CNM365. Chào ngày mới 02 tháng 12 . Wikipedia Ngày này năm xưa. Quốc khánh Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (1971) và Lào (1975); ngày Quốc tế phế trừ chế độ nô lệ. Năm 1804 – Napoléon Bonaparte làm lễ đăng quang hoàng đế Pháp tại Nhà thờ Đức Bà Paris, là hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Pháp trong vòng một nghìn năm.Năm 1845 – Kết thúc Chiến tranh Việt–Xiêm bằng hòa ước quốc tế, theo đó Campuchia chịu bảo hộ của Việt Nam lẫn Xiêm La, Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm 1975 – Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (hình quốc kỳ) được thành lập sau khi Pathet Lào chiếm Viêng Chăn, Vương quốc Lào chấm dứt tồn tại, Nội chiến Lào chính thức kết thúc.Năm 1988 – Benazir Bhutto tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Pakistan, trở thành người phụ nữ đầu tiên lãnh đạo chính phủ trong một đất nước Hồi giáo.
Lào
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào | |||||
---|---|---|---|---|---|
ສາທາລະນະລັດປະຊາທິປະໄຕ ປະຊາຊົນລາວ (tiếng Lào) Sathalanalat Paxathipatai Paxaxon Lao (tiếng Lào) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
"Hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng" | |||||
Quốc ca | |||||
Pheng Xat Lao
![]() |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Xã hội chủ nghĩa, một đảng | ||||
• Tổng Bí thư, Chủ tịch nước | Choummaly Sayasone | ||||
• Thủ tướng | Thongsing Thammavong | ||||
• Chủ tịch Quốc hội | Pany Yathotou | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Lào | ||||
Thủ đô | Viêng Chăn | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 236.800 km² (hạng 79) | ||||
Diện tích nước | 2,53% % | ||||
Múi giờ | ĐNÁ (UTC+7); mùa hè: ĐNÁ (UTC+7) | ||||
Lịch sử | |||||
19.7.1949 22.10.1954 |
• Tuyên bố • Công nhận |
||||
Dân số (2009) | 6.800.000 người | ||||
Mật độ | 26,7 người/km² (hạng 102) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2010) | Tổng số: 15,69 tỉ dollar Mỹ | ||||
GDP (danh nghĩa) (2009) | Tổng số: 5,598 triệu dollar Mỹ | ||||
HDI (2009) | 0.545 | ||||
Đơn vị tiền tệ | Kíp (LAK ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .la |
Bài viết này có chứa các ký tự Lào. Nếu không được hỗ trợ hiển thị đúng, bạn có thể sẽ nhìn thấy các ký hiệu chấm hỏi, ô vuông, hoặc ký hiệu lạ khác thay vì các chữ Lào. |
Mục lục
Lịch sử
![]() |
Thông tin trong bài này hoặc đoạn này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. |
Khi chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, năm 1968 quân tình nguyện Việt Nam sang tham chiến cùng quân Pathet Lào, chống lại chính phủ vương quốc Lào và quân đội Hoa Kỳ. Năm 1975 phong trào cộng sản Pathet Lào do Hoàng thân Souphanouvong lãnh đạo đã xóa bỏ chính quyền vương quốc Lào, đưa vua Savang Vatthana vào trại học tập cải tạo và nắm quyền lãnh đạo đất nước này. Ngày 2 tháng 12 năm 1975, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Lào quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Ngày này cũng được lấy làm ngày quốc khánh của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Lào là thành viên Liên Hiệp Quốc từ ngày 14 tháng 12 năm 1955. Những năm cuối thập niên 1980, Lào thực hiện chính sách nới lỏng kiểm soát kinh tế. Năm 1997 quốc gia này gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Hiện nay quan hệ với Việt Nam vẫn là cơ bản trong chính sách đối ngoại của Lào.
Địa lý
Địa thể đất Lào có nhiều núi non bao phủ bởi rừng xanh; đỉnh cao nhất là Phou Bia cao 2.817 m. Diện tích còn lại là bình nguyên và cao nguyên. Sông Mê Kông chảy dọc gần hết biên giới phía tây, giáp giới với Thái Lan, trong khi đó dãy Trường Sơn chạy dọc theo biên giới phía đông giáp với Việt Nam.
Khí hậu trong khu vực là khí hậu nhiệt đới của khu vực gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, tiếp theo đó là mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Thủ đô và thành phố lớn nhất của Lào là Viêng Chăn, các thành phố lớn khác là: Louang Phrabang, Savannakhet và Pakse.
Lào cũng là quốc gia có nhiều loài động vật quí hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voi và bò tót khổng lồ. Rất nhiều loài đang đứng trước hiểm họa tuyệt chủng do nạn săn trộm và phá rừng.
Chính trị Lào
Chính trị Lào duy nhất là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Người đứng đầu nhà nước là Chủ tịch nước được Quốc hội cử ra có nhiệm kỳ 5 năm. Người đứng đầu chính phủ là Thủ tướng. Chính phủ được Chủ tịch nước đề cử và Quốc hội thông qua. Đường lối chính sách của chính phủ do Đảng lãnh đạo thông qua 9 ủy viên Bộ Chính trị và 49 ủy viên Trung ương đảng. Các quyết sách quan trọng của chính phủ do Hội đồng bộ trưởng biểu quyết thông qua.Lào thông qua hiến pháp mới năm 1991. Trong năm sau đó đã diễn ra bầu cử Quốc hội với 85 đại biểu. Các thành viên quốc hội được bầu bằng bỏ phiếu kín. Quốc hội do cuộc bầu cử năm 1997 tăng lên thành 99 đại biểu đã thông qua các đạo luật mới mặc dù cơ quan hành pháp vẫn giữ quyền phát hành các sắc lệnh liên quan. Cuộc bầu cử gần đây nhất diễn ra tháng 2 năm 2002 với 109 đại biểu.
Kinh tế
Lào có nguồn tài nguyên phong phú về lâm nghiệp, nông nghiệp, khoáng sản và thuỷ điện. Nhìn chung kinh tế Lào tuy phát triển song chưa có cơ sở bảo đảm ổn định.
Nền kinh tế trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ. Các mục tiêu kinh tế-xã hội do các kỳ đại hội và các chương trình kế hoạch 5 năm được triển khai thực hiện có hiệu quả. Lào đang nắm bắt thời cơ, đang tạo nên những bước đột phá và đang có những tiền đề cho một thời kỳ tăng tốc. Tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8%, năm 2008 đạt 7,9%. Thu nhập bình quân đầu người tăng dần, năm 2000 đạt 298USD/người/năm; năm 2006 đạt 546USD/người/năm, năm 2007 đạt 678USD/người/năm, năm 2008 đạt 841USD/người/năm. Đến năm 2020, Lào phấn đấu đạt GDP bình quân đầu người tăng gấp 2-3 lần hiện nay, khoảng 1.200-1.500 USD/năm.
Kinh tế đối ngoại: đến năm 2007, Lào có quan hệ thương mại với 60 nước, ký Hiệp định thương mại với 19 nước, 39 nước cho Lào hưởng quy chế GSP. Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản và gỗ.
Đại hội đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VIII tháng 3 năm 2006 đề ra mục tiêu đến năm 2020: xây dựng vững chắc hệ thống chính trị dân chủ nhân dân, trong đó Đảng là hạt nhân lãnh đạo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự an toàn xã hội; đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển; kinh tế phát triển dựa trên sự phát triển nông nghiệp vững chắc và lấy phát triển công nghiệp làm cơ sở, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo chuyển biến cơ bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; phát triển nhịp nhàng các thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể được củng cố và phát triển vững mạnh. GDP tăng gấp 3 lần năm 2000; chủ động mở rộng hợp tác quốc tế.
Lào - một trong số ít các nước cộng sản còn lại - đã bắt đầu dỡ bỏ việc kiểm soát tập trung hóa và tăng cường phát triển doanh nghiệp tư nhân vào năm 1986. Kết quả từ một xuất phát điểm thấp là rất ấn tượng. Tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 7% trong các năm 1988-2001 ngoại trừ một khoảng thời gian tụt xuống do cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu năm 1997.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng cao nhưng Lào vẫn còn là một đất nước với cơ sở hạ tầng lạc hậu. Tại đây đã có tuyến đường sắt nối thủ đô Vientiane (Lào) đến tỉnh Nong Khai (Thái Lan), hệ thống đường bộ mặc dù đã được cải tạo nhưng vẫn đi lại khó khăn, hệ thống liên lạc viễn thông trong nước và quốc tế còn giới hạn, điện sinh hoạt chỉ mới có ở một số khu vực đô thị.
Sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng một nửa tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sử dụng 80% lực lượng lao động. Nền kinh tế vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nguồn quốc tế khác cũng như từ đầu tư nước ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng.
Hành chính
Thủ đô: Viêng Chăn
Các tỉnh: Attapeu - Bokeo - Borikhamxay - Champasack - Huaphanh - Khammuane - Luangnamtha - Luangprabang - Oudomxay - Phongsaly - Saravane - Savannakhet - Viêng Chăn - Xayabury - Sekong - Xiengkhuang - Xaisomboun
- Thành phố: Viêng Chăn (thủ đô), Luangprabang (thành phố)
- Thị xã: Attapeu, Ban Houayxay, Bounneua, Hat Dokeo, Luang Namtha, Nam Thane, Napheng, Oudomxay, Paklay, Pakse, Paksong, Phongsali, Phonhong, Phonsavan, Salavan, Savannakhet (Kaysone Phomvihane), Sayaboury, Seno, Thakhek, Thangone, Vang Vieng, Viengsay.
Dân cư
Các dân tộc sinh sống ở vùng cao là người H'Mông (Mèo), Dao (Yao hay Miền), Thái đen, Shan và một ít người gốc Tây Tạng-Miến Điện, sống tại các khu vực cô lập của Lào. Các bộ lạc vùng cao với một di sản ngôn ngữ sắc tộc hỗn hợp ở phía bắc của Lào. Một cách tổng quát họ được biết đến như là người Lào Sủng hay người Lào vùng cao.
Các vùng núi ở trung tâm và miền nam là nơi sinh sống của các bộ lạc thuộc sắc tộc Môn-Khmer, được biết đến như là người Lao Thơng. Có một ít người là gốc Việt Nam, chủ yếu ở các thành thị, nhưng nhiều người đã rời khỏi đây sau khi Lào giành độc lập cuối những năm thập niên 1940 và sau 1975.
Thuật ngữ Lào không nhất thiết phải chỉ đến ngôn ngữ, dân tộc Lào hay tập quán của người Lào mà nó bao hàm ý nghĩa chính trị nhiều hơn. Nó có thể bao hàm cả các sắc tộc không phải là người Lào gốc nhưng đang sinh sống ở Lào và là công dân Lào. Tương tự như vậy từ "Lào" có thể chỉ đến những người hay ngôn ngữ, văn hóa và ẩm thực của những người thuộc sắc tộc Lào đang sinh sống ở vùng Đông Bắc Thái Lan (Isan).
Tôn giáo chính là Phật giáo Theravada, cùng với những điểm chung của thờ cúng linh vật trong các bộ lạc miền núi là sự cùng tồn tại một cách hòa bình của thờ cúng tinh thần. Có một số ít người theo đạo Kitô và đạo Hồi.
Ngôn ngữ chính thức và chi phối là tiếng Lào, một kiểu phát âm của Nhóm ngôn ngữ Thái. Người Lào vùng trung và cao nguyên nói tiếng của bộ lạc mình.
Văn hóa
Âm nhạc
Âm nhạc của Lào ảnh hưởng lớn của các nhạc cụ dân tộc như kèn (một dạng của ống tre. Một dàn nhạc (mor lam) điển hình bao gồm người thổi khèn (mor khaen) cùng với biểu diễn múa bởi nghệ sĩ khác. Múa Lăm vông (Lam saravane) là thể loại phổ biến nhất của âm nhạc Lào, những người Lào ở Thái Lan đã phát triển và phổ biến rộng rãi trên thế giới gọi là mor lam sing.Lễ hội
Ẩm thực
Giao thông
Giao thông Lào được xem tương đối tốt, tại các thành phố lớn, giao thông rất thuận tiện. Người Lào tại vùng thủ đô đều sử dụng xe hơi do giá nhập khẩu rẻ, người làm công chức được cấp xe nên lượng xe 4 bánh tại các thành phố lớn rất nhiều. Xe máy hầu như rất ít và không có, xe đạp cũng hiếm thấy ngay tại thủ đô.Đường xá hầu hết là đường 2 chiều, tại các ngã tư đèn xanh là đèn một hướng và không cho phép hướng đối diện chạy. Đèn bộ hành cũng như đèn cho xe chạy đều là đèn một hướng.
Du lịch

Phong cảnh Văng Viêng
Truyền thông
Tất cả báo chí đều được phát hành bởi chính quyền, kể cả hai tờ báo tiếng nước ngoài là tờVientiane Times bằng tiếng Anh và tờ Le Renovateur bằng tiếng Pháp. Ngoài ra, Khao San Pathet Lao, hãnh thông tấn chính thức, cũng phát hành các bản tin với phiên bản tiếng Anh và tiếng Pháp. Lao hiện có 9 nhật báo, 90 tạp chí, 43 trậm phát thanh và 32 trạm truyền hình hoạt động trên khắp cả nước.[2]. Ngoài ra, Trung Quốc cũng mở trạm phát thành FM tại thủ đô Viêng Chăn để phát các chương trình của Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc bằng tiếng Trung, tiếng Lào và tiếng Anh.[3] Việc sử dụng Internet chủ yếu chỉ thông dụng ở khu vự đô thị lớn và đặc biệt phổ biến trong giới trẻ.Tôn giáo
Hầu hết dân chúng Lào theo Phật giáo Nam Tông. Người Công giáo và Tin Lành chiếm khoảng 2% dân số. Các nhóm thiểu số tôn giáo khác bao gồm những người thực hành đức tin Bahá'í, Hồi giáo, Phật giáo Đại thừa, và Nho giáo. Một số lượng rất nhỏ người dân không theo tôn giáo nào.Mặt trận xây dựng đất nước Lào (LFNC) chịu trách nhiệm về các vấn đề tôn giáo trong nước và tất cả các tổ chức tôn giáo ở Lào phải đăng ký với tổ chức này.[4]
Hiến pháp Lào quy định tự do tôn giáo, tuy nhiên trong thực tế chính phủ hạn chế các quyền này. Một số quan chức chính phủ bị cáo bưộc vi phạm tự do tôn giáo của công dân.
Xem thêm
- Liên lạc viễn thông ở Lào
- Vận tải ở Lào
- Lực lượng vũ trang Lào
- Quan hệ đối ngoại của Lào
- Danh sách các chủ đề liên quan
- Văn hóa nghệ thuật Lào
Chú thích
- 1 Quốc kỳ Nguồn gốc tên gọi các quốc gia trên thế giới; Nguyễn Hông Trang, Nguyễn Kim Dân, Nguyễn Thuận Ánh - Vũ Hải biên soạn NXB: Văn hóa Thông tin-2005
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lào |
Tiếng Anh
- Laoconnection.com – quốc gia, văn hóa, ngôn ngữ, hình ảnh, lời khuyên, và thêm hơn
- SEAsite Laos quốc gia, văn hóa, ngôn ngữ, hình ảnh, lời khuyên, và thêm hơn
- Bài thông tin về Lào ở Wikitravel
|
|
|
Quốc gia thành viên và quan sát viên của Cộng đồng Pháp ngữ | ||
---|---|---|
Thành viên | Ai Cập · Albania · Andorra · Bỉ (Cộng đồng Pháp ngữ của Bỉ) · Bénin · Bulgaria · Burkina Faso · Burundi · Campuchia · Cameroon · Canada (New Brunswick · Québec) · Cabo Verde · Cộng hòa Trung Phi · Comoros · Congo · Cộng hòa Dân chủ Congo · Côte d'Ivoire · Djibouti · Dominica · Guinea Xích đạo · Cộng hòa Macedonia Guadeloupe · Gabon · Ghana* · Guinée · Guiné-Bissau · Haiti · Hy Lạp · Cộng hòa Síp* · Lào · Luxembourg · Liban · Madagascar · Mali · Mauritania · Mauritius · Moldova · Monaco · Maroc · Niger · Pháp (bao gồm Guyane thuộc Pháp · Martinique · Saint Pierre và Miquelon) · Tchad · Romania · Rwanda · Saint Lucia · São Tomé và Príncipe · Sénégal · Seychelles · Thụy Sĩ · Togo · Tunisia · Vanuatu · Việt Nam | |
Quan sát viên | ||
* Thành viên liên minh. |
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
الإمارات العربيّة المتّحدة Al-Imārāt al-ʿArabiyyah al-Muttaḥidah |
|||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Chúa trời, Quốc gia, Tổng Thống | |||||
Quốc ca | |||||
Ishy Bilady | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Liên bang quân chủ lập hiến | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Khalifa bin Zayed Al Nahayan Mohammed bin Rashid Al Maktoum |
||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Ả Rập | ||||
Thủ đô | Abu Dhabi |
||||
Thành phố lớn nhất | Abu Dhabi | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 83,600 km² (hạng 114) | ||||
Diện tích nước | không đáng kể % | ||||
Múi giờ | GMT (UTC+4); mùa hè: UTC+4 | ||||
Lịch sử | |||||
2 tháng 12, 1971 | Thành lập | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2006) | 4,496,000 người (hạng 116) | ||||
Mật độ | 54 người/km² (hạng 139) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2006) | Tổng số: 130.8 tỷ Mỹ kim | ||||
HDI (2003) | 0.849 cao (hạng 41) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Dirham (AED ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .ae |
Mục lục
Lịch sử
Năm 1806, Anh đánh chiếm Tiểu Vương quốc Ras al-Khaimah, buộc Tiểu vương phải kí Hiệp ước hòa bình để Anh thiết lập bộ máy cai trị của họ ở đó.
Năm 1833, Bộ lạc Buklab thành lập nước Dubai. Anh đã chia 2 quốc gia Qawasssem và Dubai thành 5 Tiểu vương quốc (UAE): Ras al-Khaimah, Sharjah, Ajman, Dubai và Fujairah.
Năm 1892, Anh lại kí với các lãnh chúa vùng Vịnh các Hiệp định riêng rẽ khẳng định sự bảo trợ duy nhất của mình đối với các nước ở khu vực này.
Đến giữa Thế kỉ 20, Anh tiếp tục củng cố và mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực. Năm 1966, Anh đặt căn cứ quân sự tại Sharjah.
Ngày 1 tháng 12 năm 1971, Anh tuyên bố từ bỏ tất cả các Hiệp định đã kí với các nước vùng Vịnh và rút quân ra khỏi khu vực.
Ngày 2 tháng 12 năm 1971, Nhà nước các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất được thành lập gồm Abu Dhabi, Dubai, Sharjah, Umm al-Qaiwam, Ajman và Fujairah. Đến tháng 2 năm 1972 Ras al-Khaimah mới gia nhập Nhà nước liên bang.
Chính trị
Các đảng phái chính trị đều bị cấm hoạt động.
