại Ma Cao.[88] Một số lao động bản địa đã phàn nàn về việc thiếu việc làm do làn sóng lao động giá rẻ. Một số người cũng cho rằng vấn đề lao động bất hợp pháp là nghiêm trọng.[89] Một mối quan tâm khác là việc gia tăng bất bình đẳng về thu nhập trong khu vực. Hệ số Gini của Ma Cao, một đơn vị đo độ bất bình đẳng thu nhập phổ biến, đã tăng từ 0,43 vào năm 1998 lên 0,48 vào năm 2006. Hệ số này ở mức cao hơn các khu vực lân cận, như tại Trung Quốc đại lục (0,447), Hàn Quốc (0,316) và Singapore (0,425).[90]
Giáo dục

Tòa nhà hành chính của Đại học Ma Cao, đại học hiện đại đầu tiên trong khu vực.
Ma Cao không sở hữu hệ thống giáo dục phổ quát của riêng mình; ngoại trừ các trường bậc cao ra, các trường học còn lại hoặc là theo hệ thống giáo dục của Anh, Trung Quốc, hoặc của Bồ Đào Nha. Hiện nay có 10 thể chế giáo dục bậc cao tại khu vực, bốn trong số chúng là thể chế công.[44] Năm 2006, Chương trình đánh giá học sinh quốc tế, một cuộc khảo sát trên phạm vi toàn thế giới về thành tích giáo dục của học sinh 15 tuổi phối hợp với OECD, đã xếp Ma Cao đứng thứ năm và thứ sáu về khoa học và giải quyết vấn đề, tương ứng.[91] Tuy nhiên, mặt bằng giáo dục của Ma Cao đứng ở mức thấp trong số các khu vực có thu nhập cao. Theo điều tra dân số năm 2006, trong số các cư dân Ma Cao bằng và trên 14 tuổi, chỉ 51,8% có trình độ giáo dục trung học và 12,6% có trình độ giáo dục bậc cao (cao đẳng hay đại học).[79]
Theo quy định của Điều 121 trong Chương VI của Luật Cơ bản Ma Cao, chính phủ Ma Cao sẽ tự mình xây dựng các chính sách về giáo dục, bao gồm các chính sách liên quan đến hệ thống và sự quản lý giáo dục, ngôn ngữ giảng dạy, phân bổ kinh phí, hệ thống khảo thí, công nhận học vị và hệ thống các giải thưởng học thuật để thúc đẩy phát triển giáo dục. Phù hợp với luật cơ bản, chính quyền Ma Cao sẽ dần dần thiết lập một hệ thống giáo dục nghĩa vụ. Các tổ chức cộng đồng và cá nhân có thể điều hành các công việc giáo dục trong các loại hình khác nhau theo quy định của pháp luật.[78]
Chăm sóc sức khỏe
Người dân Ma Cao có một bệnh viện công lớn là bệnh viện Conde S. Januário (仁伯爵綜合醫院), và một bệnh viện tư lớn là bệnh viện Kính Hồ (鏡湖醫院), cả hai đều nằm trên bán đảo Ma Cao, cùng với chúng là một bệnh viện đại học mang tên Bệnh viện Khoa Đại (科大醫院) tại Lộ Đãng Thành. Bên cạnh các bệnh viện này, Ma Cao cũng có một rất nhiều các trung tâm y tế cung cấp chăm sóc sức khỏe cơ bản một cách miễn phí cho các cư dân. Ngoài ra, Đông y cũng hiện diện tại Ma Cao.[92]Hiện nay, không có bệnh viện nào tại Ma Cao được đánh giá một cách độc lập thông qua kiểm định chăm sóc sức khỏe quốc tế. Không có trường tây y tại Ma Cao và do đó tất cả những ai muốn trở thành bác sĩ sẽ phải tiếp nhận giáo dục và lấy chứng chỉ ở nơi khác.[44] Các y tá địa phương được đào tạo tại Viện Bách khoa Ma Cao và Cao đẳng Điều dưỡng Kính Hồ.[93][94]