Thể chế liên bang
Hội đồng tối cao gồm các cá nhân cầm quyền ở bảy tiểu vương quốc. Tổng thống và Phó tổng thống được Hội đồng tối cao bầu ra với nhiệm kỳ năm năm. Dù là không chính thức, Tổng thống trên thực tế là người thừa kế dòng họ Al-Nahyan ở Abu Dhabi và Thủ tướng là người thừa kế dòng họ Al-Maktoom ở Dubai. Hội đồng tối cao cũng lựa chọn ra Hội đồng Bộ trưởng, trong khi một Hội đồng liên bang quốc gia gồm 40 thành viên được chỉ định từ khắp bảy tiểu quốc, quản lý việc thảo các dự luật. Nước này có một hệ thống tòa án liên bang; mọi tiểu quốc trừ Dubai và Ras al-Khaimah đều đã gia nhập hệ thống liên bang; tất cả các tiểu quốc đều có cả hệ thống luật theo truyền thống và luật Hồi giáo đối với dân sự, hình sự và tòa án cấp cao.Sheikh Zayed bin Sultan Al Nahyan là tổng thống từ khi liên bang này được thành lập cho tới khi ông mất ngày 2 tháng 11, 2004. Con trai ông, Khalifa bin Zayed Al Nahayan được bầu làm tổng thống vào ngày hôm sau.
Đối ngoại
UAE thực hiện đường lối đoàn kết Ả Rập, dựa vào Mỹ và phương Tây, đồng thời hướng về châu Á (chủ yếu là Pakistan, Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ). Đối với khu vực Đông Nam Á, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất chú trọng phát triển quan hệ với Singapore, Thái Lan và Malaysia.Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất hiện là thành viên của Liên Hiệp Quốc, OPEC, Liên đoàn Ả Rập, Phong trào không liên kết, Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC), Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), G-77, Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức lao động quốc tế (ILO)...
Kinh tế
Từ năm 1973, UAE đã tiến hành một sự thay đổi lớn biến một vùng đất sa mạc cằn cỗi thành một đất nước hiện đại có mức sống cao. Với mức sản xuất như hiện nay trữ lượng dầu và khí gas có thể khai thác trên 100 năm. Chính phủ có thể đầu tư nhiều hơn để tạo việc làm, mở rộng cơ sở hạ tầng và thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.
Tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là dầu lửa và hơi đốt (trữ lượng dầu lửa 98 tỷ thùng, chiếm khoảng 10% tổng dự trữ dầu đã được xác định của thế giới), trữ lượng khí đốt: 5.892 tỷ m3, xếp hàng thứ 4 thế giới (sau Nga, Iran, và Quatar). Ngành công nghiệp chủ chốt là khai thác và chế biến dầu lửa. Sản lượng dầu khai thác đạt khoảng 3,046 triệu thùng/ngày. Các ngành nông nghiệp chủ yếu là chăn nuôi và trồng chà là. Trồng trọt phát triển ở các ốc đảo bờ đông Liwa, Al Ain, Falaj Al Mualla. Sản phẩm nông nghiệp có chà là, rau quả, gia cầm, trứng, sữa, cá (tự túc được gần 100% nhu cầu về cá).
Các đối tác thương mại chính: Nhật, Hàn Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Đức, Ấn Độ, Pháp, Anh, Iran.
Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 4%, công nghiệp 58,5%, dịch vụ 37,5% (2008).
GDP: $228,6 tỉ USD (2009)
GDP bình quân đầu người: 50.000 USD (2009)
Hàng không
Hàng không quốc gia các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất trước kia là Gulf Air, hoạt động chung với Bahrain và Oman. Ngày 13 tháng 9, 2005, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất thông báo họ đang rút lui khỏi Gulf Air để tập trung vào Etihad Airways, công ty hàng không quốc gia mới của họ, thành lập năm 2003.Năm 1985, Dubai thành lập công ty hàng không riêng đặt tên là Emirates.
Địa lý
Các hiệp ước phân chia biên giới năm 1974 và 1977 giữa Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất và Ả rập Xê út chưa bao giờ được tuyên bố công khai. Vì thế, biên giới chính xác của hai nước này chỉ được chính phủ của họ biết rõ.
Khí hậu
Khí hậu ở UAE là khí hậu sa mạc, nóng và khô, nhiệt độ lạnh hơn ở vùng phía đông. Từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau khí hậu tương đối mát mẻ, dễ chịu, buổi tối hơi lạnh. Mùa hè từ tháng 4 đến tháng 9 khí hậu nóng, nhiệt độ có thể lên tới 42⁰C. Do đó, hầu hết ôtô và các tòa nhà đều có máy điều hòa nhiệt độ. UAE rất ít mưa, mưa rào chỉ xuất hiện vài lần mỗi năm vào các tháng mùa đông với lượng mưa trung bình vào khoảng 110mm/năm. Các tháng mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 01 năm sau) thỉnh thoảng có mưa rào và bão cát.Lãnh thổ bao quanh lãnh thổ nước khác, và lãnh thổ trong lãnh thổ nước khác
25°17′4″B 56°19′59″ĐLãnh thổ Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất bao quanh một vùng đất của Oman được gọi là Wadi Madha. Vùng này nằm giữa đường từ bán đảo Musandam tới phần còn lại của Oman, trên con đường Dubai-Hatta tại Vương quốc Sharjah. Nó rộng gần 75 km² (29 mi²) và biên giới vùng được phân định năm 1969. Góc tây bắc Madha là điểm nằm gần con đường Khor Fakkan-Fujairah nhất, chỉ cách 10 m (33 ft). Bên trong vùng đất này là có một lãnh thổ nhỏ của Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, tên gọi Nahwa, cũng thuộc Vương quốc Sharjah. Nó nằm khoảng 8 km (5 mi) trên một con đường bùn phía tây thị trấn New Madha. Vùng này có khoảng 40 ngôi nhà với trạm điện thoại và bệnh viện riêng [2].
Kỹ thuật và viễn thông
Luật Liên bang số 1 [3] năm 1976 quy định Tập đoàn Viễn thông các tiểu vương quốc là nhà cung cấp độc quyền dịch vụ điện thoại và viễn thông trong nước, tuy nhiên, những vùng tự do và các dự án phát triển nhà ở hiện đại được loại trừ khỏi điều luật này và được quyền sử dụng dịch vụ từ các công ty viễn thông khác.Trên đa phần lãnh thổ Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Etisalat va Du được cung cấp các dịch vụ viễn thông cá nhân và thương mại.
Cơ quan quản lý viễn thông (TRA) buộc Etisalat va Du kiểm duyệt mọi website. Các thông tin bị cho là không chính đáng đều bị ngăn chặn.
Nhân khẩu
Ngôn ngữ chính thức ở UAE là tiếng Ả Rập, tuy nhiên các cơ quan chính quyền đều có khả năng sử dụng tiếng Anh. Tiếng Anh được dùng rộng rãi và trở thành ngôn ngữ chủ yếu trong kinh doanh. Hầu hết các biển báo trên đường phố đều được viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Ả Rập.
UAE là nước đạo Hồi. Người theo Đạo Hồi chiếm 96% dân số, còn lại là Công giáo, Ấn giáo và các đạo khác (chiếm 4%).
Văn hoá
Những ngày lễ
Date | Tên tiếng Việt/Anh | tiếng Ả Rập Chuyển tự |
---|---|---|
1 tháng 1 | Năm mới | رأس السنة الميلادية |
Tùy thuộc | Ngày hy sinh | Eid ul-Adha (عيد الأضحى) |
Tùy thuộc | Năm mới Lịch Hồi giáo | Ra's Al Sana Al Hijria (رأس السنة الهجرية) |
6 tháng 8 | Thăng thiên H.H. Sheikh Zayed bin Sultan-al Nahyan | |
Tùy thuộc | Du ngoạn đêm | Isra'a wa al-Miraj (الإسراء و المعراج) |
2 tháng 12 | Quốc khánh | Al-Eid Al Watani (العيد الوطني) |
Tùy thuộc | Kết thúc Ramadan | Eid ul-Fitr (عيد الفطر) |
Tham khảo
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất |
Thông tin chung
- Ras Al Khaimahs Unique Website with Business Clubs in RAK & Dubai
- Dubai Business Network largest business forum in the UAE
- CIA World Factbook - United Arab Emirates directory category
- Arab Links - United Arab Emirates directory category in arabic
- Open Directory Project - United Arab Emirates directory category
- US State Department - United Arab Emirates includes Background Notes, Country Study and major reports
- Dubai City Guide
- The Emirates Network
- Middle East Public Relations Association (MEPRA)
- Dubai Travel Guide
- UAE Community (includes UAE IT forum)
- Dubai Forums.com
- UAE Expat Portal
- Lores of Dubai
- UAE Forum.net
- Ansar Burney Trust - working on human rights and human trafficking issues in the Middle East; and against the use of children for slavery for camel racing in the UAE
- MAFIWASTA - working on workers' rights issues
- Sport of Sheikhs - Emmy and duPont award winning documentary on child slavery in the UAE
- Dubai - pearl of the middle east
- Panoramic views of UAE
- UAE Footbal Association - The official webiste of the association
- UAE Free Community Classifieds - UAE Free Community Classifieds
|
|
|
Thể loại:
Napoléon Bonaparte[chú thích 1] (tiếng Pháp: Napoléon Bonaparte [napoleɔ̃ bɔnɑpaʁt], tiếng Ý: Napoleone Buonaparte; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821) là một nhà quân sự và nhà chính trị kiệt xuất người Pháp trong và sau cuộc cách mạng Pháp cũng như các cuộc chiến tranh liên quan ở châu Âu.
Với đế hiệu Napoléon I, ông là Hoàng đế của người Pháp từ năm 1804 đến năm 1815. Cuộc cải cách pháp luật của ông, Bộ luật Napoléon, đã có những ảnh hưởng lớn lên nhiều bộ luật dân sự trên toàn thế giới, nhưng ông được nhớ đến nhất bởi vai trò của mình trong các cuộc chiến tranh mà Pháp phải đương đầu với hàng loạt liên minh, được gọi là các cuộc chiến tranh Napoléon. Ông đã thiết lập quyền bá chủ trên phần lớn lục địa châu Âu và tìm cách truyền bá những lý tưởng của cách mạng Pháp, đồng thời củng cố nền đế chế làm phục hồi những nét của chế độ cũ Pháp (Ancien Régime). Nhờ thắng lợi trong những cuộc chiến này, thường là chống lại đối phương có ưu thế về quân số, ông được coi là một trong những nhà quân sự vĩ đại nhất mọi thời đại, và các chiến dịch của Napoléon được nghiên cứu tại các học viện quân sự trên khắp thế giới[1].
Napoléon được sinh ra ở Ajaccio thuộc Corse, trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc Genoa (Ý). Ông được đào tạo thành một sỹ quan pháo binh ở Pháp. Bonaparte trở nên nổi tiếng dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Pháp khi chỉ huy thành công nhiều chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất và các thứ hai chống Pháp. Ông cũng tiến hành cuộc chinh phạt bán đảo Ý.
Năm 1799, ông đã tổ chức một cuộc đảo chính và tự đưa mình trở thành vị Tổng tài thứ nhất; năm năm sau đó Thượng viện Pháp tuyên xưng ông là Hoàng đế Pháp. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 19, Đệ nhất Đế chế Pháp dưới quyền Napoléon đã tham gia vào một loạt xung đột - những cuộc chiến tranh Napoléon - lôi kéo mọi cường quốc chính ở châu Âu tham gia. Sau một loạt thắng lợi, Pháp đạt được vị trí thống trị ở lục địa châu Âu, và Napoléon duy trì phạm vi ảnh hưởng của Pháp thông qua việc thành lập của những mối đồng minh rộng lớn và bổ nhiệm bạn bè và người thân cai trị các quốc gia châu Âu khác như những chư hầu của Pháp.
Cuộc chiến kéo dài ở bán đảo Iberia và cuộc xâm lược nước Nga năm 1812 đánh dấu bước ngoặt trong cơ đồ của Napoléon. Quân đội chủ lực của Pháp, Grande Armée, bị tổn thất nặng nề trong chiến dịch và không bao giờ có thể khôi phục lại hoàn toàn. Năm 1813, Liên minh thứ sáu đã đánh bại quân đội của ông tại Leipzig, năm sau đó Liên minh xâm lược Pháp, buộc Napoléon phải thoái vị và đày ông đến đảo Elba. Chưa đầy một năm sau, ông thoát khỏi Elba và trở lại nắm quyền, nhưng đã bị đánh bại trong trận Waterloo vào tháng 6 năm 1815. Napoléon trải qua sáu năm cuối cùng của cuộc đời trong sự giam cầm của người Anh trên đảo Saint Helena. Cái chết của ông gây ra nhiều tranh cãi về sau, chẳng hạn một số học giả cho rằng ông là nạn nhân của một vụ đầu độc bằng arsen.
Dòng họ Bonaparte ở Corse bắt nguồn từ giới quý tộc nhỏ Ý ở Lombardia[4][5], những người đã đến Corse từ Liguria từ thế kỷ 16[6]. Cha của ông là Nobile Carlo Buonaparte, một luật sư, từng được chỉ định làm đại diện của đảo Corse đối với triều đình vua Louis XVI. Người có ảnh hưởng quyết định trong thời thơ ấu của Napoléon là mẹ ông, Letizia Ramolino, kỉ luật nghiêm khắc của bà đã kiềm chế đứa bé ngỗ nghịch[7].
Ông có một anh trai Joseph và sáu người em là Lucien, Elisa, Louis, Pauline, Caroline và Jérôme. Có hai đứa trẻ khác, một trai một gái được sinh trước Joseph nhưng chết yểu[8]. Napoléon được rửa tội như một người Công giáo ngay trước sinh nhật hai tuổi của mình, vào ngày 21 tháng Bảy năm 1771 tại nhà thờ Ajaccio[9].
Nền tảng quý tộc và tương đối khá giả cùng các mối quan hệ của gia đình giúp Napoléon có cơ hội học tập lớn hơn nhiều so với một người Corse thông thường thời đó[10]. Tháng Một năm 1779, Napoléon đã ghi danh vào một trường tôn giáo ở Autun trên đất liền để học tiếng Pháp. Đến tháng Năm, ông được nhận vào một học viện quân sự tại Brienne-le-Château[11]. Ông nói giọng Corse và không thể đánh vần đúng cách[12], điều khiến ông bị bạn bè trêu chọc và do đó chuyên tâm vào việc đọc[13]. Nhưng một viên giám thị quan sát thấy Napoléon " luôn luôn nổi trội trong sự chăm chú đối với toán học. Anh tương đối thuần thục với lịch sử và địa lý... Chàng trai này sẽ làm nên một thủy thủ xuất sắc"[14][chú thích 3]. Khi hoàn thành việc học ở Brienne năm 1784, Napoléon được nhận vào trường quân sự danh tiếng École Militaire ở Paris. Điều này đã kết thúc tham vọng hải quân từng khiến ông cân nhắc một đơn xin vào Hải quân Hoàng gia Anh[16]. Ông được đào tạo để trở thành một sĩ quan pháo binh và, khi cái chết của người cha làm giảm thu nhập, đã buộc phải hoàn thành khóa học hai năm trong một năm[17]. Ông là người Corse đầu tiên tốt nghiệp từ École Militaire[17]. Ông được sát hạch bởi nhà khoa học nổi tiếng Pierre-Simon Laplace, người sau này Napoléon bổ nhiệm vào Thượng viện[18].
Ông trở lại quê hương và bắt đầu mẫu thuẫn với Paoli, người quyết định chia tách Corse khỏi Pháp và phá hoại một cuộc tấn công của Pháp trên đảo Sardegna, nơi Bonaparte là một trong các viên chỉ huy chính[22]. Bonaparte và gia đình phải bỏ trốn vào đất liền Pháp vào tháng Sáu 1793 bởi sự cắt đứt quan hệ với Paoli[23].
Tháng Sáu 1793, Napoléon đã xuất bản một cuốn sách nhỏ có khuynh hướng thân cộng hòa, Le Souper de Beaucaire (Bữa tối ở Beaucaire), thứ đem lại cho ông sự khâm phục và ủng hộ của Augustin Robespierre, em trai nhà lãnh đạo cách mạng Maximilien Robespierre. Với sự giúp đỡ của một đồng đội người Corse là Antoine Christophe Saliceti,
Bonaparte được bổ nhiệm làm chỉ huy pháo binh của quân đội cộng hòa
trong cuộc vây hãm Toulon. Thành phố này nổi dậy chống chính phủ cộng
hòa và được quân Anh đóng giữ[24].
Ông tiến hành một kế hoạch chiếm một quả đồi nơi các khẩu pháo của quân cộng hòa có thể bao quát cảng thành phố và buộc các chiến thuyền Anh phải rút lui. Cuộc đột kích lên vị trí trên, trong đó Bonaparte bị thương ở đùi, đã dẫn tới việc chiếm được thành phố sau đó, nhờ vậy ông được thăng hàm Chuẩn tướng ở tuổi 24. Ủy ban An ninh Công cộng (chính phủ de facto của Pháp đương thời) chú ý đến Napoléon, ông được cử đảm trách pháo binh của Tập đoàn quân Ý của Pháp[25].
Trong lúc chờ sự xác nhận bổ nhiệm, Napoléon dành thời gian để khảo sát các công sự duyên hải trên bờ biển Địa Trung Hải gần Marseille. Ông thảo ra kế hoạch tấn công Vương quốc Sardegna như một phần của chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất[26]. Tư lệnh Tập đoàn quân Ý, Pierre Jadart Dumerbion, đã chứng kiến quá nhiều viên tướng bị xử tử do không đủ hay do có quan điểm chính trị sai lầm. Do đó, ông chiều theo ý các ủy viên đặc trách của Quốc Ước (représentant en mission) là Augustin Robespierre và Saliceti, những người đến lượt họ sẵn lòng lắng nghe viên tướng pháo binh mới được thăng chức[27].
Thực hiện kế hoạch của Bonaparte trong trận Saorgio tháng Tư 1794, quân đội Pháp tiến lên phía đông bắc tới vùng Riviera thuộc Ý sau đó ngoặt sang phía bắc để chiếm đóng Ormea trong vùng núi. Từ Ormea, họ đột phá phía tây để thọc sườn các vị trí Áo-Sardegna xung quanh Saorge. Kết quả là, các thành thị duyên hải Oneglia và Loano, cũng như con đèo Tenda chiến lược, bị chiếm bởi quân Pháp[28]. Sau đó, Augustin Robespierre gửi Bonaparte tới một nhiệm vụ ở Cộng hòa Genoa để xác định các toan tính của quốc gia này đối với nước Pháp[26].
Theo sau sự sụp đổ của chính quyền Jacobin vào tháng Bảy 1794 Chính biến Thermidor, một báo cáo vạch tội khiến Bonaparte bị quản chế tại gia ở Nice vì mối liên hệ với anh em Robespierre[chú thích 5].