Cục Y tế Ma Cao là đơn vị chịu trách nhiệm chính trong việc phối hợp hoạt động giữa các tổ chức công và tư trong lĩnh vực y tế công cộng, đảm bảo sức khỏe của các công dân thông qua các dịch vụ chuyên dụng và chăm sóc sức khỏe ban đầu, cũng như ngăn ngừa dịch bệnh và nâng cao sức khỏe.[95] Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa bệnh tật Ma Cao đã được thành lập vào năm 2001, giám sát hoạt động của các bệnh viện, các trung tâm y tế, và trung tâm truyền máu tại Ma Cao. Thể chế này cũng quản lý cơ quan chăm sóc sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật ảnh hưởng đến dân cư, thiết lập nguyên tắc chỉ đạo đối với những bệnh viện và người cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tư nhân, và phát hành giấy phép.[96]
Giao thông
Các phương tiện giao thông tại Ma Cao đi bên trái, không giống với cả Trung Quốc đại lục và Bồ Đào Nha. Ma Cao có một mạng lưới giao thông công cộng phát triển tốt, kết nối bán đảo Ma Cao, Lộ Đãng Thành, Đãng Tử, Lộ Hoàn. Xe buýt và taxi là các loại hình giao thông cộng cộng chính tại Ma Cao. Hiện có ba công ty mang tên Transmac, Transportas Companhia de Macau và Reolian Public Transport Co., hoạt động dịch vụ xe buýt công cộng tại Ma Cao.[97] Xích lô cũng hiện diện tại Ma Cao, song nó chủ yếu phục vụ cho mục đích thăm quan. Nhà khai thác dịch vụ xe buýt công cộng mới nhất là Reolian Public Transport Co., công ty này đã tiến vào thị trường Ma Cao vào ngày 1 tháng 8 năm 2011. Nhà khai thác này hoạt động trên các tuyến mà Transmac và Transportas Companhia de Macau cũng đang hoạt động.Bến phà vận chuyển hành khách Ngoại Cảng cung cấp dịch vụ vận tải xuyên ranh giới cho những hành khách đi lại giữa Ma Cao và Hồng Kông, trong khi bến phà Áo Thông (Yuet Tung) tại Nội Cảng cung cấp dịch vụ cho các hành khách đi lại giữa Ma Cao và các thành phố tại Trung Quốc đại lục, bao gồm Xà Khẩu và Thâm Quyến.[98]
Ma Cao có một sân bay quốc tế hoạt động, được gọi là sân bay quốc tế Ma Cao, nằm ở cực đông của Đãng Tử và vùng nước lân cận. Sân bay này từng là một trong những trung tâm quá cảnh chính đối với các hành khách đi lại giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan, song hiện nay giữa khai khu vực này đã khai thông các đường bay trực tiếp.[99][100] Sân bay là trung tâm chính của Air Macau. Năm 2006, sân bay quốc tế Ma Cao đã phục vụ khoảng 5 triệu lượt hành khách.[101]
Văn hóa
Sự pha trộn giữa truyền thống văn hóa và tôn giáo Trung Hoa và Bồ Đào Nha trong hơn bốn thế kỷ đã biến Ma Cao thành một tập hợp độc đắc gồm các ngày nghỉ, lễ hội và sự kiện. Sự kiện lớn nhất trong năm là Macau Grand Prix vào tháng 11,[102] khi những đường phố chính tại bán đảo Ma Cao trở thành đường đua ô tô Công thức 1 tương tự như Monaco Grand Prix. Các sự kiện thường niên khác bao gồm lễ hội Nghệ thuật Ma Cao được tổ chức vào tháng 3,[103] thi trình diễn pháo hoa quốc tế vào tháng 9,[104] lễ hội Âm nhạc quốc tế trong tháng 10 và/hoặc tháng 11,[105] và Marathon quốc tế Ma Cao vào tháng 12.[106]Tết Nguyên Đán là lễ hội truyền thống quan trọng nhất, nó thường diễn ra vào cuối tháng một hoặc đầu tháng 2 dương lịch.[107][108] Bồ Đề Viên (菩提園) tại Đãng Tử là nơi tổ chức lễ hội thần Thổ Địa vào tháng 2. Đám diễu hành Khổ nạn của Chúa cha là nghi thức và hành trình Công giáo nổi tiếng, đám diễu hàng đi từ Nhà thờ Thánh Austin đến Nhà thờ Lớn, cũng được tổ chức vào tháng 2.[53]
Ẩm thực địa phương của Ma Cao là một sự pha trộn giữa ẩm thực Quảng Đông và ẩm thực Bồ Đào Nha.[109] Nhiều món ăn độc đáo là kết quả của những pha trộn nguyên liệu khi vợ của các thủy thủ Bồ Đào Nha cố gắng tái tạo nên những món ăn Âu. Thành phần và gia vị của nó đến từ châu Âu, Nam Mỹ, châu Phi, Ấn Độ, và Đông Nam Á, cũng như những thành phần bản địa Trung Hoa.[110] Điểm đặc trưng là thực phẩm Ma Cao được ướp gia vị với các gia vị và hương liệu khác nhau bao gồm nghệ, nước cốt dừa, quế và cá tuyết phơi khô ướp muối, cho ra mùi thơm và vị đặc biệt.[111] Các món ăn nổi tiếng của Ma Cao bao gồm Galinha à Portuguesa, Galinha à Africana (gà Phi), Bacalhau, tôm cay Ma Cao và cua cà ri xào. Bánh sườn cốt lết (豬扒包), sữa gừng đông (薑汁撞奶) và trứng chua cay (蛋撻) cũng rất phổ biến tại Ma Cao.[112]
Ma Cao bảo tồn được nhiều di tích lịch sử trong khu vực đô thị. Khu lịch sử Ma Cao bao gồm khoảng 25 địa điểm lịch sử, được liệt kê chính thức là một Di sản thế giới của UNESCO vào ngày 15 tháng 7 năm 2005 trong kỳ họp thứ 29 của Ủy ban Di sản Thế giới, được tổ chức tại Durban, Nam Phi.[113]
Thể thao
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Ma Cao, và trên bình diện quốc tế, lãnh thổ này có Đội tuyển bóng đá quốc gia Ma Cao. Môn thể thao phổ biến khác tại Ma Cao là khúc côn cầu giày trượt, nó thường được người Bồ Đào Nha chơi. Ma Cao luôn tham gia vào giải vô địch khúc côn cầu giày trượt thế giới ở hạng B. Đội tuyển quốc gia của Ma Cao là đội khúc côn cầu giày trượt mạnh nhất châu Á và đã có nhiều danh hiệu vô địch khúc côn cầu giày trượt châu Á. Giải đua ô tô công thức 1 Macau Grand Prix được cho là sự kiện thể thao quốc tế quan trọng nhất tại Ma Cao. Đại hội Thể thao châu Á Trong nhà 2007 cũng được tổ chức tại đây.Các thành phố kết nghĩa
Lisboa, Bồ Đào Nha
Porto, Bồ Đào Nha
Brussels, Bỉ (thỏa thuận hữu nghị)
São Paulo, Brasil
Đà Nẵng, Việt Nam (thỏa thuận hữu nghị)
Luanda, Angola (thỏa thuận hữu nghị)
Coimbra, Bồ Đào Nha
Linköping, Thụy Điển
Xem thêm
Ghi chú
- ^ “2014年第1季人口統計”. Cục Thống kê và Phổ tra Ma Cao. 9 tháng 5 năm 2014.(Trung văn phồn thể)
- ^ “澳人口破61萬料續增”. Áo Môn nhật báo bản A7. 10 tháng 5 năm 2014.(Trung văn phồn thể)
- ^ “Results of 2011 Population Census”. Statistics and Census Service. Macao SAR Government. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Macao in Figures 2010”. Statistics and Census Service, Macau SAR. 2010. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2010.
- ^ a ă â Macau Yearbook 2007, 475.
- ^ Fung 1999, tr. 5
- ^ “Macau and the end of empire”. BBC News. 18 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ a ă â b “Content of Basic Law of Macau”. University of Macau. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Joint declaration of the Government of the People's Republic of China and The Government of the Republic of Portugal on the question of Macau”. GPB Govt of Macau. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ “COUNTRY COMPARISON:: LIFE EXPECTANCY AT BIRTH”. CIA. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2013.
- ^ a ă Macau Yearbook 2007, 517.
- ^ Fung 1999, tr. 298
- ^ a ă â b “The entry "Macau history" in Macau Encyclopedia” (bằng tiếng Trung). Macau Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2008.