Thư kí của Napoleon, Bourrienne, phản kháng cáo buộc này trong hồi kí
của ông. Theo Bourrienne, sự đố kị giữa Tập đoàn quân Alps và Tập đoàn
quân Ý (mà Napoléon đứng vị trí thứ hai lúc đó) chịu trách nhiệm về cáo
buộc này[30].
Sau một lời biện hộ sôi nổi trong một lá thư mà Bonaparte gửi gấp tới
các đặc phái viên Salicetti và Albitte, ông được tha bổng mọi tội[31].
Ông được thả trong vòng hai tuần, và do năng lực của mình, được yêu cầu thảo kế hoạch tấn công các vị trí Ý trong bối cảnh cuộc chiến Pháp-Áo. Ông cũng tham gia vào một cuộc viễn chinh nhằm chiếm lại Corse từ tay người Anh, nhưng quân Pháp đã bị đẩy lùi bởi Hải quân Hoàng gia[32].
Tháng Bốn 1795, Bonaparte đính hôn với Désirée Clary, em gái của Julie Clary, người đã cưới anh trai của Bonaparte là Joseph; nhà Clary là một gia đình thương nhân giàu có đến từ Marseilles[33]. Cùng thời gian này, ông được chỉ định tới Tập đoàn quân phía Tây, lúc này đang tham gia Chiến tranh Vendée — một cuộc nội chiến kéo dài do phe bảo hoàng chống cách mạng gây ra ở vùng Vendée phía tây miền trung nước Pháp. Làm một tư lệnh bộ binh, đó là một sự giáng cấp từ tướng pháo binh - mà quân đội đã có đủ hạn ngạch — và ông viện cớ sức khỏe yếu để từ chối nhậm chức[34].
Ông được chuyển tới Văn phòng Trắc địa của Ủy ban An ninh Công cộng và tìm kiếm cơ hội được gửi tới Constantinople để phục vụ cho Sultan nhưng không thành[35]. Trong thời kì này, ông viết một tiểu thuyết lãng mạn ngắn mang tựa đề Clisson et Eugénie kể về một người lính và tình nhân của anh ta, một so sánh rõ ràng mối quan hệ của chính Bonaparte với Désirée[36]. Ngày 15 tháng Chín, Bonaparte bị loại khỏi danh sách các tướng của quân đội chính quy do việc từ chối nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Vendée. Ông đối diện với một tình trạng tài chính khó khăn và thu hẹp những tham vọng về tiền đồ của mình[37].
Mùng 3 tháng Mười, những người bảo hoàng ở Paris tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại Quốc Ước sau khi họ bị loại khỏi chính phủ mới, nội các Đốc chính[38]. Paul Barras, một lãnh đạo của Chính biến Thermidor, biết đến thành tích quân sự của Bonaparte ở Toulon và trao cho ông quyền chỉ huy các lực lượng ứng biến phòng thủ trụ sở Quốc Ước ở Cung điện Tuileries. Chứng kiến vụ thảm sát đội Cận vệ Thụy Sĩ của nhà vua ba năm trước đó, ông nhận ra pháo binh có thể là chìa khóa để kháng cự[11].
Ông lệnh cho một sĩ quan kị binh trẻ, Joachim Murat, chiếm các khẩu đại bác lớn và dùng chúng để đẩy lui các đợt tấn công vào mùng 5 tháng Mười 1795—13 tháng Vendémiaire (Hái Nho) năm IV theo Lịch Cách mạng Pháp. Sau khi 1400 người bảo hoàng chết, số còn lại rút lui[38].
Sự thất bại của cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đã dập tắt mối đe dọa với Quốc Ước và giúp Bonaparte đột nhiên gặt hái được danh vọng, tiền tài cùng với sự bảo trợ của nội các mới. Murat cưới một trong số các em gái và trở thành em rể cũng như tiếp tục phục vụ Napoléon như một vị tướng. Bonaparte được thăng hàm thiếu tướng, đảm nhiệm chức Tư lệnh Nội địa (Commandand de l'armée de l'Intérieur) và sau đó Tập đoàn quân Ý được trao cho ông[23].
Trong vòng vài tuần ông đã gắn bó với nhân tình cũ của Barras, Joséphine de Beauharnais. Họ cưới nhau vào mùng 9 tháng Ba 1796 sau khi ông hủy đính ước với Désirée Clary[39].
Hai ngày sau hôn lễ, Bonaparte rời Paris để nắm quyền chỉ huy Tập
đoàn quân Ý và dẫn dắt một cuộc chinh phạt thắng lợi nước Ý. Ở trận Lodi ông đã đánh bại quân đội Áo và đẩy họ ra khỏi Lombardia[23]. Ông thất bại trong trận Caldiero bởi sự tăng viện của Áo, chỉ huy bởi József Alvinczi, tuy nhiên Bonaparte lấy lại thế chủ động trong trận đánh có tính quyết định ở Arcole tiến tới chinh phục địa phận của Giáo hoàng[40].
Bonaparte đã bác bỏ mong muốn của những người vô thần ở Hội đồng Đốc chính là hành quân vào Rome và phế truất Giáo hoàng vì ông cho rằng điều này sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực sẽ bị Vương quốc Napoli lợi dụng. Thay vào đó, tháng Ba 1797, Bonaparte chỉ huy quân đội tiến vào Áo và buộc nước này thương lượng một hòa ước[41]. Hiệp ước Leoben đã cho Pháp quyền cai quản hầu hết Bắc Ý và các miền đất phía dưới châu thổ sông Rhine (Pays-Bas, gồm Bỉ, Hà Lan và một phần lãnh thổ Đức, Pháp hiện nay), trong khi một điều khoản bí mật hứa hẹn Cộng hòa Venezia cho Áo. Bonaparte hành quân tới Venice và buộc nó đầu hàng, kết thúc 1100 năm nền độc lập của thành phố thương mại này; ông cũng lấy cớ cho quân Pháp cướp bóc những báu vật như những bức tượng ngựa bằng đồng ở Giáo đường Saint Mark[42].
Áp dụng những ý tưởng quân sự thông thường vào các tình huống thực tế đã làm nên những vinh quang quân sự của ông, chẳng hạn như việc sử dụng sáng tạo pháo binh như một lực lượng linh hoạt để hỗ trợ cho bộ binh. Ông nói về chiến thuật của mình như sau: "Tôi đã đánh sáu mươi trận và tôi không học được điều gì mà tôi chưa biết vào lúc bắt đầu. Nhìn Caesar xem; ông ta đánh trận đầu giống như trận cuối"[43].
Ông tinh thông trong việc sử dụng gián điệp và mưu trá và có thể thắng trận chiến bằng cách che đậy việc triển khai quân và tập trung quân vào điểm mấu chốt của mặt trận bị suy yếu của đối phương. Nếu ông không thể sử dụng chiến lược bao vây ưa thích của mình (Mouvement en tenaille, chuyển quân sang hai cánh và hợp vây kẻ địch), ông sẽ nắm lấy vị trí trung tâm và tấn công hai lực lượng phối hợp ở điểm mấu chốt của họ, tung quân đánh một cánh cho đến khi nó rút lui, sau đó quay lại đương đầu với cánh kia[44]. Trong chiến dịch Ý này, quân đội của Bonaparte bắt được 150 000 tù binh, 540 khẩu đại bác và 170 cờ hiệu[45]. Quân đội Pháp đã đánh 67 trận và thắng 19 trận chính quy (pitched battles, trong đó hai bên chọn một địa điểm dàn quân trước khi đánh) nhờ kĩ thuật pháo binh áp đảo và các chiến thuật của Bonaparte[46].
Trong khi chiến dịch diễn ra, Bonaparte trở nên ngày càng có ảnh hưởng trong chính trị Pháp; ông thành lập hai tờ báo: một cho quân đội của ông và một phát hành ở Pháp[47]. Những người bảo hoàng đả kích Bonaparte vì cướp phá Ý và cảnh báo rằng ông có thể trở thành một kẻ độc tài[48]. Bonaparte gửi tướng Pierre Augereau tới Paris để lãnh đạo một cuộc đảo chính và thanh lọc những người bảo hoàng vào mùng 4 tháng Chín — sau được gọi là Đảo chính ngày 18 Fructidor. Điều này đem Barras và các đồng minh phe Cộng hòa trở lại nắm quyền nhưng phụ thuộc vào Bonaparte, người bấy giờ đang tiến hành đàm phán hòa ước mới với Áo. Những thương lượng này dẫn tới Hiệp ước Campo Formio, và Bonaparte trở lại Paris tháng Mười hai như một anh hùng[49]. Ông gặp Talleyrand, Bộ trưởng Ngoại giao mới của Pháp - người về sau phục vụ ở cùng cương vị cho đế chế của Napoléon — và họ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh[23].
Sau hai tháng lên kế hoạch, Bonaparte quyết định rằng lực lượng hải quân pháp chưa đủ mạnh để đối diện với Hải quân Hoàng gia ở Eo biển Anh và đề xuất một cuộc viễn chinh để chiếm Ai Cập và do đó phá sự tiếp cận của người Anh với những nguồn lợi thương mại ở Ấn Độ[23].
Bonaparte mong mỏi thiết lập một sự hiển hiện của Pháp ở Trung Đông,
với giấc mộng tối hậu về việc liên kết với một kẻ thù Hồi giáo của Anh ở
Ấn Độ, Tippu Sultan[50].
Napoleon đảm bảo với Hội đồng Đốc chính rằng "ngay khi ông chinh phục được Ai Cập, ông sẽ thành lập những mối quan hệ với các hoàng thân Ấn Độ, và cùng với họ, tấn công người Anh tại các thuộc địa của họ"[51]. Theo một bản tường trình tháng Hai 1798 bởi Talleyrand: "Khi đã chiếm giữ và củng cố Ai Cập, chúng ta sẽ gửi một lực lượng 15000 người từ Suez tới Ấn Độ, kết hợp với Tipu-Sahib và đánh đuổi người Anh"[51]. Hội đồng đồng ý với kế hoạch để bảo đảm tuyến giao thương tới Ấn Độ[52].
Tháng Năm 1798, Bonaparte được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Chuyến viễn chinh Ai Cập của ông có sự tham gia của 167 nhà khoa học bao gồm các nhà toán học, tự nhiên học, hóa học và trắc địa; trong những khám phá của họ có Phiến đá Rosetta, và công trình của họ được xuất bản thành cuốn Description de l'Égypte năm 1809[53].
Trên đường tới Ai Cập, Bonaparte tới Malta vào ngày 9 tháng Sáu 1798, khi đó dưới quyền kiểm soát của dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Hai trăm hiệp sĩ gốc Pháp không ủng hộ vị Đại trưởng lão, Ferdinand von Hompesch zu Bolheim, và bày tỏ rằng họ sẽ không chiến đấu chống lại đồng bào. Hompesch đầu hàng sau một sự kháng cự yếu ớt, và Bonaparte chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng với tổn thất chỉ ba binh sĩ[54].
Tướng Bonaparte cùng đoàn quân của ông đã phải né tránh cuộc truy đuổi của Hải quân Hoàng gia và cập cảng ngày 1 tháng Bảy ở Alexandria[23]. Ông đánh trận Shubra Khit chống lại Mamluk, giới quân sự thống trị Ai Cập bấy giờ. Điều này giúp những người Pháp thực hành chiến thuật phòng thủ cho trận Kim Tự Tháp diễn ra ngày 21 tháng Bảy, cách các kim tự tháp 24 km. Lực lượng của Bonaparte vào khoảng 25000, xấp xỉ bằng quân số kỵ binh Mamluk, nhưng ông đã lập những khối quân hình vuông rỗng với quân nhu được giữ an toàn bên trong. Kết quả, chỉ có 29 người Pháp chết[55], so với xấp xỉ 2000 người Ai Cập. Chiến thắng này đã củng cố tinh thần cho quân đội Pháp[56].
Ngày 1 tháng Tám, hạm đội Anh dưới quyền Horatio Nelson đã bắt hoặc tiêu diệt hầu như tất cả chỉ trừ hai chiếc tàu Pháp trong trận sông Nile, và mục tiêu của Bonaparte về một vị thế tăng cường của người Pháp ở Địa Trung Hải tan vỡ[57].
Quân đội của ông thành công trong sự gia tăng ngắn hạn quyền lực của
Pháp ở Ai Cập, tuy nhiên sau đó đối mặt với những cuộc nổi dậy liên tiếp[58]. Đầu năm 1799, ông chuyển quân tới tỉnh Damascus thuộc đế quốc Ottoman (Syria và Galilea). Bonaparte chỉ huy 13000 lính Pháp trong cuộc chinh phục các thành thị duyên hải Arish, Gaza, Jaffa, và Haifa[59]. Cuộc tấn công vào Jaffa
đặc biệt đẫm máu: Bonaparte, khi khám phá ra phần nhiều trong những
người bảo vệ thành phố là cựu tù nhân chiến tranh từng hứa danh dự không
trả thù để được tha, đã ra lệnh cho quân phòng thủ cùng 1,400 khác bị
xử tử bằng lưỡi lê hoặc dìm chết đuối để tiết kiệm đạn[57]. Đàn ông, đàn bà và trẻ con bị cướp và giết trong ba ngày[60].
Với đội quân bị suy yếu bởi bệnh dịch — chủ yếu là dịch hạch — và nguồn quân nhu nghèo nàn, Bonaparte không thể hạ các pháo đài ở Acre và trở lại Ai Cập vào tháng Năm[57]. Để tăng tốc cuộc hành quân, ông ra lệnh bỏ lại những người lính ốm yếu vì dịch hạch và bắt họ uống thuốc độc[61]. (Tuy nhiên, những người Anh sau này chứng kiến đã ghi chép lại rằng hầu hết những người này sống sót và không bị đầu độc). Những người ủng hộ ông lập luận rằng điều này là cần thiết để đối phó với các trận tập hậu của quân Ottoman, và thực tế những người bỏ lại còn sống thường bị tra tấn và chặt đầu bởi kẻ địch. Trở lại Ai Cập, vào ngày 25 tháng Bảy, Bonaparte đánh bại cuộc tấn công đổ bộ của Ottoman trong trận Abukir[62].
Khi ở Ai Cập, Bonaparte vẫn nhận được thông báo về sự vụ châu Âu
thông qua các báo chí và thông điệp được chuyển tới không đều đặn. Ông
biết rằng Pháp đã phải chịu một chuỗi những thất bại trong Chiến tranh Liên minh thứ hai[63].
Ngày 24 tháng Tám 1799, ông lợi dụng sự rút lui tạm thời các tàu Anh
khỏi các cảng Pháp để giong buồm về nước, bất chấp sự kiện là ông không
nhận được mệnh lệnh rõ ràng nào từ Paris[57]. Quân đội ở lại được giao phó cho tướng Jean Baptiste Kléber[64].
Hội đồng Đốc chính đã gửi ông những mệnh lệnh quay về để ngăn ngừa những cuộc xâm lược vào đất Pháp, nhưng đường dây liên lạc nghèo nàn khiến cho các thông điệp không đến được với ông[63]. Vào lúc ông tới được Paris vào tháng Mười, tình hình nước Pháp đã được cải thiện bởi một chuỗi những thắng lợi. Tuy nhiên nền Cộng hòa đã phá sản, và Hội đồng bất lực không được lòng dân Pháp[65]. Hội đồng đã thảo luận về việc "đào ngũ" của Bonaparte nhưng quá yếu ớt để trừng phạt ông[63].
Bonaparte được một trong các viên Đốc chính, Emmanuel Joseph Sieyès, tiếp cận để hỗ trợ cho một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ hợp hiến. Những người đứng đầu kịch bản này bao gồm người em trai ông là Lucien; phát ngôn viên của Hội đồng Năm trăm (tức Hạ nghị viện), Roger Ducos; một viên Đốc chính khác, Joseph Fouché; và Talleyrand. Vào ngày 9 tháng Mười một — hay 18 tháng Brumaire (Sương mù) theo lịch Cộng hòa Pháp - Bonaparte được trao nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho hai viện lập pháp, những người bị thuyết phục rời về Lâu đài Saint-Cloud ở phía Tây Paris, sau một tin đồn về một cuộc nổi loạn của phe Jacobin được lan truyền bởi những người âm mưu[66]. Ngày hôm sau, các nghị sĩ nhận ra họ đang đối mặt với một cuộc đảo chính. Trước sự phản kháng của họ, Bonaparte chỉ huy quân đội nắm quyền và giải tán họ, kế đó một nghị viện thu nhỏ (rump legislature) chỉ định Bonaparte, Sieyès, và Ducos làm các Tổng tài lâm thời quản lí chính quyền[57].
Mặc dù Sieyès hi vọng sẽ cầm đầu trong chính quyền mới, ông sớm bị vượt mặt bởi Bonaparte, người thảo ra Hiến pháp Năm VIII và bảo đảm việc bầu chọn bản thân làm Tổng tài thứ nhất, và ông dọn đến ở điện Tuileries[67]. Điều này khiến cho Bonaparte trở thành con người quyền lực nhất ở Pháp[57].
Năm 1800, Bonaparte và quân đội của ông vượt dãy Alps tới Ý, nơi quân đội Pháp đã hầu như bị đánh bật hoàn toàn bởi quân Áo trong lúc ông đang ở Ai Cập. Chiến dịch khởi đầu tệ hại cho người Pháp khi Bonarpate có những sai lầm chiến lược; một lực lượng đã bị vây hãm ở Genoa nhưng cuối cùng phá được vây và do đó chiếm được tài nguyên của quân Áo[68]. Nỗ lực này, và sự tăng viện kịp thời của tướng Louis Desaix, đã cho phép Bonaparte quay lại với chuỗi thắng lợi vào tháng Sáu trong trận Marengo có tính quyết định[69].
Anh trai Joseph của Bonaparte tiến hành thương lượng hòa bình ở Lunéville và thông báo rằng Áo, được khuyến khích bởi người Anh, sẽ không công nhận những lãnh thổ Pháp vừa mới chiếm được. Khi cuộc thương lượng trở nên ngày càng căng thẳng, Bonaparte trao quyền cho tướng Moreau tấn công đất Áo thêm một lần nữa. Moreau đã lãnh đạo quân Pháp tới chiến thắng trong trận Hohenlinden. Kết quả là, Hiệp ước Lunéville được kí vào tháng hai 1801; những chiến quả của Pháp từ Hiệp ước Campo Formio được tái xác nhận và tăng cường[69].
Cả Pháp lẫn Anh đã trở nên mệt mỏi với chiến tranh và kí với nhau Hiệp ước Amiens
vào tháng 10 năm 1801 và tháng 3 năm 1802. Điều này đòi hỏi sự triệt
thoái quân đội Anh khỏi hầu hết các thuộc địa họ chiếm gần đó[68].
Sự hưu chiến này không dễ dàng và ngắn ngủi. Người Anh không chịu rút
khỏi Malta như đã hứa và chống lại việc Bonaparte thôn tính Piedmont và Đạo luật Hòa giải
của ông đã thiết lập nên một Liên bang Thụy Sĩ mới phu thuộc vào Pháp,
mặc dù không lãnh thổ nào kể trên nằm trong phạm vi của hiệp ước[70].
Sự tranh cãi đạt đến đỉnh điểm và kết thúc bằng một tuyên bố chiến
tranh của người Anh vào tháng Năm 1803, và Napoléon tái lập căn cứ xâm
lược ở Boulougne[57].
Bonaparte cũng đứng trước sự thất thế và cuối cùng là thảm bại trong đàn áp Cách mạng Haiti. Bằng Luật 20 tháng Năm 1802 ông tái thiết lập chế độ nô lệ trong các vùng thuộc địa Pháp vốn đã bị bãi trừ sau Cách mạng[71]. Đáp trả một cuộc nổi dậy của nô lệ, ông gửi một đạo quân viễn chinh để tái chiếm Saint-Dominique và thiết lập một căn cứ. Tuy nhiên lực lượng này bị hủy diêt bởi dịch sốt vàng và sức kháng cự mãnh liệt bởi những viên tướng Haiti Toussaint Louverture và Jean-Jacques Dessalines[chú thích 6]. Nước Pháp đứng trước tình trạng phá sản tài chính và một cuộc chiến tranh cận kề với người Anh, Bonaparte nhận thấy những sở hữu của Pháp ở đất liền thuộc Bắc Mĩ là không thể bảo vệ được và bán chúng cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ - Vụ mua bán Louisiana - với giá hơn ba cent mỗi mẫu Anh (acre) (tức khoảng 7,4 cent mỗi hecta)[73].
Napoleon sử dụng âm mưu trên để biện hộ cho sự tái lập của nền quân
chủ cha truyền con nối ở Pháp, mà chính ông là Hoàng đế, với lập luận
rằng sự phục hồi đáng lo ngại của nhà Bourbon sẽ khó khăn hơn nếu sự
thừa kế nhà Bonaparte được ghi nhận bởi hiến pháp[76]. Trong một cử chỉ có tính hình thức, Thượng viện yêu cầu ông lên ngôi Hoàng đế để "bảo vệ nền Cộng hòa". Napoléon tự đội đế miện với hiệu Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng Mười hai 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris và sau đó trao miện Hoàng hậu cho Joséphin[77] dưới sự chứng kiến của Giáo hoàng Piô VII. Ludwig van Beethoven, một người hâm mộ từ lâu của ông, đã thất vọng vì sự quay sang chủ nghĩa đế quốc này và xóa lời đề tặng Napoléon trong Giao hưởng số 3 của mình.
Tại Nhà thờ Milan vào ngày 26 tháng Năm 1805, Napoléon đăng quang ngôi Vua của Ý với Vương miện Sắt của Lombardy. Ông lập nên cấp Thống chế của Đế chế từ những vị tướng hàng đầu của mình, để đảm bảo lòng trung thành của quân đội.
Nước Anh phá vỡ Hòa ước Amiens và tuyên chiến với Pháp vào tháng Năm 1803. Napoléon thiết lập doanh trại ở Boulogne-sur-Mer để chuẩn bị cho cuộc xâm lược nước Anh.
Tới năm 1805, Anh đã thuyết phục được Áo và Nga tham gia vào một Liên
minh thứ ba chống Pháp. Napoléon biết rằng hạm đội Pháp không thể đánh
bại Hải quân Hoàng gia trong một trận chiến mặt đối mặt và lập kế hoạch
nhử họ ra khỏi Eo biển Anh[78].
Theo đó, Hải quân Pháp sẽ thoát khỏi sự bao vây của quân anh ở Toulon và Brest rồi đe dọa tấn công Tây Ấn, do đó sẽ loại bỏ được sự phòng thủ phía Tây quần đảo Anh, với hi vọng một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha có thể đoạt được eo biển đủ lâu để quân đội Pháp băng qua từ Boulogne và xâm lược nước Anh[78]. Tuy nhiên, sau thất bại trong trận hải chiến ở Cape Finisterre vào tháng Bảy 1805 và cuộc rút lui của Đô đốc Villeneuve về Cadiz, xâm lược đất Anh không bao giờ còn là một lựa chọn hiện thực đối với Napoléon nữa[79].
Khi quân đội Áo được triển khai tới Bavaria, ông ngừng triển khai xâm lược Anh và ra lệnh cho đạo quân đóng ở Boulogne, Grande Armée của ông, hành quân bí mật trong một cuộc di chuyển thọc sâu vào hậu phương địch — chiến dịch Ulm. Điều này bao vây lực lượng Áo sắp sửa tấn công Pháp và cắt đứt các đường liên lạc của họ. Ngày 20 tháng Mười 1805, quân Pháp bắt được 30 000 tù binh trong trận Ulm, tuy nhiên ngày hôm sau chiến thắng của người Anh ở Trafalgar đồng nghĩa với việc Hải quân Hoàng gia hoàn toàn chiếm lĩnh các vùng biển[80].
Sáu tuần sau, trong lần kỉ niệm một năm ngày đăng quang, Napoléon đã đánh bại liên quân Áo-Nga trong trận Austerlitz nổi tiếng với tổn thất của phe Liên minh vào khoảng 27 000 người, gấp 3 lần quân Pháp[81]. Trận này đã bẻ gãy Liên minh thứ ba, khiến cho Aleksandr I phải than thở: "Chúng ta là những em bé trong bàn tay của một gã khổng lồ" [82]. Napoléon trở về Paris nhận sự hưởng ứng nhiệt liệt, cho khánh thành Khải Hoàn Môn để tưởng niệm chiến thắng. Áo phải chịu nhường một phần lãnh thổ; Hòa ước Pressburg dẫn tới sự giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh và lập nên Liên bang sông Rhine với Napoléon giữ vị trí Bảo hộ Công[80].
Napoleon sau này nhắc lại "trận Austerlitz là trận đánh đẹp nhất trong mọi trận đánh tôi từng thực hiện"[83]. Frank McLynn cho rằng Napoléon đã quá thành công ở Austerlitz tới mức ông mất sự liên hệ với thực tiễn, và thứ từng là chính sách ngoại giao Pháp trở thành "một thứ của riêng Napoleon"[84]. Vincent Cronin không tán thành, cho rằng Napoléon không tự mãn quá mức về bản thân, mà "ông là hiện thân cho lòng tự mãn của ba mươi triệu người Pháp"[85].
Ngay cả sau chiến dịch ở Ai Cập, Napoléon vẫn tiếp tục ấp ủ một kế hoạch lớn lao là thành lập một sự hiện diện của Pháp ở Trung Đông[50].
Một mối đồng minh với các cường quốc Trung Đông sẽ là lợi thế chiến
lược gây sức ép cho Nga ở biên giới phía Nam của nước này. Từ 1803,
Napoléon tiến những bước đáng kể trong cố gắng thuyết phục Đế quốc Ottoman chiến đấu chống lại Nga ở bán đảo Balkan và gia nhập liên minh chống Nga của ông[86].
Napoleon gửi tướng Horace Sebastiani sang làm đặc sứ, hứa hẹn sẽ giúp đỡ Đế quốc Ottoman khôi phục những lãnh thổ đã mất[86]. Tháng Hai năm 1806, sau chiến thắng của Napoléon ở Austerlitz và sự chia cắt sau đó của Đế quốc Habsburg, Hoàng đế Ottoman Selim III cuối cùng thừa nhận ngôi Hoàng đế của Napoleon, chính thức chọn liên minh với Pháp như "người đồng minh thân thiết và tự nhiên của chúng ta", đồng thời tuyên chiến với Nga và Anh[87].
Một liên minh Pháp-Ba Tư cũng được hình thành, trong thời gian từ 1807 tới 1809, giữa Đế quốc Ba Tư của Fat′h-Ali Shah Qajar chống Nga và Anh. Liên minh này chấm dứt khi Pháp bắt tay với Nga và chuyển trọng tâm sang các chiến dịch châu Âu[50].
Sau một thắng lại quyết định tại trận Friedland, ông kí các Hiệp ước Tilsit bao gồm một văn bản với Nga hoàng Aleksandr I phân chia lục địa giữa hai cường quốc này; một văn bản khác với Phổ tước một nửa lãnh thổ nước này. Napoléon đặt các nhà cai trị lên ngai vàng các bang nước Đức, bao gồm người em Jérôme làm vua của Vương quốc Westfalen mới lập. Trong vùng Ba Lan mà Pháp kiểm soát, ông lập nên Công quốc Warszawa dưới quyền Vua Friedrich August I của Sachsen[90].
Với các chiếu chỉ Milan và chiếu chỉ Berlin, Napoléon nỗ lực tăng cường một sự tẩy chay thương mại khắp châu Âu đối với Anh mang tên Hệ thống Lục địa. Đạo luật chiến tranh kinh tế này không thành công, bởi nó khuyến khích các thương gia Anh buôn lậu vào châu Âu lục địa, và nhân viên cưỡng bách thuế quan độc quyền của Napoléon không thể ngăn họ lại[91].
Ở Tây Ban Nha, Napoléon còn phải đối mặt với một loại hình chiến tranh mới, chiến tranh du kích [chú thích 7],
trong đó cư dân địa phương, hưởng ứng chủ nghĩa ái quốc và tinh thần
tôn giáo, tham gia vào cuộc chiến. Loại hình bước đầu của chiến tranh nhân dân
này bao gồm nhiều hình thức chiến đấu cường độ thấp (quấy rối, phá
hoại, nổi dậy vũ trang...) và trợ giúp cho quân đội chính quy những nước
đồng minh với Tây Ban Nha. Sau khi quân Pháp đồn trú buộc phải rút khỏi
nhiều phần đất nước này, Napoléon nắm quyền chỉ huy trực tiếp, đánh bại
quân Tây Ban Nha. Ông chiếm lại Madrid, đánh bật một đội quân Anh tới
cứu viện và đẩy lui họ khỏi bờ biển [93].
Tuy vậy, trước khi người dân Tây Ban Nha chịu khuất phục hoàn toàn,
nước Áo lại đe dọa chiến tranh, buộc Napoléon phải quay về Pháp.[94].
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Iberia tốn kém và thường đẫm máu vẫn tiếp tục khi Napoléon vắng mặt. Trong cuộc vây hãm Zaragoza lần thứ hai, gần như toàn bộ thành phố bị phá hủy và hơn 5 vạn người bỏ mạng[95]. Mặc dù Napoléon để 30 vạn quân tinh nhuệ ở lại Tây Ban Nha để chống lại quân du kích cũng như liên quân Anh-Bồ Đao Nha dưới sự chỉ huy của Công tước Wellington, nhưng sự kiểm soát của Pháp ngày một suy yếu[96].
Sau khi phía đồng minh giành thắng lợi, cuộc chiến kết thúc sau khi Napoléon thoái vị vào năm 1814[97]. Napoléon mô tả cuộc chiến tranh Bán đảo là trung tâm của sự thất bại chung cuộc của mình. Ông đã viết trong hồi ký: "Cuộc chiến tranh bất hạnh đó đã hủy diệt tôi...Tất cả...những tai họa của tôi bị buộc chặt với nút thắt định mệnh đó"[98].
Vương quốc Anh vẫn chống Pháp và có vài trận thắng trên biển[101]. Trên lục địa châu Âu, Anh chỉ hỗ trợ cuộc chiến trên bán đảo Iberia và gửi một đoàn quân viễn chinh gồm 40.000 người tới Walcheren (vùng Zeeland, Hà Lan) từ 30 tháng 7 tới 10 tháng 12 năm 1809 để tấn công căn cứ hải quân Antwerpen của Pháp và để chia cắt lực lượng Pháp nhằm giúp Áo nhưng cuối cùng phải rút lui khi Napoléon đem quân tăng viện[102].
Ông đồng thời sáp nhập lãnh thổ của Giáo hoàng bởi Giáo hội từ chối ủng hộ Hệ thống Lục địa; Giáo hoàng Piô VII đáp trả bằng cách rút phép thông công vị hoàng đế Pháp. Sau đó một số sĩ quan của Napoléon bắt cóc Giáo hoàng, Napoléon tuy không ra lệnh trên nhưng khi biết sự việc cũng không cho thả Piô. Giáo hoàng bị chuyển đi khắp các lãnh thổ của Napoléon và Napoléon đã gửi các phái đoàn tới gây áp lực buộc ông trên các vấn đề bao gồm thỏa thuận về một giáo ước mới với nước Pháp, điều Piô từ chối. Năm 1810 Napoléon kết hôn với nữ Đại công tước Marie Louise của Áo, sau khi ông ly dị với Joséphine; điều này gây thêm căng thẳng với Giáo hội, và mười ba Hồng y đã bị tống giam do vắng mặt tại lễ cưới[103]. Giáo hoàng tiếp tục bị giam cầm trong 5 năm và không trở về Rome cho đến tháng Năm 1814[104].
Napoleon chấp nhận việc Bernadotte,
một trong các thống chế của ông được bầu làm người thừa kế ngai vàng
Thụy Điển vào tháng Mười một 1810. Ông thường chiều Bernadotte bất chấp
những sơ suất của viên tướng này vì Bernadotte cưới hôn thê cũ của ông
là Désirée Clary nhưng về sau hối hận cả đời khi Bernadotte đem Thụy
Điển liên minh với các kẻ thù của Pháp trong Liên minh thứ sáu và trở thành một trong những đối thủ đáng ngại nhất của ông[105]
Tới 1812, các cố vấn của Aleksandr đề xuất khả năng tiến hành xâm lược Đế quốc Pháp và tái chiếm Ba Lan. Nhận được báo cáo tình báo về những sự chuẩn bị chiến tranh của Nga, Napoléon tăng cường mở rộng đạo quân Grande Armée của mình lên hơn 450 000 lính[108]. Ông phớt lờ lời khuyên lặp lại chống một cuộc xâm lược vào trung tâm nước Nga và chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công; và ngày 23 tháng Sáu 1812 cuộc chinh phạt bắt đầu[109].
Trong một nỗ lực nhằm thu được sự hỗ trợ hơn nữa từ những người yêu nước dân tộc chủ nghĩa Ba Lan, Napoléon gọi cuộc chiến là Chiến tranh Ba Lan lần thứ hai - Chiến tranh Ba Lan lần thứ nhất là cuộc nổi dậy Liên bang Bar của quý tộc Ba Lan chống lại Nga năm 1768. Những người yêu nước Ba Lan muốn khu vực Ba Lan thuộc Nga sáp nhập vào Công quốc Warszawa và một nhà nước Ba Lan độc lập được tạo ra. Điều này bị từ chối bởi Napoléon đã hứa với đồng minh Áo không cho phép như vậy. Napoléon cũng từ chối giải phóng cho nông nô Nga bởi lo ngại điều này có thể tạo nên những chống đối trong miền hậu phương của quân đội ông. Những nông nô này về sau đã đối xử khốc hại đối với lính Pháp khi họ rút chạy[110].
Người Nga từ chối mục tiêu của Napoléon về một trận giao chiến quyết
định, thay vào đó thoái lui ngày càng sâu vào lãnh thổ Nga. Một nỗ lực
kháng cự ngắn ngủi được thực hiện ở Smolensk
vào tháng Tám; người Nga bị đánh bại trong một loạt trận, và Napoléon
tiếp tục tiến công. Người Nga vẫn trì hoãn đánh nhau, mặc dù trong một
vài trường hợp điều này chỉ đạt được do sự ngần ngừ ít thấy ở Napoléon
khi cơ hội tới. Do chiến thuật tiêu thổ của quân Nga, người Pháp cảm thấy ngày càng khó để tìm kiếm thức ăn cho bản thân và cho ngựa[111].
Người Nga bấy giờ mới tung ra những trận đánh ở ngoại vi Moskva ngày 7 tháng Chín: trận Borodino khiến cho 44 000 quân Nga và 35 000 quân Pháp tử vong, bị thương hoặc bị bắt, và có lẽ là ngày chiến sự đẫm máu nhất trong lịch sử từ trước tới thời điểm đó[112]. Mặc dù quân Pháp thắng, quân đội Nga đã đương đầu, và đứng vững, trong trận chiến trực diện mà Napoléon đã hi vọng sẽ mang tính quyết định. Napoléon đã ghi chép lại: "Trận khủng khiếp nhất trong mọi trận đánh của tôi là trận trước Moskva. Người Pháp đã chứng tỏ họ xứng đáng với chiến thắng, nhưng người Nga đã chứng tỏ họ bất khả chiến bại"[113].
Quân đội Nga rút xa khỏi Moskva. Napoléon tiến vào thành phố, giả định rằng sự thất thủ của nó sẽ kết thúc chiến tranh và Aleksandr sẽ đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, dưới lệnh của tổng đốc thành phố Feodor Rostopchin, thay vì một sự đầu hàng, Moskva bị đốt cháy. Sau một tháng, lo lắng mất quyền kiểm soát ở Pháp, Napoléon và quân đội rút lui[114].
Người Pháp chịu tổn thất to lớn trong quá trình rút quân tai hại, mà một phần là do Mùa Đông Nga [chú thích 8]. Quân đội Pháp bắt đầu với hơn 400 000 quân tiền phương, nhưng vào lúc kết thúc chỉ có ít hơn 40 000 người vượt sông Berezina tháng Mười một 1812[115]. Phía Nga mất 150 000 lính trong trận chiến và hàng trăm nghìn người dân khác thiệt mạng[116].
Có một thời gian tạm lắng chiến sự trong mùa đông 1812–1813 khi cả
người Nga lẫn người Pháp đang tái xây dựng lực lượng; Napoléon sau đó có
thể tung ra chiến trường 350 000 quân[117].
Được cổ vũ bởi thất bai của Pháp tại Nga, Phổ liên hợp với Áo, Thụy
Điển, Nga, Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong một liên minh mới.
Napoléon nắm quyền chỉ huy ở mặt trận Đức và giáng cho Liên minh một
chuỗi trận thua bao gồm thảm bại ở trận Dresden vào tháng Tám 1813[118].
Bất chấp những thắng lợi này, các con số tiếp tục ngày càng chống lại Napoleon, và quân Pháp bị khóa chặt bởi một lực lượng đông gấp đôi và do đó thua trong trận Leipzig. Đây có lẽ là trận chiến lớn nhất trong toàn bộ các cuộc chiến tranh của Napoléon và nó gây cho 90 000 người thương vong[119].
Napoleon rút về Pháp với đội quân giảm xuống còn 70 000 lính và 40 000 người tụt khỏi đội hình, chống lại đội quân Liên minh đông gấp hơn ba lần[120]. Nước Pháp bị bao vây: quân Anh dồn ép từ phía nam, các đạo quân Liên minh khác đang nhắm vào tấn công các bang chư hầu Đức. Napoléon thắng một loạt trận xuất sắc trong Chiến dịch Sáu ngày[chú thích 9], tuy nhiên chúng không đủ ý nghĩa để thay đổi cục diện. Quân Liên minh đã đánh bại Napoléon trong những trận đánh quan trọng tại Laon và Arcis-sur-Aube, và tiến chiếm Paris vào tháng Ba 1814[122].[123]
Khi Napoléon đề xuất hành quân tới thủ đô, các thống chế của ông quyết định gây binh biến[124]. Ngày 4 tháng Tư, đứng đầu bởi Thống chế Ney, họ phản kháng Napoleon. Napoléon khẳng định rằng quân đội sẽ theo ông, và Ney đáp lại rằng quân đội sẽ theo những vị tướng của nó. Napoléon không có lựa chọn nào ngoài thoái vị. Ông quyết định nhường ngôi cho con; tuy nhiên, Liên minh từ chối điều này, và Napoléon buộc phải thoái vị không điều kiện vào ngày 11 tháng Tư.