- ^ Chan 2000, tr. 3-4
- ^ Fung 1999, tr. 5-6
- ^ a ă Fung 1999, tr. 7
- ^ Joseph Timothy Haydn (1885). Dictionary of dates, and universal reference. [With] (ấn bản 18). tr. 522. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. ‘MACAO (in Quang-tong, S. China) was given to the Portuguese as a commercial station in 1586 (in return for their assistance against pirates), subject to an annual tribute, which was remitted in 1863. Here Camoens composed part of the " Lusiad."’ (Oxford University)
- ^ The Mirror of literature, amusement, and instruction, Volume 7. LONDON: J. Limbird. 1845. tr. 262. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. ‘In I564, Portugal commanded the trade of India, Japan, and China, though their pride was deeply shocked at the supreme indifference with which the Chinese treated them. Their atrocities at Ningpo and Macau, and their subsequent servility, had opened the eyes of the Celestials to their true character, and unfortunately for other European adventurers, they had come to the conclusion that all western nations were alike. The senate of Macau complained to the viceroy of Goa, of the contempt with which the Chinese authorities treated them, confessing however that, "it was owing more to the Portuguese themselves than to the Chinese." The Chinese were obliged to restrict the commerce of Portugal to the port of Macau, in 1631. A partnership was then formed with some Chinese dealers in Canton, who were to furnish exports and take delivery of imports at Macau. This scheme did not suit the Chinese; they were dissatisfied with their partners, and speedily dissolved the connection.’ (Princeton University)
- ^ George Bryan Souza (2004). The Survival of Empire: Portuguese Trade and Society in China and the South China Sea 1630-1754 . Cambridge University Press. tr. 32. ISBN 0-521-53135-7. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “soldiers 5000 slaves 20000 Chinese 1643 2000 moradores (Portuguese inhabitants) 1644 40000 total inhabitants 1648 Jesuits record”
- ^ Atlas of languages of intercultural communication in the Pacific, Asia and the Americas. Walter de Gruyter. 1996. tr. 323. ISBN 3-11-013417-9. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “The Portuguese population of Macau was never very large. Between the period 1601 -1669, a typical cross section of the population consisted of about 600 casados, 100-200 other Portuguese, some 5000 slaves and a growing number of Chinese”
- ^ Zhidong Hao (2011). Macau History and Society . Hong Kong University Press. tr. 63. ISBN 988-8028-54-5. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “This is a time when there were most African slaves, about 5100. In comparison there were about 1000 to 2000 during the later Portuguese rule in Macau.”
- ^ “The entry "Catholic" in Macau Encyclopedia” (bằng tiếng Trung). Macau Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ Indrani Chatterjee, Richard Maxwell Eaton biên tập (2006). Slavery and South Asian history . Đại học Indiana Press. tr. 238. ISBN 0-253-21873-X. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. ‘Portuguese,"he concluded;"The Portuguese beat us off from Macau with their slaves."10 The same year as the Dutch... an English witness recorded that the Portuguese defense was conducted primarily by their African slaves,who threw’
- ^ Middle East and Africa. Taylor & Francis. 1996. tr. 544. ISBN 1-884964-04-4,. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “A miscellaneous assemblage of Portuguese soldiers, citizens, African slaves, friars, and Jesuits managed to withstand the attack. Following this defeat, the Dutch made no further attempts to take Macau, although they continued to harass”
- ^ Christina Miu Bing Cheng (1999). Macau: a cultural Janus . Hong Kong University Press. tr. 159. ISBN 962-209-486-4. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “invaded Macau on 24 June 1622 but was defeated by a handful of Portuguese priests, citizens and African slaves”
- ^ Steven Bailey (2007). Strolling in Macau: A Visitor's Guide to Macau, Taipa, and Coloane . ThingsAsian Press. tr. 15. ISBN 0-9715940-9-0. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “On June 24, 1622, a Dutch fleet under Captain Kornelis Reyerszoon assembled a landing force of some 800 armed sailors, a number thought more than sufficient to overpower Macau's relatively weak garrison. Macau's future as a Dutch colony seemed all but assured, since the city's... still remained under construction and its defenders numbered only about 60 soldiers and 90 civilians, who ranged from Jesuit priests to African slaves”
- ^ Ruth Simms Hamilton biên tập (2007). Routes of passage: rethinking the African diaspora, Volume 1, Part 1. Volume 1 of African diaspora research. Michigan State University Press. tr. 143. ISBN 0-87013-632-1. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. ‘Jan Coen, who had been sent to establish a Dutch base on the China coast, wrote about the slaves who served the Portuguese so faithfully: "It was they who defeated and drove away our people last year."’(the University of California)
- ^ Centro de Estudos Históricos Ultramarinos (1968). Studia, Issue 23. Centro de Estudos Históricos Ultramarinos. tr. 89. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “85, quotes a report from the Dutch governor-general, Coen, in 1623: «The slaves of the Portuguese at Macau served them so well and faithfully, that it was they who defeated and drove away our people last year».”(University of Texas)
- ^ Japan and Africa: the evolution and nature of political, economic and human bonds, 1543-1993. HSRC. 1993. tr. 23. ISBN 0-7969-1525-3. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “A year later, Captain Coen was still harping on the same theme: 'The slaves of the Portuguese at Macau served them so well and faithfully, that it was they who defeated and drove away our people there last year'. Captain Coen was”
- ^ Charles Ralph Boxer (1968). Fidalgos in the Far East 1550–1770 . Oxford U.P. tr. 85. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011. “The enemy, it was reported, 'had lost many more men than we, albeit mostly slaves. Our people saw very few Portuguese'. A year later he was still harping on the same theme. 'The slaves of the Portuguese at Macau served them so well and faithfully, that it was they who defeated and drove away our people there last”(the University of Michigan)
- ^ Macau Yearbook 2007, 518.
- ^ Fung 1999, tr. 409-410
- ^ p.116 Garrett, Richard J. The Defences of Macau: Forts, Ships and Weapons Over 450 Years Hong Kong University Press, 01/02/2010
- ^ Fung 1999, tr. 410-411
- ^ “The entry "12-3 Incident" in Macau Encyclopedia” (bằng tiếng Trung). Macau Foundation. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ Lo Shiu-hing (December năm 1989). “Aspects of Political Development in Macau”. The China Quarterly 120: 837–851. doi:10.1017/S030574100001849X.
- ^ Fung 1999, tr. 418
- ^ Fung 1999, tr. 424
- ^ Macau Yearbook 2007, 519–520.
- ^ “Basic Law of Macau Chapter II: Relationship between the Central Authorities and the Macau Special Administrative Region”. Government Printing Bureau. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Basic Law of Macau Chapter V: The Economy”. Government Printing Bureau. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Basic Law of Macau Chapter VII: External Affairs”. Government Printing Bureau. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Election of the Chief Executive”. Government Printing Bureau. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2006.
- ^ a ă â b c Macau 2007 Yearbook. Government Information Bureau of Macau SAR. 2007. ISBN 978-99937-56-09-5.
- ^ “Edmund Ho Wins Election for 2nd Term”. Xinhua News Agency. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Introduction of the Legislative Assembly of the Macau Special Administrative Region”. The Legislative Assembly of Macau. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2006.
- ^ “List of Suffrage”. CIA – The World Factbook. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Polls favor indirect vote of Macau's next chief executive”. (Source: Xinhua)People's Daily Online. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ Sam Hou Fai. “Brief Introduction of Judicial System of [[Macau SAR]]”. UNESCO. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2006. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)
- ^ “Background Note: Macau – Government”. Bureau of East Asian and Pacific Affairs, U.S. Department of State. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Macao legislature passes national security bill”. Peopledaily. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Macao: Stop the National Security Bill now”. Amnesty International. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2009.
- ^ a ă â b “Macau Geography”. AsiaRooms.com. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ Yan. “[[Zhuhai Gongbei]] Checkpoint Opens Earlier”. New Guangdong newsgd. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)
- ^ a ă â “Macau Climate, Temp, Rainfall and Humidity”. Nexus Business Media Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
- ^ “100 years of Macau Climate”. Macao Meteorological and Geophysical Bureau. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Employed population by occupation”. Statistics and Census Service (DSEC) of the Macau Government. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
- ^ Chan 2000, tr. 12=13
- ^ “CIA the world factbook”. CIA the World Factbook – Macau. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2007.
- ^ High Income Group “Income Group – High Income, World Bank”. World Bank. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Economic statistics from Monetary Authority of Macau”. AMCM. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007.
- ^ UNWTO World Tourism Barameter “UNWTO World Tourism Barameter”. World Tourism Organisation (UNWTO). June năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Visitor arrivals by place of residence”. Statistics and Census Service (DSEC) of the Macau Government. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2006.
- ^ “Sands Macau-is the largest casino in the world”. Ready Bet Go. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2006.[liên kết hỏng]
- ^ “Wynn Fine-Tuning Details at 600-Room Macau Resort”. Gaming News. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2006.
- ^ “Macau, a tiny special administrative region of China, appears to have overtaken the famous Las Vegas Strip as the world's top gambling destination”. BBC News – Business. 25 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2006.
- ^ “Vegas vs. Macau, who will win?”. BusinessWeek Online (8 June 2006). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2006.