Trung đoàn số 5 được gửi tới để ngăn chặn ông và nối lại tuyến đường tới nam Grenoble vào mùng 7 tháng Ba 1815. Napoléon tiếp cận đội quân một mình, xuống ngựa và khi đứng trong tầm đạn, ông hét lên: "Ta ở đây. Giết Hoàng đế của các người đi, nếu các người muốn"[129].
Những người lính đáp lại bằng tiếng hô "Hoàng đế Vạn tuế!" ("Vive L'Empereur!") và hành quân cùng Napoléon tới Paris; Louis XVIII bỏ chạy. Ngày 13 tháng Ba, các cường quốc tại Hội nghị Viên đã tuyên bố Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật, và bốn ngày sau Anh, Nga, Áo và Phổ kết hợp một lần nữa để gửi mỗi nước 15 vạn quân tới chiến trường để chấm dứt nền cai trị của ông[130].
Napoleon đến Paris ngày 20 tháng Ba và cầm quyền trong một thời kì mà ngày nay gọi là Triều đại Một trăm ngày. Đến đầu tháng Sáu lực lượng vũ trang mà ông tập hợp được đạt con số 200 000, và ông quyết định chọn tấn công để đánh bật gọng kìm của quân đội Anh và Phổ. Tập đoàn quân phía Bắc băng qua biên giới tới Vương quốc Liên hiệp Netherlands, nay là Bỉ[131].
Quân đội Napoléon chiến đấu với quân liên minh, chỉ huy bởi Wellington và Gebhard Leberecht von Blücher, trong trận Waterloo ngày 18 tháng Sáu 1815. Quân đội Wellington chịu đựng các đợt tấn công liên tiếp của người Pháp và đẩy lùi họ trên chiến trường trong khi quân Phổ tới tăng viện và phá vỡ sườn phải của đội hình quân Napoleon. Napoléon bị đánh bại bởi ông phải chiến đấu một chọi hai, tấn công một đội quân chiếm được vị trí phòng ngự tuyệt vời trên địa hình ẩm ướt lầy lội.
Sức khỏe của ông ngày hôm đó có thể đã ảnh hưởng tới sự hiện diện và sự hăng hái của ông trên chiến trường, thêm vào sự kiện là cấp dưới có thể đã khiến ông ngã. Một sự kiện khác có ảnh hưởng quan trọng tới kết cục là lực lượng kị binh do tướng Grouchy đã không tiếp ứng kịp thời. Dù vậy, Napoléon đã tiến rất gần tới một chiến thắng chớp nhoáng. Bị áp đảo về số lượng, quân đội Pháp rút khỏi chiến trường trong hỗn loạn, điều cho phép lực lượng Liên minh tiến vào nước Pháp và khôi phục ngai vàng nước Pháp cho Louis XVIII.
Ở ngoài cảng Rochefort, Charente-Maritime, sau khi cân nhắc một cuộc đào thoát sang Hợp chúng quốc, Napoléon chính thức yêu cầu tị nạn chính trị từ đại tá người Anh Frederick Lewis Maitland trên chiến hạm HMS Bellerophon ngày 15 tháng Bảy 1815[132].
Napoleon bị tống giam và sau đó lưu đày tới đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương, cách bờ biển Tây Phi 1 870 km. Trong hai tháng đầu tiên ở đây, ông sống trong một căn lều ở khu đất Briars
thuộc về một người tên William Balcombe. Napoléon trở nên gần gũi với
gia đình này, đặc biệt với cô con gái út tên Lucia Elizabeth người về
sau viết cuốn Những hồi ức về Hoàng đế Napoleon[133].
Tình bạn này bị chia cắt vào năm 1818 khi chính quyền Anh bắt đầu nghi
ngờ rằng Balcombe đóng vai một người trung gian giữa Napoléon và Paris
và đuổi ông này khỏi đảo[134].
Napoleon chuyển tới Longwood House vào tháng Mười hai 1815; nó đã rơi vào tình trạng hư nát, ẩm ướt và gió lùa, hại cho sức khỏe. Tờ The Times đã xuất bản những bài báo ám chỉ rằng chính phủ Anh đang cố gắng làm ông chết mau, và ông thường phàn nàn về điều kiện sống trong những bức thư gửi cho tổng đốc và là người canh giữ ông Hudson Lowe[135].
Với sự đỡ đần của một ít người đi theo, Napoléon viết hồi kí và lên án những người giam giữ ông - đặc biệt là Lowe. Sự đối xử của Lowe với Napoléon bị xem là tồi tệ bởi các học giả như Frank MacLynn[136]. Lowe đã gia tăng thêm tình trạng khổ cực của ông bằng những biện pháp bao gồm sự hạn chế việc đi lại của Napoleon, một quy định yêu cầu không món quà nào được gửi cho ông nếu nó đề cập đến danh hiệu hoàng đế của ông, và một văn bản mà những người ủng hộ phải kí đòi hỏi rằng họ sẽ phải ở lại với người tù thời gian không xác định[136]. Năm 1818, The Times tường thuật một tin đồn thất thiệt về sự đào thoát của Napoléon và nói rằng tin tức được chào đón bởi sự thắp nến đồng thời ở nhiều gia đình London[chú thích 10]. Có một sự thông cảm cho ông ở Nghị viện Anh:Nam tước Holland có một diễn văn trước Nghị viện yêu cầu tù nhân phải được đối xử mà không chịu sự tàn nhẫn không cần thiết nào[138]. Napoléon tiếp tục theo dõi thời sự qua tờ The Times và từng hi vọng được thả khi Holland trở thành Thủ tướng. Ông cũng nhận sự giúp đỡ của Nam tước Cochrane, người tham dự vào các cuộc đấu tranh của Chile và Brasil giành độc lập và muốn cứu Napoléon và giúp ông lập nên một đế chế mới ở Nam Mỹ, một viễn cảnh bị sụp đổ bởi cái chết của Napoléon vào năm 1821[139].
Có những âm mưu khác để cứu thoát Napoléon khỏi sự giam cầm bao gồm một âm mưu từ Texas, nơi những người lính lưu đày của Grand Armée muốn một sự phục hưng Đế quốc Napoléon ở Mỹ. Có cả một kế hoạch cứu ông bằng một tàu ngầm sơ khai[140]. Trong thời kì Napoléon bị giam cầm, Nam tước Byron đã viết những vần thơ xem Napoléon như hiện thân của anh hùng lãng mạn, thiên tài bất toàn, cô độc và bị ngược đãi. Tin tức rằng Napoléon khởi sự làm vườn ở Longwood cũng làm dậy lên sự đồng cảm với nhiều gia đình Anh[141].
Tháng Hai 1821, sức khỏe Napoléon trở nên suy sụp nhanh chóng, ông phải nằm liệt trên giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu: "Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh và do các kẻ sát nhân được thuê mướn". Ngày 2 tháng Năm hai bác sĩ Anh, những người vừa tới gần đó, chăm sóc cho ông nhưng chỉ có thể kê những liều giảm đau[143]. Ông mất hai ngày sau đó, sau khi trải qua lễ thú tội, xức dầu thánh và ban thánh thể với sự hiện diện của Giám mục Ange Vignali[143]. Những lời cuối cùng của ông là "France, armée, tête d'armée, Joséphine" (Nước Pháp, quân đội, chỉ huy quân đội, Joséphine)[143]. Napoléon đã qua đời lúc 5 giờ 49 phút giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi thể của ông được mặc bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận Marengo.
Trái với di nguyện của ông, tổng đốc người Anh cho rằng ông nên được chôn ở St. Helena, trong Thung lũng Willows. Hudson Lowe khăng khăng đòi câu khắc trên bia mộ phải đề "Napoleon Bonaparte"; những thuộc hạ theo đi đày, Montholon và Bertrand muốn Đế hiệu "Napoleon" phải được viết chỉ bằng tên đầu. Kết quả là tấm bia mộ để trống tên[143].
Năm 1840, Louis Philippe I nhận được sự cho phép của Anh để đem di hài Napoléon về Pháp. Di hài được vận chuyển bằng chiến hạm Belle-Poule, được sơn đen trong dịp này, và ngày 29 tháng Mười một nó cập bến ở Chebourg. Di hài tiếp đó được mang bởi tàu hơi nước Normandie tới Le Havre., ngược sông Seine tới Rouen và dừng ở Paris[144].
Ngày 15 tháng Mười hai, tang lễ quốc gia được cử hành. Xe tang di chuyển từ Khải Hoàn Môn xuống đại lộ Champs-Élysées, băng qua Quảng trường Concorde tới Les Invalides (Điện Phế binh) và tới mái vòm ở nhà nguyện St Jérôme nơi nó nằm lại cho đến khi ngôi mộ thiết kế bởi Louis Visconti hoàn thành. Năm 1861, thi hài được táng trong một chiếc quách làm từ đá tràng thạch (porphyry) trong hầm mộ dưới mái vòm của Điện Invalides[144].
Năm 1955, nhật kí của người hầu phòng của Napoleon, Louis Marchand,
xuất hiện trên báo chí. Bản mô tả về Napoléon những tháng trước khi mất
khiến cho Sten Forshufvud đề xuất những nguyên nhân khác cho cái chết, bao gồm sự đầu độc arsen từ từ, trong một bài báo trên tờ Nature năm 1961[147].
Arsen được dùng làm thuốc độc vào thời kì đó bởi khi ấy nó không thể bị
phát hiện khi áp dụng trong một thời gian dài. Forshufvud, trong một
cuốn sách năm 1978 với Ben Weider,
lưu ý rằng cơ thể vị hoàng đế được thấy là được bảo quản tốt một cách
đáng ngạc nhiên khi di chuyển vào năm 1840. Arsen là một chất có tính
bảo quản mạnh, và do đó điều này củng cố giả thuyết đầu độc. Forshufvud
và Weider nhận xét rằng Napoléon từng cố hạ bớt cơn khát bất thường bằng
uống nhiều si-rô nước mạch ướp hoa cam (orgeat syrup) chứa các hợp chất xianua trong quả hạnh dùng để tạo mùi[147].
Họ khẳng định rằng kali tactrat, được sử dụng để ngăn dạ dày đào thải các chất này và cơn khát là triệu chứng của đầu độc. Giả thuyết của họ là calomen (thủy nhân clorua HgCl2, xưa kia được dùng làm thuốc nhuận tràng) được áp dụng quá liều cho Napoleon, đã giết ông và để lại những tổn thương mô rộng khắp[147]. Một bài báo năm 2007 đã khẳng định loại arsen tìm thấy trên thân tóc Napoléon là loại vô cơ, độc tính cao nhất, và theo nhà độc dược học Patrick Kintz, điều này ủng hộ kết luật rằng cái chết của ông là một vụ ám sát[148].
Giấy dán tường được dùng ở Longwood chứa nồng độ cao hợp chất arsen được sử để nhuộm màu bởi những nhà sản xuất Anh. Chất kết dính, vốn vô hại ở điều kiện nước Anh, có lẽ đã bị mốc trong khí hậu ẩm hơn nhiều ở St. Helena và nhả ra khí arsin (arsen hidrua, AsH3) độc hại. Lý thuyết này đã được loại trừ do nó không giải thích được số liệu về nồng độ hấp thụ arsen tìm thấy trong các phân tích khác[147].
Dù sao, những nghiên cứu hiện đại tỏ ra nghiêng về chứng cớ giải phẫu ban đầu[148]. Các nhà nghiên cứu năm 2008 đã phân tích các mẫu tóc Napoléon khác nhau từ suốt cuộc đời ông, từ gia đình và những người đương thời. Tất cả các mẫu đều có nồng độ arsen rất cao, xấp xỉ gấp 100 lần con số trung bình. Theo các nhà nghiên cứu này, cơ thể Napoléon đã bị nhiễm độc arsen nặng khi còn là một cậu bé, và nồng độ arsen cao trong tóc không phải do sự đầu độc có chủ ý nào; người ta có thể phơi nhiễm liên tục với arsen từ các loại keo và chất nhuộm trong suốt cuộc đời họ[chú thích 11]
Tháng Năm 1802, ông lập nên Bắc Đẩu Bội tinh (tiếng Pháp là Légion d'honneur, nghĩa là "Binh đoàn danh dự"), một sự thay thế cho các huân chương hoàng gia và tước hiệu hiệp sĩ cũ, để khuyến khích các thành tích quân sự lẫn dân sự; huân chương này hiện vẫn là phần thưởng danh dự cao nhất ở Pháp ngày nay[150]. Quyền lực ông được tăng cường nhờ Hiến pháp Năm X do ông chỉ đạo biên soạn: "Điều 1. Nhân dân Pháp chỉ đinh, và Thượng viện tấn phong Napoleon-Bonaparte là Tổng tài Thứ nhất suốt đời[151]. Chính sau văn bản này mà ông thường được gọi là Napoléon thay vì Bonaparte[19].
Bộ luật dân sự của Napoleon, Code Civil — nay thường được biết dưới tên Bộ luật Napoleon — được chuẩn bị bởi hai viện lập pháp dưới sự giám sát của Jean Jacques Régis de Cambacérès, vị Tổng tài thứ hai. Napoléon tham gia tích cực vào các phiên họp của Hội đồng Nhà nước để sửa chữa bản thảo. Sự phát triển bộ luật là một thay đổi căn bản về bản chất của hệ thống luật dân sự với sự nhấn mạnh rõ ràng lên các luật phải được viết rõ ràng và có thể tiếp cận được. Các bộ luật khác do Napoléon ấn định nhằm hệ thống hóa luật thương mại và luật hình sự; một Hướng dẫn Luật Hình sự thiết lập lần đầu tiên một cách quy củ các quy trình tố tụng[152].
Trong số các cải cách của Napoleon, đáng kể nhất là luật pháp và hệ thống đo lường. Về ý nghĩa các cải cách của Napoleon, xem phần Di sản.
Đánh giá tầm ảnh hưởng của nó tới Đức, Dieter Langewiesche mô tả bộ luật như một "dự án cách mạng" khuyến khích sự phát triển của một xã hội tư sản ở miền Đức bằng việc mở rộng quyền đối với tài sản tư hữu và một sự đẩy nhanh kết thúc của chế độ phong kiến. Napoléon đã tái cấu trúc thứ từng là Đế quốc La Mã Thần thánh, tạo nên từ hơn một nghìn lãnh địa lớn nhỏ, thành một Liên bang sông Rhine gồm bốn mươi bang; điều này cung cấp cơ sở cho Liên bang Đức và sự thống nhất nước Đức năm 1871[155].
Phong trào hướng tới thống nhất dân tộc ở Ý cũng được thúc đẩy một cách tương tự bởi sự cầm quyền của Napoleon[156]. Những sự thay đổi này góp phần vào sự phát triển nói chung của chủ nghĩa dân tộc và quốc gia dân tộc[157].
Napoleon có một hôn lễ dân sự với Joséphine de Beauharnais mà không cử hành nghi lễ tôn giáo nào, vào ngày 9 tháng Ba 1796. Trong chiến dịch Ai Cập, ông thể hiện nhiều sự khoan dung đối với tôn giáo hơn so với bất kì một vị tướng cách mạng nào khác, và thảo luận với các học giả Hồi giáo và cho phép các buổi lễ tôn giáo, nhưng tướng Dupuy, người tham gia chiến dịch cùng ông, về sau tiết lộ sau cái chết của Giáo hoàng Piô VI, về những lí do chính trị cho cách đối xử như vậy: "Chúng ta đang lừa gạt những người Ai Cập với mối quan tâm giả vờ của chúng ta đối với tôn giáo của họ; chẳng phải Bonaparte lẫn chúng ta tin vào tôn giáo này hơn chúng ta đã từng tin vào tôn giáo của ngài Piô quá cố"[chú thích 12]. Trong hồi kí của mình, thư kí của Bonaparte là Bourienne viết về mối quan tâm tôn giáo của Bonaparte theo những lời lẽ tương tự[165].
Chủ nghĩa cơ hội về tôn giáo của ông được tóm tắt trong câu nói nổi tiếng của chính ông: "Chính bằng việc làm cho mình thành người Cơ đốc giáo ta đã đem hòa bình cho Bretagne và Vendée. Chính bằng việc làm cho mình thành người Ý ta đã chinh phục tinh thần ở Ý. Chính bằng việc làm cho mình thành một người Hồi giáo ta đã thiết lập quyền lực ở Ai Cập. nếu ta cai trị một quốc gia Do Thái, ta hẳn nên cho xây lại Đền Solomon"[166].
Napoleon đã tự đội vương miện cho mình làm Hoàng đế Napoléon I vào này 2 tháng Mười hai 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris với sự ban phúc của Giáo hoàng Piô VII. Ngày 1 tháng Tư 1810, Napoléon kết hôn theo giáo lễ với công chúa nước Áo Marie Louise. Trong một cuộc thảo luận riêng tư với tướng Gourgaud khi đang lưu đầy ở St. Helena, Napoléon bộc lộ các quan điểm duy vật về nguồn gốc con người[chú thích 13] và nghi ngờ tính thần thánh của Jesus, khẳng định rằng thật là ngu xuẩn để tin rằng Socrates, Plato, Muhammad và Anh giáo cần bị nguyền rủa vì không thuộc Giáo hội Công giáo Rôma[chú thích 14]. Tuy nhiên, Napoléon vẫn nhận xức dầu bởi một linh mục khi sắp từ trần[169].
Tìm kiếm một sự hòa giải dân tộc giữa những người Cách mạng và những
người Công giáo, Giáo ước 1801 được kí vào ngày 15 tháng Bảy 1801 giữa
Napoléon và Giáo hoàng Piô VII. Nó củng cố vai trò của Giáo hội Công giáo Rôma như giáo hội đa số của Pháp và mang trở lại hầu hết vị thế thế tục của nó.
Trong Cách mạng Pháp, Quốc hội Pháp đã đoạt lấy các tài sản của Giáo hội và ban bố Luật Tổ chức dân sự của Tăng lữ, biến Giáo hội thành một bộ phận của Nhà nước, tách nó khỏi quyền lực của Giáo hoàng. Điều này gây nên sự thù địch của những người vùng Vendée đối với sự thay đổi trong mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và chính phủ Pháp. Các đạo luật sau đó hủy bỏ lịch Gregory truyền thống và các ngày lễ Công giáo.
Trong khi Giáo ước phục hồi một số liên hệ với Giáo hoàng, nó chủ yếu có lợi cho chính quyền; cán cân mối quan hệ nhà nước-nhà thờ nghiêng hẳn theo hướng có lợi cho Napoleon. Giờ đây, Napoléon có thể thu được lợi ích của giới Công giáo trong nước Pháp đồng thời kiểm soát Rome về mặt chính trị. Napoléon từng nói với người em Lucien vào tháng Tư 1801, "Những nhà chinh phục khéo léo không bị vướng víu bởi những thầy tu. Họ có thể vừa kiềm chế chúng vừa sử dụng chúng[170]". Như một phần của Giáo ước, ông giới thiệu một bộ luật song song mang tên Những Điều khoản Cơ bản.
Ông từng tuyên bố: "Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một đề xuất nào bắt buộc dân tộc Do Thái phải rời Pháp, bởi đối với tôi người Do Thái giống như bất kì công dân nào khác trên đất nước chúng ta. Đẩy người Do Thái khỏi đất nước sẽ làm suy yếu, nhưng đồng hóa họ sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho đất nước[172]". Ông được người Do Thái mến mộ tới mức Giáo hội Chính thống Nga kết tội ông là "kẻ chống lại Jesus và kẻ thù của Chúa Trời"[173].
Napoleon đã trở thành một biểu tượng văn hóa thế giới, hiện thân của thiên tài quân sự và quyền lực chính trị. Sử gia Martin van Creveld mô tả ông như "con người tài ba nhất từng sống"[174].
Kể từ khi ông qua đời, rất nhiều thành thị, con đường, tàu và cả các
nhân vật hoạt hình được đặt theo tên ông. Ông được minh họa trong hàng
trăm bộ phim và được thảo luận trong hàng nghìn cuốn sách và bài báo[175].
Trong thời kì Chiến tranh Napoléon ông bị báo chí Anh quốc xem như một bạo chúa nguy hiểm, rình rập xâm lược. Một khúc hát cho trẻ em cảnh báo trẻ nhỏ rằng Bonaparte ăn ngấu nghiến những đứa trẻ hư; một "ông ba bị"[176]. Báo chí phái Bảo thủ Anh đôi khi mô tả Napoléon lùn hơn nhiều chiều cao trung bình của con người, và hình ảnh này kéo dài dai dẳng. Sự ngộ nhận về chiều cao của ông cũng là kết quả của sự khác biệt giữa các đơn vị đo là pouce của Pháp (2.71 cm) và inch của Anh (2.54 cm); ông cao khoảng 1.7 mét, chiều cao trung bình thời bấy giờ[chú thích 15]. Napoléon thường được bao quanh bởi các cận vệ cao lớn và biệt hiệu le petit caporal (hạ sĩ bé) là một tiếng thân mật thể hiện sự thân thiết được ghi nhận giữa ông với những người lính hơn là chiều cao của ông[178].
Năm 1908, nhà phân tâm học Alfred Adler lấy Napoléon để mô tả một phức cảm thấp kém (inferiority complex) trong đó những người lùn có cư xử hiếu chiến để bù đắp cho sự thiếu chiều cao; điều này gợi cảm hứng cho thuật ngữ Phức cảm Napoleon[179]. Nhân vật hình mẫu về Napoléon là một "bạo chúa bé nhỏ" lùn một cách tức cười và điều này đã trở thành một sáo ngữ (cliché) trong văn hóa đại chúng. Ông thường được minh họa mang một mũ nồi rộng với cử chỉ tay đưa lên áo gi-lê — liên hệ với bức tranh năm 1812 của Jacques-Louis David[180].
Trong lĩnh vực tổ chức quân đội, Napoléon đã vay mượn nhiều từ các nhà lý thuyết trước đó như Jacques Hippolyte,
và từ các cuộc cải cách của những chính phủ Pháp tiền nhiệm, đồng thời
phát triển nhiều thứ đã có sẵn. Ông tiếp tục chính sách, ra đời từ thời
Cách mạng, về thăng chức dựa trên công trạng[181].
Quân đoàn thay thế sư đoàn làm đơn vị quân đội lớn nhất, và pháo tự hành được tích hợp vào các khẩu đội dự bị, hệ thống nhân sự trở nên linh hoạt hơn và kỵ binh trở lại làm một đội hình quan trọng trong lý thuyết quân sự Pháp. Các phương pháp này ngày nay được xem là các đặc điểm chủ yếu của học thuyết quân sự Napoleon[181]. Mặc dù ông đã củng cố việc thực hành chế độ tòng quân cưỡng bức hiện đại được đưa ra bởi Hội đồng Đốc chính, một trong các chiếu chỉ đầu tiên của nhà Bourbon phục hưng là chấm dứt nó[182].
Các đối thủ của Napoléon học tập từ các cách tân của ông. Tầm quan trọng được tăng cường của hỏa lực pháo sau 1807 bắt nguồn từ việc ông tạo lên một lực lượng pháo có tính cơ động cao, tăng cường số lượng pháo và thay đổi trong cách vận dụng chúng. Kết quả của những yếu tố này là Napoleon, thay vì dựa vào bộ binh làm xói mòn sức phòng thủ của kẻ địch, giờ có thể sử dụng hỏa lực tập trung như một mũi nhọn để khoét một lỗ thủng trong phòng tuyến của kẻ địch và sau đó khai thác lỗ thủng đó bằng bộ binh và kỵ binh hỗ trợ. McConachy bác bỏ lập luận cho rằng sự phụ thuộc tăng lên vào pháo binh bởi quân đội Pháp bắt đầu từ 1807 là một sản phẩm tự nhiên của chất lượng suy giảm của bộ binh Pháp và sau này là sự yếu thế của Pháp về số lượng kỵ binh[183]. Vũ khí và các loại kĩ thuật quân sự khác nhìn chung không đổi trong kỷ nguyên Cách mạng và thời Napoleon, nhưng sự vận động tác chiến của thế kỉ 18 đã chứng kiến những thay đổi đáng kể[184]. Ảnh hưởng lớn nhất của Napoléon là trong cách ông chỉ đạo chiến tranh. Antoine-Henri Jomini đã giải thích các phương pháp của Napoléon trong một cuốn sách giáo khoa được sử dụng rộng rãi đã ảnh hướng tới tất cả các quân đội châu Âu và Mỹ[185]. Napoléon được nhà lí thuyết quân sự đầy ảnh hưởng Carl von Clausewitz xem như một thiên tài trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh, và các nhà sử học xếp ông vào một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất[186]. Wellington, khi được hỏi được hỏi ai là vị tướng vĩ đại nhất thời đó, đã trả lời: "Trong thời đại này, trong những thời đại đã qua, [cũng như] trong bất kỳ thời đại nào, [đó là] Napoleon"[187].
Dưới thời Napoleon, đã xuất hiện một sự nhấn mạnh mới vào sự hủy diệt, chứ không phải ưu thế chiến thuật, đối với kẻ thù. Các cuộc xâm lược và lãnh thổ địch xảy ra trên những mặt trận rộng lớn hơn, thứ làm cho các cuộc chiến tranh hao tiền tốn của hơn và có tính dứt điểm hơn. Hệ quả chính trị của chiến tranh tăng lên rõ rệt; sự thất trận đối với một cường quốc châu Âu đáng kể hơn nhiều việc mất các nước vùng đệm cô lập. Những nền hòa bình tựa Hòa bình Carthage (nền hòa bình khắc nghiệt với phe bại trận) bện chặt với toàn thể các nỗ lực dân tộc, làm khuếch trương hiện tượng Cách mạng của chiến tranh tổng lực[188].
Napoleon đã chấm dứt thời kì vô luật pháp và hỗn loạn hậu Cách mạng Pháp[190]. Tuy nhiên, ông bị các đối thủ xem là một tên bạo chúa, một kẻ cướp ngôi[191].
Những người chỉ trích ông cáo buộc rằng ông không hề băn khoăn lắm khi đối mặt với viễn cảnh chiến tranh và cái chết của hàng ngàn người, biến việc tìm kiếm một nền thống trị đồng thuận sang một chuỗi những xung đột trên khắp châu Âu và phớt lờ các hòa ước và hiệp định. Vai trò của ông trong Cách mạng Haiti và quyết định phục hồi chế độ nô lệ ở các thuộc địa hải ngoại của Pháp gây nên tranh cãi và làm ảnh hưởng tới hình ảnh của ông[192].
Napoléon đã thể chế hóa sự cướp bóc ở các lãnh thổ chinh phục được: các bảo tàng Pháp chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật vơ vét bởi quân đội của ông trên khắp châu Âu. Các vật tạo tác được đem tới Bảo tàng Louvre để tạo nên một bảo tàng trung ương vĩ đại; ví dụ của ông về sau thành nguồn cảm hứng cho những kẻ bắt chước khét tiếng hơn[193]. Ông bị đem so sánh với Adolf Hitler, nổi tiếng nhất bởi nhà sử học Pieter Grey năm 1947[194]. Tuy nhiên David G. Chandler, chuyên gia về lịch sử Napoléon chỉ trích so sánh trên: "Không gì có thể hạ cấp người trước [Napoléon] và làm tăng giá trị cho kẻ sau [Hitler] hơn" [195].
Những người chỉ trích cũng lập luận rằng di sản thực sự của Napoléon phải phản ánh sự mất mát vị thế của nước Pháp và những cái chết vô ích do nền cai trị của ông đem lại: sử gia Victor Davis Hanson viết, "Xét cho cùng, kỷ lục quân sự là không phải tranh cãi - 17 năm chiến tranh, chừng sáu triệu người chết, nước Pháp khánh kiệt, các thuộc địa hải ngoại bị mất"[196]. McLynn lưu ý với độc giả rằng, "Ông có thể xem như người đã kéo chậm đời sống kinh tế châu Âu cả một thế hệ bởi những biến động do những cuộc chiến tranh của ông[191]. Tuy nhiên, Vincent Cronin đáp lại rằng những chỉ trích như vậy dựa vào một tiền đề không đầy đủ rằng Napoléon chịu hoàn toàn trách nhiệm cho những cuộc chiến mang tên ông, trong khi thực tế nước Pháp là nạn nhân của một loạt những mối liên minh nhằm hủy diệt những lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp[197]. Mặt khác, một cuộc thăm dò ý kiến xuất bản trên báo Le Figaro năm 2005 cho thấy gần 40% người Pháp coi ông là "một tay độc tài đã dùng mọi cách để thỏa mãn sự thèm khát quyền lực của mình".[198]
Học giả Hazareesingh năm 2004 đã xem xét hình ảnh và sự tưởng niệm Napoléon trong ngữ cảnh chính trị-xã hội của nó. Theo đó, nó đóng một vai trò quan trọng trong những thách thức chính trị tập thể đối với nền quân chủ Bourbon những năm 1815-1830. Người dân ở mọi tầng lớp và mọi khu vực trên nước Pháp, đặc biệt là các cựu binh thời kì Napoleon, gợi đến di sản của Napoléon và những mối liên hệ của nó đối với những lý tưởng của cuộc cách mạng 1789[200]. Những tin đồn lan nhanh về sự quay về của Napoléon từ đảo St. Helena và Napoléon như một cảm hứng cho chủ nghĩa ái quốc, sự tự do tập thể lẫn cá nhân, cùng với sự vận động chính trị đã tự thể hiện trong những chất liệu có tính nổi loạn, đáng chú ý là sự thể hiện các họa tiết ba màu (cách mạng) và hoa hồng (nhà Bonaparte), và những hoạt động tổ chức những ngày kỷ niệm cuộc đời và triều đại Napoléon trong khi phá hoại những ngày lễ hoàng gia, và chứng tỏ mục tiêu thành công và thịnh hành của những người ủng hộ Napoléon các loại nhằm liên tục làm mất ổn định nền cai trị của nhà Bourbon[200].
Datta (2005) chỉ ra rằng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt Boulanger vào cuối những năm 1880, huyền thoại Napoléon đã tách li khỏi chính trị đảng phái và hồi sinh trong văn hóa đại chúng. Tập trung phân tích một số tác phẩm văn học thời Belle Époque, Datta xem xét cách các tác giả và nhà phê bình thời kì này khai thác huyền thoại Napoléon cho những mục đích chính trị và văn hóa đa dạng[201]. Quy giảm về một nhân vật phụ, hình ảnh hư cấu mới về Napoléon không còn là một nhân vật lịch sử thế giới mà là một nhân vật gần gũi hơn, phỏng theo những nhu cầu của mỗi cá nhân và được tiếp nhận như sự giải trí đại chúng. Trong nỗ lực của các tác giả để thể hiện vị hoàng đế như một biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, những người đề xướng lẫn đả kích Đệ tam Cộng hòa sử dụng huyền thoại này như một phương tiện để thăm dò những nỗi lo về giới và những nỗi sợ về quá trình dân chủ hóa đi kèm với kỉ nguyên của văn hóa và chính trị quần chúng[201].
Các Hội nghị Napoléon Quốc tế được tổ chức thường xuyên và có sự tham gia của các thành viên của giới quân sự Pháp và Mỹ, các chính trị gia Pháp và các học giả đến từ nhiều quốc gia khác nhau[202].
Được dự tính hoàn thành vào năm 2014, Công viên giải trí Napoleonland ở gần Montereau-Fault-Yonne trên vị trí diễn ra chiến thắng của Napoléon trong trận Montereau sẽ có nội dung hoạt động liên quan đến cuộc đời ông.
Đạo luật Napoléon là sự hệ thống hóa luật pháp bao gồm luật dân sự, luật gia đình và luật hình sự mà ông áp đặt lên các lãnh thổ bị chinh phục. Sau sự sụp đổ của Napoleon, bộ luật này không những vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia bao gồm Hà Lan, Bỉ, một phần của Ý và Đức, mà còn được dùng làm cơ sở cho nhiều phần của những bộ luật ngoài châu Âu bao gồm Cộng hòa Dominica, bang Lousiana của Hoa Kỳ và tỉnh Quebec của Canada[203].
Ở Ba Lan hồi ức về Napoléon rất mạnh mẽ, do sự ủng hộ của ông với nền tự chủ và đối lập lại Nga, đạo luật của ông, sự kết thúc chế độ nông nô, và việc hình thành bộ máy quan liêu trung lưu hiện đại[204].
Một số nhà lãnh đạo chịu ảnh hưởng bởi Napoleon. Muhammad Ali của Ai Cập tìm kiếm liên minh với nước Pháp của Napoléon và tìm cách hiện đại hóa Ai Cập theo các cách thức của chính quyền Pháp. Vào thế kỉ 20, Adolf Hitler từng bày tỏ sự tôn kính Napoléon bằng cách viếng mộ 3 ngày sau khi sau khi Đức chiếm được Pháp (1940) trong Thế chiến thứ hai. Hitler được cho là đã nói rằng đây là "một trong những khoảnh khắc lớn nhất trong đời tôi". Hôm sau, Hitler lại thăm mộ Napoléon trong chuyến tham quan Paris, và trong suốt chiến tranh, vị lãnh tụ Đức Quốc xã đã đặt các túi cát quanh mộ Napoléon để tránh sự hư hại do bom đạn gây ra[198].
Napoleon kết hôn với Joséphine de Beauharnais
năm 1796, khi ông 26 tuổi; còn bà là một góa phụ 32 tuổi mà người chồng
trước bị xử tử trong Cách mạng. Khi bà gặp Bonaparte, bà được biết đến
với tên "Rose", một cái tên mà ông không ưa. Ông gọi bà là "Joséphine",
và từ đó bà mang tên này. Bonaparte thường gửi các bức thư tình trong
các chiến dịch của mình[205]. Ông chính thức thừa nhận con trai riêng của bà Eugène và em họ Stéphanie và sắp xếp các hôn lễ hoàng gia cho họ. Joséphine có một con gái riêng là Hortense, cưới em trai Bonaparte là Louis[206].
Joséphine có nhiều nhân tình, bao gồm một trung úy người Hungary, Hippolyte Charles, trong chiến dịch Ý của Napoleon[207]. Napoléon biết được đầy đủ mức độ mối quan hệ của bà với Charles khi ở Ai Cập, và một bức thư ông viết cho anh trai nói về chủ đề này bị người Anh chặn được. Lá thư xuất hiện trên các báo chí ở London và Paris, gây cho Napoléon nỗi xấu hổ to lớn. Napoléon cũng có những mối quan hệ của riêng mình: trong chiến dịch Ai Cập ông đã chiếm Pauline Bellisle Foures, vợ của một sĩ quan cấp thấp, làm nhân tình của mình[208][chú thích 16].
Trong khi các nhân tình của ông có những đứa con bởi ông, Joséphine không sinh được một người thừa kế, có thể vì hoặc những ám ảnh về sự bắt giam trong Thời kỳ Khủng bố hoặc lần bà từng phá thai ở tuổi 20[210]. Napoléon sau cùng chọn lựa li dị để ông có thể tái hôn để tìm người thừa kế. Tháng Ba 1810, ông cưới Marie Louise, nữ Đại Công tước Áo, và cháu của Marie Antoinette thông qua một đám cưới vắng mặt; do đó ông đã kết hôn với một gia đình đế vương Đức[211].
Họ duy trì hôn nhân cho tới khi ông mất, mặc dù bà không đi đày cùng ông ở Elba và do đó không nhìn thấy chồng lần nữa. Họ có một đứa con, Napoleon Francis Joseph Charles (1811–1832), từ lúc sinh ra đã được phong Vua của người La Mã. Đứa trẻ về sau trở thành Napoléon II năm 1814 và tại vị chỉ hai tuần. Ông hoàng được ban danh hiệu Công tước Reichstadt năm 1818 và chết do bệnh lao ở tuổi 21, mà không có con cái[211].
Napoleon cũng công nhận hai đứa con ngoài giá thú khác: Charles Léon (1806–1881) sinh bởi Eléonore Denuelle de La Plaigne[212] và Bá tước Alexandre Joseph Colonna-Walewski (1810–1868) bởi Nữ bá tước Marie Walewska[212]. Ông có thể có bốn đứa trẻ ngoài giá thú không được thừa nhận nữa, như Karl Eugin von Mühlfeld bởi Victoria Kraus[213]; Hélène Napoleone Bonaparte (1816–1910) bởi Albine de Montholon; và Jules Barthélemy-Saint-Hilaire, người mà mẹ hiện còn chưa rõ[214].
Chiến tranh Việt- Xiêm (1841-1845) là cuộc chiến giữa nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển Hồ) và Nam Kỳ (Nam Bộ Việt Nam). Cuộc chiến được chia làm 2 phần chính diễn ra chủ yếu vào các năm 1842 và 1845.
Phần đầu cuộc chiến xảy ra năm Nhâm Dần (1842) bao gồm nhiều trận lớn nhỏ, phần lớn đã xảy ra ở Kiên Giang và An Giang thuộc miền Nam Việt Nam. Theo Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện thì đây là cuộc chiến tranh giữ nước quan trọng của người Việt, phải huy động đến năm ngàn quân và súng lớn do những tướng giỏi chỉ huy.[2]
Năm 1840, mấy vạn quân Xiêm kéo vào đóng ở U Đông (Oudong)[5], vua Minh Mạng sai tướng Phạm văn Điển và Nguyễn Tiến Lâm mang quân sang đối phó nhưng không kết quả.
Năm 1841, vua Minh Mạng mất, Thiệu Trị vừa lên thay. Thấy tình hình Chân Lạp bất ổn mãi, nên nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang; vua Thiệu Trị liền nghe, truyền cho Trương Minh Giảng rút quân về, nhưng đến An Giang thì viên tướng này mất. Sách Việt Nam sử lược giải thích: Bởi vì việc kinh lý đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà về, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.[6]
Biết tướng Trương Minh Giảng rút quân về nước, quân Xiêm đưa Nặc Ông Đôn về Nam Vang lên ngôi vua và không bỏ lỡ cơ hội, Phi Nhã Chất Tri (còn gọi là tướng Bodin) dẫn quân sang đánh phục thù.
Đồng thời với Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng cũng từ đồn Tân Châu (nay thuộc Tân Châu An Giang) tiến đến Tầm Bôn (thuộc huyện Phù Nam phủ Nam Ninh Trấn Tây, nay là khoảng xã Preaek Sambuor thuộc huyện Peam Chor tỉnh Prey Veng), quân Xiêm Lạp xuôi theo sông Tiền bắn ra, Hoàng cùng Hồ Đức Tú (lãnh binh An Giang) và Lê Đình Lý (phó lãnh binh Vĩnh Long), tiến đánh thu được Tàm Bôn và ngược dòng sông Tiền tiến về đồn Ba Nam (phumi Ba Nam). Nguyễn Văn Hoàng tiến quân hạ được đồn Ba Nam (Phumi Ba Nam, ở Neak Loeang trên ngã tư giao cắt giữa Quốc lộ số 1 (Campuchia) với sông Tiền Giang), Nguyễn Văn Hoàng liền chiêu an vỗ về dân chúng Cao Miên, và thám sát biết được rằng: quân Xiêm-Lạp do các tướng Cao La Hâm, Mộc Xá Na Lăng nắm, đã xây dựng ở phía thượng lưu sông Tiền Giang một phòng tuyến quanh đồn Thiết Thằng[13] (doc bờ sông và chặn ngang sông tại đồn Thiết Thằng) án ngữ trên bờ sông Tiền chặn đường tiến tới Nam Vang. Hoàng sai Hồ Đức Tú đánh hạ được đồn ngoài rìa (phía hạ lưu Thiết Thằng) của phòng tuyến trên sông này. (Phòng tuyến Thiết Thằng nằm khoảng 2 bờ sông Tiền Giang (Mê Kông) nay thuộc khoảng 2 huyện Kien Svay hay Lvea Aem tỉnh Kandal).
Ngày 14 tháng 6 âm năm Ất Tỵ (tức 18 tháng 7 năm 1845[14]), Doãn Uẩn tiến đánh đồn Sách Sô (nay là Phumi Khsach Sa thuộc khoảng các xã Roung Damrei, Reaks Chey huyện Ba Phnum) ở chi lưu sông Sách Sô (sông Preaek Say Sos, nối với sông Preaek Banam ở xã Banlich Prasat). Quân Cao Miên ở chi lưu sông Sách Sô (vùng Sách Sô thuộc huyện Nam Thịnh phủ Nam Ninh Trấn Tây[15]) kết bè mảng trên sông, đào hầm hố dựng lũy để chống quân nhà Nguyễn. Cánh quân của Doãn Uẩn đang đánh đồn Sách Sô, liền đến đóng đồn ở Bang Chích (khoảng xã Banlich Prasat huyện Peam Ro tỉnh Prey Veng ngày nay), rồi sai các phó cơ Nguyễn Khoa, Nguyễn Hữu Mỹ đem 400 quân hội với đạo quân ở sông Tiền Giang của Nguyễn Văn Hoàng.[16] Theo Ngoại Lãng tướng công niên biểu của Doãn Uẩn: "Ngày 14 tháng 6, công phá đầm lũy giặc ở Sách Sô...(Sách Sô tức là thượng du của phủ Nam Ninh, phía trước có đầm lớn, đảng giặc đã đắp lũy từ trước ở ven đầm, hai lớp trong ngoài dài hơn ngàn trượng. Tất chúng tử thủ. Ta chia binh làm hai đạo: lãnh binh binh Hồ Đức Tú và phó lãnh binh Lê Đình Lý cầm một ngàn binh từ phủ Tẩu Đà tiến vào, ta cùng lãnh binh Nguyễn Sáng dẫn hơn ngàn quân từ Ích Đà tiến vào. Bọn giặc dựa vào lũy đông như kiến, bắn ra. Ta thân đốc hai đạo quan binh oanh kích bằng pháo lớn. Ai nấy dũng cảm hăng hái,lên trước bạt lũy, đâm chết nhiều tên. Đảng giặc tan vỡ, vào rừng chống giữ. Quan binh liền đóng đồn trấn giữ ở Sách Sô."
Trong lúc đó, quân Xiêm La-Cao Miên lại vòng xuống quấy rối các đồn Vịnh Bích, Kha Đốc. Doãn Uẩn sai Trần Tri và Trương Lý đem quân chống giữ, rồi gửi thư xin viện binh cho Nguyễn Tri Phương. Đồng thời Uẩn tiến quân tới ngã ba sông Trà Mạt (còn gọi là ngã ba Ba Mi[17], nay khoảng phía nam xã Peam Mean Chey huyện Peam Ro), để hội quân với Nguyễn Văn Hoàng. Hoàng điều Hồ Đức Tú, Lê Đình Lý cùng 1000 quân theo Doãn Uẩn, còn mình lại về đánh mặt đồn Ba Nam. Hôm sau, Doãn Uẩn chia quân làm hai đạo tiến đánh Sách Sô: Doãn Uẩn, Nguyễn Sáng đánh mặt phải, mặt trái là Hồ Đức Tú và Lê Đình Lý. Hồ Đức Tú thúc quân lên bờ đánh thành, Doãn Uẩn kéo quân lội qua sông, ra mặt trước thành, bắn giết được một tướng Xiêm và hơn trăm quân đối phương. Lê Đình Lý bắn chết một tướng Xiêm. Cánh hữu, Nguyễn Sáng bắn trúng 10 quân Cao Miên và 20 quân Xiêm La. Hạ được đồn Sách Sô, Doãn Uẩn cho Hồ Đức Tú về đồn Ba Nam, và định rút quân ở 5 đồn Thị Đam (Cheang Daek), Vịnh Bích (Kampong Trabaek), Gò Bắc(Kansoam Ak), Kha Đốc (Sdau Kaong), và Bang Chích (Banlich Prasat) về tập trung đồn Sách Sô (Phumi Khsach Sa) để binh lực thêm hùng hậu, nên gửi thư về cho Nguyễn Tri Phương. Tri Phương không nhất trí, đưa thư đáp rằng nên tạm để quân tại các đồn đó để canh phòng.
Ở Nam Kỳ, Võ Văn Giải (hậu quân đô thống) và Tôn Thất Bạch (binh bộ thượng thư) đến An Giang, phân cho Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Nghị đem thuyền chở quân đến quân thứ Ba Nam, tăng cường cho Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng. Khi Tri Phương chưa tới, ngày 26 tháng 6 âm, 5000 quân Xiêm Lạp đến vây đạo quân của Doãn Uẩn ở đồn Sách Sô. Doãn Uẩn sai Lê Viên (quản cơ), Hồ Đức Tú, Nguyễn Sáng, đem binh chống giữ, bắn giết được tướng Xiêm, làm quân Xiêm Lạp tan vỡ.
Được tin thắng trận, vua Thiệu Trị khen ngợi các tướng sĩ hai đạo binh Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng, đồng thời dụ Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch rằng: cần đốc thúc 2 đao quân tiến nhanh tới hạ thành Nam Vang, và yêu cầu đạo binh thứ 3 theo kế hoạch ban đầu ở Tây Ninh dưới quyền Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực, lúc đó vẫn chưa tiến sang Cao Miên, phải tiến sang Ba Nam hội quân.
Tháng 7 âm, Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Nghị cùng viện binh đến được Ba Nam. Nguyễn Tri Phương sai quân chiêu dụ dân chúng Cao Miên, nhưng dân bị quân của Ang Duong kiềm tỏa không chịu theo ra. Thượng lưu dọc sông Tiền thuộc Ba Nam, quân Xiêm lập đồn lũy chạy ngang đến Thiết Thằng (quân Xiêm dùng xích sắt chắn ngang sông), bảo vệ Nam Vang. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng muốn nhanh chia đường tiến đánh Thiết Thằng, nhưng Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch cho rằng chưa nên đánh vì quân chưa hội đủ, dân Miên theo về chưa nhiều. Quan quân tâu về triều, vua dụ rằng cần phải tốc chiến tốc thắng (chỉ dụ của vua đến quân thứ ngày 22 tháng 7 âm). Trong khi đó, quân Xiêm lại quấy nhiễu đồn Sách Sô, Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) và Doãn Uẩn dẫn 1000 quân ra đánh dẹp, quân Xiêm thua chạy.[18]
Ngày 6 tháng 8 âm[19] (7 tháng 9 năm 1845), tại quân thứ Ba Nam, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn chia đường tiến đánh Thiết Thằng (đồn sắt): Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Nghị dẫn 3000 quân, Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng đem 2000 quân, 2 đạo đều tiến theo đường thủy sông Tiền Giang (Mê Kông) và có thổ dân Cao Miên dẫn đường. Quân Xiêm-Lạp hai bên bờ bắn ra đánh chặn, 2 đạo quân nhà Nguyễn hợp lại đồng loạt tấn công. Các tướng lĩnh Hồ Đức Tú, Lê Đình Lý, Hồ Hậu, Nguyễn Công Nhàn đều hăng hái lập công. Quân Việt tiêu diệt được 1 đại tướng của Xiêm cùng 600 quân Xiêm-Lạp (gồm cả người Xiêm, người Miên, người Lào, người Hoa), và thu được rất nhiều thuyền bè súng ống. Quân Việt chết một tướng là Trương Lý. Quân Xiêm của Chất Tri thua chạy bỏ đồn lũy rút về Nam Vang. Nhân đà thắng, quân Việt tiến thẳng đến Nam Vang, mất phòng tuyến Thiết Thằng (ngày 12 tháng 8 âm[19] tức 11 tháng 9 năm 1845), đại quân Xiêm-Lạp của Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) và Nặc Ông Đôn (tức Ông Giun, Ang Duong) rút lui khỏi Nam Vang vào ban đêm, chạy về phía Oudong cố thủ.[20] Doãn Uẩn nói về đồn Thiết Thằng như sau: "Năm Thiệu Trị thứ nhất,... Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) và Nặc Ông Đôn (tức Ông Giun, Ang Duong) chiếm Trấn Tây đã phá thành cũ, xây thành mới bằng gạch ở thượng lưu dài hơn trăn trượng. Lại đặt đồn lũy ở hai bên sông hạ lưu Sa An của Hậu Giang và Hách Chử của Tiền Giang, mà đồn Tiền Giang là kiên cố nhất, tả hữu đắp liền ba đồn, rào lũy dày đặc, đắp núi đất cao lên, bố trí nhiều hồng y đại pháo,lại làm khóa sắt ngang sông, tự coi là thế hiểm kiếm các, kiên cố không thể phá vỡ, cho nên gọi là Thiết Lũy, còn gọi là đồn Thiết Thằng."
Thu được thành Nam Vang (Phnom Penh), vua Thiệu Trị khen thưởng và thăng chức cho tướng sĩ quân Việt đánh Xiêm-Lạp, Nguyễn Văn Chương được thăng Hiệp biện đại học sĩ, Doãn Uẩn được thăng quyền thượng thư bộ Binh, các tướng bên dưới đều được thăng cấp và khen thưởng. Vua dụ Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) và Doãn Uẩn đem quân tiến gấp tới bến Vĩnh Long (Kampong Luong, trên bờ sông Tonlé Sap, nay là xã Kampong Luong huyện Ponhea Leu tỉnh Kandal) truy kích quân Xiêm-Lạp. Vua sai Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch, Nguyễn Văn Hoàng đi chiêu an dân chúng, ổn định đất Trấn Tây mới lấy lại. Vua điều binh từ Nam Kỳ tăng cường cho Trấn Tây, lấy quân từ các tỉnh Trung Kỳ kể từ kinh đô Huế trở vào bổ sung cho Nam Kỳ. Vũ Văn Giải (cuối tháng 8 đến được Trấn Tây) tâu xin tạm lập Nặc Ong Bướm (tức Ang Bhim, con của Ong Yêm (tức Ang Im, hay Ang Em)) lên ngôi vương, nhưng Thiệu Trị chưa thuận[21], vì đang cân nhắc giữa Bướm và Ngọc Vân (Ang Mey) con gái của vua Ông Chân (Ang Chan II). Dân Cao Miên về theo nhà Nguyễn khoảng 23000 người, các tướng người Cao Miên là Ốc Nha Sô Phì và Lịch Bồn Nha Trắc cũng kéo quân Miên ra hàng.
Tháng 9 âm năm 1845, Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch báo cáo cho Thiệu Trị về tình hình Trấn Tây rằng: hoàng thân Cao Miên là Ông Giun (Ang Duong) và tướng Xiêm là Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) lúc đó đang tụ tập tại vùng Vĩnh Long (Kampong Luong) và đô thành Oudong. Quân nhà Nguyễn do Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị đang ngược theo đường sông Tonlé Sap tiến về phía bến Vĩnh Long truy kích quân Xiêm-Lạp. Còn Giải cùng Bạch và Hoàng ở lại Nam Vang ổn định tình hình. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn tiến đánh đến bến Vĩnh Long, quân Xiêm hai bên bờ sông bắn ra ác liệt, quân Việt không thể tiến lên bờ được. Thiệu Trị liền lệnh cho Võ Văn Giải mang quân từ Nam Vang lên tăng cường đánh Oudong (để Bạch và Hoàng ở lại Nam Vang).
Vũ Văn Giải chưa tới nơi, thì Tri Phương đã cùng Hồ Đức Tú, Nguyễn Công Nhàn bỏ thuyền lên bộ, còn để lại Doãn Uẩn giữ thủy trại và đánh yểm hộ. Quân Xiêm bi vỡ trận, thua chạy rút về giữ thành Ô Đông (tức Oudong), ở phía Tây Nam bến Vĩnh Long. Thiệu Trị dụ quân tướng Việt ở Trấn Tây rằng cần phải bao vây quân Xiêm-Lạp tại Oudong (Oudong Meanchey), không cho quân Xiêm của Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) rút về Bắc Tầm Bôn (tức Battambang), để rồi tiêu diệt (Kampong Luong nằm ở vùng đất chắn giữa Oudong và Battambang). Thiệu Trị thăng chức cho các tướng nhà Nguyễn ở Trấn Tây: Võ Văn Giải làm Tiền quân Đô Thống kiêm Phủ biên tướng quân quản hạt Trấn Tây (chức của Trương Minh Giảng trước đó), Nguyễn Tri Phương làm Hiệp biện Đại học sĩ kiêm Khâm sai đại thần, Tôn Thất Bạch làm Tổng đốc An Giang, Doãn Uẩn làm Thượng thư Bộ Binh kiêm Tham tán đại thần Trấn Tây.[22] Thiệu Trị sai Nguyễn Lương Nhàn (tuần phủ Hà Tiên) đem 1000 quân cùng nhiều súng thần công lớn, đến huyện Khai Biên phủ Quảng Biên (tức Kampot ngày nay) chiêu an dân chúng và tuyển mộ người Cao Miên dẫn quân tiến đến phủ Hải Tây (nay là tỉnh Pursat), phía Tây Bắc của Ô Đông (Oudong Meanchey) để kép chặt vòng vây.
Bị vây chặt trong thành Oudong, cuối tháng 9, Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) gửi thư sang phía quân Việt xin cầu hòa 2, 3 lần. Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), Doãn Uẩn tạm đình chiến, giữ nguyên vòng vây không tiến đánh, đồng thời báo cáo về triều đình Huế, và cho quân Xiêm một hẹn ước hòa đàm.
Tháng 10 âm lịch, đến thời hạn hẹn ước hòa đàm, quân Xiêm sai hẹn không đến mà vẫn cố thủ giữ thành Oudong, quân Việt từ ngoại thành liền tiến đánh Oudong. Nguyễn Tri Phương từ mặt sông Tầm Nạp (nay khoảng bờ sông xã Samraong huyện Ponhea Leu, phía hạ lưu sông Tonlé Sap, tức phía Đông Nam Oudong) tiến vào, Doãn Uẩn từ mặt sông Vĩnh Long (Kampong Luong, phía thượng lưu sông Tonlé Sáp, tức mặt Đông Bắc Oudong) tiến đánh Oudong. Theo Ngoại Lãng tướng công niên biểu của Doãn Uẩn: "Sau đó (tức là sau khi đưa thư xin hòa), Chất Tri và Sá Ông Đôn (Ang Duong) trì hồi quá hạn. Ngày 28 tháng 9 (âm, tức 28-10-1845), [quân Việt] lại chia binh tiến công ở Vĩnh Long (Kampong Luong). Binh đạo Khâm sai (tức Nguyễn Văn Chương) đánh đường hữu lộ của chúng. Binh đạo Tham tán (tức Doãn Uẩn) đánh đường tả lộ của chúng." "... Hơn hai tuần (khoảng hơn 20 ngày), quân ta tiến đánh lũy giặc, chỉ hơn 20 trận. Ngày 20 tháng mười (âm tức 19-11-1845), đảng giặc ở trên lũy (thành Ô Đông) xin quan quân ngừng đánh đồn phóng pháo, để Chất Tri phái người đến quân thứ xin hòa. Vài ngày sau đó, [Nguyễn Văn Chương và Doãn Uẩn] mới tiếp tục phát gửi tờ tâu đệ tiền kỳ. Trong bản tâu có châu phê (lời vua): Giặc Xiêm thế cùng lực kiệt, vẫy đuôi xin tha, khẩu thỉnh cầu hòa, chẳng phải là không có kế hoãn binh. Mà xem thế chúng, ta đánh thì tất thắng, giữ thì khó, nên sắp xếp thế nào để được thể? Nội trị được vĩnh ninh, biên cương ngoại yên, nhiếp phục được ngoại di. Giao cho các đại thần mau chóng bàn bạc tâu lên. Khâm thử!" "Các đại thần văn võ họp bàn, thấy rằng đương lúc này binh uy vang động. Ta đã chiếm thế thượng phong. Hãy tạm hòa với chúng. Cho quân dân được tạm nghỉ sức, thì cũng chẳng đến nỗi không là thượng sách."
Theo Đại Nam thực lục: Tháng 11 (ngày 1-11 âm lịch là ngày 29-11-1845), mùa đông, năm Thiệu Trị thứ 5, Ất Tỵ (1845), Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng bàn tính, cho rằng Ô Đông tuy là cái cô thành, nhưng địa thế rất hiểm, lũy sách còn nhiều, Chất Tri và tên Giun dựa lẫn nhau, tất không chịu bỏ, thì đánh không biết đến bao giờ xong việc! Mà đánh để lấy thành, không bằng đánh bằng cách thu phục lòng người, xong việc quân cũng là xong việc nước. Chi bằng tạm cho xin hòa, để có thể thư sức dân quân.
Tháng 9 âm lịch năm 1845, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng 11 âm lịch năm Ất Mùi
(tức cuối tháng 11 đầu tháng 12 dương lịch năm 1845) thì Nguyễn Tri
Phương, Doãn Uẩn cùng Chất Tri (Bodindecha) và Ang Duong ký tờ hòa ước ở
nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về
đóng ở Trấn Tây (Nam Vang), đợi quân Xiêm thi hành những điều ước đã
định. Doãn Uẩn viết trong Ngoại Lãng tướng công niên biểu: "Ngày mồng 3 tháng mười một,
Chất tri dẫn bộ lạc đến quân thứ và dẫn Man tù Sá Ông Đon đến quân thứ
thú tội. Sá Ông Đôn tiếp đó lại có thư thỉnh tội, xin giúp đề đạt. Trước
đây, Chất tri đã ủy lệnh cho đại đầu mục Xiêm là Phiya Ta-sơ-tê-côn là
quan nhất phẩm của Xiêm, Sá na lăng là quan tam phẩm của Xiêm, đến trước
quân [Việt] nói rằng sẽ phái người thông thuyết, nhưng vì ngôn ngữ bất
đồng, thông dịch không thể đạt ý, này Chất Tri xin dẫn hết bộ lạc tự
mình đến thuyết hòa, mới được rõ ràng, lại xin dẫn Sá Ông Đon và các thổ
mục đương diện tạ tội. Ta cùng Khâm sai bàn nhau: Binh pháp nói rằng
"bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện; bất chiến nhi khuất nhân
binh, viễn vi thiện chi thiện" (trăm đánh trăm thắng không phải là hay
nhất trong mọi cái hay; không đánh mà khuất phục được quân của người,
mới là hay nhất trong mọi cái hay). Nay dẫu có thể đuổi dài lên bắc,
chúng tất thua, nhưng mai kia vị tất chúng chẳng có mưu đồ rửa nhục, chi
bằng hẵng cho chúng hòa, để được yên việc, bèn sức cho làm một sớ hội
xá, hai bên gặp nhau."[23] Đại Nam thực lục chép: "Ngày Tân Dậu.[24],...,
Quan ở quân thứ Vĩnh Long là Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng đầu mục
nước Xiêm là Chất Tri ước hòa ở hội quán. Bọn Phương bèn..., đem việc ấy
tâu lên. Vua xem tờ tấu,..., Sau đó Chất Tri lại cho người đến ước hội.
Đến giờ Tỵ ngày hôm ấy, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn chỉnh đốn nghi vệ
quân đội ra đi. Khi sắp đến hội quán, (người Xiêm đã làm nhà lợp tranh
trước ở giữa đường), đã thấy Chất Tri xuống voi, đi chân không, bỏ hết
nhạc Man. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn từ cửa tả vào, vái chào, rồi lên
ngồi nhà chính. Chất Tri ngồi bên hữu, quân tướng đều im lặng nghiêm
trang. Khi an tọa, Tri Phương trước hết hỏi đến cái cớ sao không nhận
được thư đáp. Chất Tri nói: Vì ngôn ngữ bất đồng, sợ dịch sai, nên chưa
giám viết. Nhân đó Chất Tri đưa thư ra, đại ý thư viết: họ đến họp để
xin gây lại tình hòa hiếu cũ, và cho Ong Giun được làm bề tôi hai nước.
Rồi ông ta trỏ tay vào người quỳ bên và nói: "Đây là Nặc Ong Giun, xin
ủy thác cho làm việc ở nước ngài, nhờ ngài thương cho"... Tri Phương,
Doãn Uẩn lại hỏi Chất Tri: "Nay việc nghị hòa đã xong, Chau Phi Nhã bao giờ thì lui về Bắc Tầm Bôn?". Chất Tri nói: "Hắn đã thua ở Thiết Thằng, bỏ Nam Vang
lui về Ô Đông, tự mang cái tội thua trận, không thể chối được: nếu vội
bỏ Ô Đông mà về, thì không khỏi mang tội với nước Xiêm, xin tạm cho ở
đây, đợi thư của nước Xiêm đến, rồi sẽ lui quân...[25],...". Ngày Tân Dậu (4 tháng 11 âm), là ngày 2 tháng 12 năm 1845 [14] (Sự chậm một ngày có lẽ là thời gian liên lạc ngựa trạm công văn trình tấu và châu phê giữa chiến trường và triều đình Huế).
Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống, nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam. Tháng 2 âm lịch năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương (ý trao cho làm chủ toàn cõi Cao Miên gồm cả Nam Vang lẫn Oudong) và phong cho Ang Mey làm Cao Miên quận chúa (ý trao cho làm chủ vùng Trấn Tây (Nam Vang) nhà Nguyễn kiểm soát). Thiệu Trị lệnh cho quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây (vùng Nam Vang đến biên giới với Nam Kỳ của Đại Nam) rút về An Giang.[26] Quân đội Xiêm La do Chất Tri chỉ huy cũng rút về Battambang (vùng đất Thái Lan chiếm đóng của Campuchia trong suốt thế kỷ 19), Campuchia được độc lập trong vùng lãnh thổ nguyên là đất Trấn Tây giai đoạn (1836-1840), bao gồm cả Nam Vang và Oudong. Biên giới Nam Kỳ Lục tỉnh-Cao Miên, tuy chưa theo phong cách phương Tây hoạch định bằng văn bản hiệp định, nhưng về cơ bản trở về với đường ranh giới vào khoảng đầu năm 1841, khi Trương Minh Giảng rút quân Trấn Tây về An Giang, và trước khi quân Xiêm-Lạp xâm phạm Hà Tiên, An Giang đầu cuộc chiến. Biên giới này tồn tại cho đến sau khi Pháp xâm chiếm và ổn định xong Nam Kỳ, chiếm đóng và bảo hộ Cao Miên, thì được thay thế bởi ranh giới hành chính (nội bộ trong Liên bang Đông Dương) giữa Cao Miên và Nam Kỳ thuộc Pháp được hoạch định bởi hiệp định giữa Pháp và triều đình Cao Miên.
Hòa ước quốc tế giữa ba quốc gia (mà đại diện cho Đại Nam (Việt Nam) là Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn, đại diện cho Cao Miên (Campuchia) là vua Ang Duong, đại diện cho Xiêm La (Thái Lan) là Chao Phraya Bodin Decha) quy định phần lãnh thổ Nam Kỳ Lục tỉnh chính thức thuộc chủ quyền Việt Nam[27][28], và Campuchia chịu sự bảo hộ song phương của cả Việt Nam lẫn Thái Lan[29]. Sự bảo hộ song phương Việt Nam và Thái Lan lên Campuchia chấm dứt, đối với Việt Nam khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam từ các tỉnh Nam Kỳ năm 1862-1867 (và chính thức trong Hòa ước Giáp Tuất (1874)), đối với Thái Lan khi Pháp ký hiệp ước bảo bộ đối với Campuchia năm 1863.
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Napoléon Bonaparte
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Napoléon I | |
---|---|
![]()
Napoléon dans son cabinet de travail, họa phẩm của Jacques-Louis David, 1812
|
|
Hoàng đế của người Pháp | |
Trị vì | 20 tháng 3 năm 1804 – 11 tháng 4 năm 1814 (9 năm, 328 ngày) 1 tháng 3 năm 1815 – 22 tháng 6 năm 1815 (94 ngày) |
Đăng quang | 2 tháng 12 năm 1804 |
Tiền nhiệm | Không (bản thân trên cương vị Đệ nhất tổng tài của Đệ nhất Cộng hòa Pháp) |
Kế nhiệm | Louis XVIII (de jure năm 1814) |
Vua Ý | |
Trị vì | 17 tháng 3 năm 1805 – 11 tháng 4 năm 1814 |
Đăng quang | 26 tháng 5 năm 1805 |
Tiền nhiệm | Không (bản thân trên cương vị Tổng thống của Cộng hòa Ý) |
Kế nhiệm | Không (vương quốc tan rã, vua kế tiếp của Ý là Vittorio Emanuele II) |
Thông tin chung | |
Phối ngẫu | Joséphine de Beauharnais Marie Louise của Austria |
Hậu duệ | Napoléon II |
Tên đầy đủ | Napoléon Bonaparte |
Hoàng tộc | Bonaparte |
Thân phụ | Carlo Buonaparte |
Thân mẫu | Letizia Ramolino |
Sinh | 15 tháng 8 năm 1769 Ajaccio, Corse, Pháp |
Mất | 5 tháng 5 năm 1821 (52 tuổi) Longwood, Saint Helena |
An táng | Điện Invalides, Paris |
![]() |
Với đế hiệu Napoléon I, ông là Hoàng đế của người Pháp từ năm 1804 đến năm 1815. Cuộc cải cách pháp luật của ông, Bộ luật Napoléon, đã có những ảnh hưởng lớn lên nhiều bộ luật dân sự trên toàn thế giới, nhưng ông được nhớ đến nhất bởi vai trò của mình trong các cuộc chiến tranh mà Pháp phải đương đầu với hàng loạt liên minh, được gọi là các cuộc chiến tranh Napoléon. Ông đã thiết lập quyền bá chủ trên phần lớn lục địa châu Âu và tìm cách truyền bá những lý tưởng của cách mạng Pháp, đồng thời củng cố nền đế chế làm phục hồi những nét của chế độ cũ Pháp (Ancien Régime). Nhờ thắng lợi trong những cuộc chiến này, thường là chống lại đối phương có ưu thế về quân số, ông được coi là một trong những nhà quân sự vĩ đại nhất mọi thời đại, và các chiến dịch của Napoléon được nghiên cứu tại các học viện quân sự trên khắp thế giới[1].
Napoléon được sinh ra ở Ajaccio thuộc Corse, trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc Genoa (Ý). Ông được đào tạo thành một sỹ quan pháo binh ở Pháp. Bonaparte trở nên nổi tiếng dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Pháp khi chỉ huy thành công nhiều chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất và các thứ hai chống Pháp. Ông cũng tiến hành cuộc chinh phạt bán đảo Ý.
Năm 1799, ông đã tổ chức một cuộc đảo chính và tự đưa mình trở thành vị Tổng tài thứ nhất; năm năm sau đó Thượng viện Pháp tuyên xưng ông là Hoàng đế Pháp. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 19, Đệ nhất Đế chế Pháp dưới quyền Napoléon đã tham gia vào một loạt xung đột - những cuộc chiến tranh Napoléon - lôi kéo mọi cường quốc chính ở châu Âu tham gia. Sau một loạt thắng lợi, Pháp đạt được vị trí thống trị ở lục địa châu Âu, và Napoléon duy trì phạm vi ảnh hưởng của Pháp thông qua việc thành lập của những mối đồng minh rộng lớn và bổ nhiệm bạn bè và người thân cai trị các quốc gia châu Âu khác như những chư hầu của Pháp.
Cuộc chiến kéo dài ở bán đảo Iberia và cuộc xâm lược nước Nga năm 1812 đánh dấu bước ngoặt trong cơ đồ của Napoléon. Quân đội chủ lực của Pháp, Grande Armée, bị tổn thất nặng nề trong chiến dịch và không bao giờ có thể khôi phục lại hoàn toàn. Năm 1813, Liên minh thứ sáu đã đánh bại quân đội của ông tại Leipzig, năm sau đó Liên minh xâm lược Pháp, buộc Napoléon phải thoái vị và đày ông đến đảo Elba. Chưa đầy một năm sau, ông thoát khỏi Elba và trở lại nắm quyền, nhưng đã bị đánh bại trong trận Waterloo vào tháng 6 năm 1815. Napoléon trải qua sáu năm cuối cùng của cuộc đời trong sự giam cầm của người Anh trên đảo Saint Helena. Cái chết của ông gây ra nhiều tranh cãi về sau, chẳng hạn một số học giả cho rằng ông là nạn nhân của một vụ đầu độc bằng arsen.
Mục lục
- 1 Dòng dõi và việc học tập
- 2 Khởi đầu sự nghiệp
- 3 Nhà cai trị nước Pháp
- 4 Lưu đày ở Saint Helena
- 5 Những cải cách lớn
- 6 Napoleon và tôn giáo
- 7 Hình ảnh trong văn hóa
- 8 Di sản
- 9 Hôn nhân và con cái
- 10 Tước hiệu và huy hiệu
- 11 Phả hệ tổ tiên
- 12 Chú thích
- 13 Trích dẫn
- 14 Tham khảo
- 15 Liên kết ngoài
Dòng dõi và việc học tập
Napoléon Bonaparte là đứa con thứ hai trong một gia đình có tám người con, ra đời tại dinh thự Casa Buonaparte ở thị trấn Ajaccio, đảo Corse vào ngày 15 Tháng Tám năm 1769, một năm sau khi hòn đảo này được Cộng hòa Genoa chuyển giao cho Pháp[2]. Ông được đặt tên thánh là Napoleone di Buonaparte, theo tên một người chú (trước đó ông bà Bonaparte đã có một con trai đặt tên Napoleone nhưng đã mất sớm). Vào tuổi hai mươi, ông lấy tên là Napoléon Bonaparte cho có vẻ Pháp hơn[3][chú thích 2].Dòng họ Bonaparte ở Corse bắt nguồn từ giới quý tộc nhỏ Ý ở Lombardia[4][5], những người đã đến Corse từ Liguria từ thế kỷ 16[6]. Cha của ông là Nobile Carlo Buonaparte, một luật sư, từng được chỉ định làm đại diện của đảo Corse đối với triều đình vua Louis XVI. Người có ảnh hưởng quyết định trong thời thơ ấu của Napoléon là mẹ ông, Letizia Ramolino, kỉ luật nghiêm khắc của bà đã kiềm chế đứa bé ngỗ nghịch[7].

Lãnh tụ dân tộc chủ nghĩa đảo Corse Pasquale Paoli, chân dung năm 1798 bởi Richard Cosway
Nền tảng quý tộc và tương đối khá giả cùng các mối quan hệ của gia đình giúp Napoléon có cơ hội học tập lớn hơn nhiều so với một người Corse thông thường thời đó[10]. Tháng Một năm 1779, Napoléon đã ghi danh vào một trường tôn giáo ở Autun trên đất liền để học tiếng Pháp. Đến tháng Năm, ông được nhận vào một học viện quân sự tại Brienne-le-Château[11]. Ông nói giọng Corse và không thể đánh vần đúng cách[12], điều khiến ông bị bạn bè trêu chọc và do đó chuyên tâm vào việc đọc[13]. Nhưng một viên giám thị quan sát thấy Napoléon " luôn luôn nổi trội trong sự chăm chú đối với toán học. Anh tương đối thuần thục với lịch sử và địa lý... Chàng trai này sẽ làm nên một thủy thủ xuất sắc"[14][chú thích 3]. Khi hoàn thành việc học ở Brienne năm 1784, Napoléon được nhận vào trường quân sự danh tiếng École Militaire ở Paris. Điều này đã kết thúc tham vọng hải quân từng khiến ông cân nhắc một đơn xin vào Hải quân Hoàng gia Anh[16]. Ông được đào tạo để trở thành một sĩ quan pháo binh và, khi cái chết của người cha làm giảm thu nhập, đã buộc phải hoàn thành khóa học hai năm trong một năm[17]. Ông là người Corse đầu tiên tốt nghiệp từ École Militaire[17]. Ông được sát hạch bởi nhà khoa học nổi tiếng Pierre-Simon Laplace, người sau này Napoléon bổ nhiệm vào Thượng viện[18].
Khởi đầu sự nghiệp
Khi tốt nghiệp tháng Chín 1785, Bonaparte được phong hàm thiếu úy ở trung đoàn pháo binh La Fère[11][chú thích 4]. Ông từng đóng ở Valence, Drôme và Auxonne cho đến trước khi bùng nổ Cách mạng năm 1789, và nghỉ phép gần hai năm ở Corse và Paris trong giai đoạn này. Là một người theo chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành, ông viết cho lãnh đạo Corse Pasquale Paoli vào tháng 5 1789:"Tôi đã được sinh ra khi dân tộc suy vong. Ba mươi nghìn người Pháp được tung tới bờ biển của chúng ta, nó nhấn chìm ngôi báu của tự do vào những làn sóng máu. Chính cảnh tượng đó là thứ ghê tởm đầu tiên đập vào mắt tôi"[20].Ông trải qua những năm đầu Cách mạng ở Corse, chiến đấu trong một cuộc xung đột phức tạp ba bên giữa những người bảo hoàng, những người cách mạng, và những người dân tộc chủ nghĩa Corse. Ông ủng hộ phái cách mạng Jacobin, nhận hàm trung tá trong đoàn dân quân Corse, và chỉ huy một tiểu đoàn quân tình nguyện. Mặc dù quá thời gian nghỉ phép vắng mặt và lãnh đạo một cuộc bạo động chống lại quân đội Pháp ở Corse, ông vẫn được thăng hàm đại úy trong quân đội chính quy Pháp tháng Bảy 1792[21].
Ông trở lại quê hương và bắt đầu mẫu thuẫn với Paoli, người quyết định chia tách Corse khỏi Pháp và phá hoại một cuộc tấn công của Pháp trên đảo Sardegna, nơi Bonaparte là một trong các viên chỉ huy chính[22]. Bonaparte và gia đình phải bỏ trốn vào đất liền Pháp vào tháng Sáu 1793 bởi sự cắt đứt quan hệ với Paoli[23].
Cuộc vây hãm Toulon

Tướng Bonaparte trong trận Toulon
Ông tiến hành một kế hoạch chiếm một quả đồi nơi các khẩu pháo của quân cộng hòa có thể bao quát cảng thành phố và buộc các chiến thuyền Anh phải rút lui. Cuộc đột kích lên vị trí trên, trong đó Bonaparte bị thương ở đùi, đã dẫn tới việc chiếm được thành phố sau đó, nhờ vậy ông được thăng hàm Chuẩn tướng ở tuổi 24. Ủy ban An ninh Công cộng (chính phủ de facto của Pháp đương thời) chú ý đến Napoléon, ông được cử đảm trách pháo binh của Tập đoàn quân Ý của Pháp[25].
Trong lúc chờ sự xác nhận bổ nhiệm, Napoléon dành thời gian để khảo sát các công sự duyên hải trên bờ biển Địa Trung Hải gần Marseille. Ông thảo ra kế hoạch tấn công Vương quốc Sardegna như một phần của chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất[26]. Tư lệnh Tập đoàn quân Ý, Pierre Jadart Dumerbion, đã chứng kiến quá nhiều viên tướng bị xử tử do không đủ hay do có quan điểm chính trị sai lầm. Do đó, ông chiều theo ý các ủy viên đặc trách của Quốc Ước (représentant en mission) là Augustin Robespierre và Saliceti, những người đến lượt họ sẵn lòng lắng nghe viên tướng pháo binh mới được thăng chức[27].
Thực hiện kế hoạch của Bonaparte trong trận