- ^ David Barboza (24 tháng 1 năm 2007). “Asian Rival Moves Past Las Vegas”. New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2007.
- ^ World Class Casino
- ^ “House of Dancing Water”. Macau.com. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2012.
- ^ “MGM Dragon with Pat Lee”. Popular Trash. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2012.
- ^ Luis Pereira. “Offshore Operation in Macau”. Macau Business. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007.
- ^ Errico and Musalem (1999). “Countries, Territories, and Jurisdictions with Offshore Financial Centers”. IMF. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2006.
- ^ “Macau Currency”. AsiaRooms.com. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2008.
- ^ Monetary Authority of Macau “The homepage of Monetary Authority of Macau”. The Monetary Authority of Macau, the Govt. of Macau SAR. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2007.
- ^ IPIM “The Macau Trade and Investment Promotion Institute”. The Macau Trade and Investment Promotion Institute, the Govt. of Macau SAR. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2007.
- ^ Hemscott “the web site of Hemscott and Empowering Inverstors”. Hemscott.com. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2007.
- ^ a ă “Content – Basic Law of Macau”. University of Macau. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2008.
- ^ a ă â b c Global Results of By-Census 2006. Statistics and Census Service (DSEC) of the Macau Government. 2007.
- ^ “United Nations World Population Prospects (2004 revision)”. UN Statistics Division. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Rank Order – Birth rate”. CIA – The World Factbook. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Rank Order – Life expectancy at birth”. CIA – The World Factbook. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Rank Order – Infant mortality rate”. CIA – The World Factbook. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Solution of Transition-Related Issues Essential to Sino-Portuguese Cooperation”. People's Daily Online. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ a ă “Macau Overview”. CIA – The World Factbook. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ Fernandes, Senna (2004). Maquista Chapado: Vocabulary and Expressions in Macau's Portuguese Creole. Macau: Miguel de and Alan Baxter.
- ^ “Background Note: Macau Profile”. U.S. State Department. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Principal statistical indicators”. Statistics and Census Service (DSEC) of the Macau Government. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Rare Macau protest turns violent”. BBC News – Business. 1 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Profile of China: The problems behind Macau's prosperity” (bằng tiếng Trung). BBC Chinese. 31 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2008.
- ^ “PISA 2006 Science Competencies for Tomorrow's World”. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Macau Factsheet”. The Govt. of Macau SAR. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Macau Polytechnic Institute General Information”. Macau Polytechnic Institute. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Homepage of the College of Nursing and Midwifery”. College of Nursing and Midwifery, Macau. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2007.
- ^ “The introduction of Health Bureau, Macau SAR”. The Govt. of Macau SAR. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2007.
- ^ “The policy and functions of the department of health, Macau SAR”. The Govt. of Macau SAR. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2007.
- ^ Macau Yearbook 2007, 453–454.
- ^ Macau Yearbook 2007,458.
- ^ Chan 2000, tr. 58
- ^ Fung 1999, tr. 198
- ^ Macau Yearbook 2007, 467–468.
- ^ “Grand Prix Macau”. Macau Grand Prix Committee. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Events and Festivals”. Marimari.com, Inc. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Events and Festivals”. Marimari.com, Inc. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Events and Festivals”. Marimari.com, Inc. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Events and Festivals”. Marimari.com, Inc. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Events and Festivals”. Marimari.com, Inc. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Macau Festivals & Events”. AsiaRooms.com. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Food in Macau”. Marimari.com, Inc. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Macanese Cuisine”. thisisthelife.com. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Discovering Macau – fabulous food spice route and early fusion cuisine”. Discovery.com. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007.
- ^ “Macau Dining”. TravelChinaGuide.com. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007.
- ^ “Mostar, Macau and Biblical vestiges in Israel are among the 17 cultural sites inscribed on UNESCO's World Heritage List”. UNESCO. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2006.
Thư mục
- Fung, Bong Yin (1999). Macau: A General Introduction (bằng tiếng Trung). Joint Publishing (H.K.) Co. Ltd. ISBN 962-04-1642-2.
- Chan, S. S. (2000). The Macau Economy. Publications Centre, University of Macau. ISBN 99937-26-03-6.
- Godinho, Jorge (2007). Macau business law and legal system. LexisNexis, Hong Kong. ISBN 978-962-8937-27-1.
- Government Information Bureau (2007). Macau Yearbook 2007. Government Information Bureau of the Macau SAR. ISBN 978-99937-56-09-5.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ma Cao |
|
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment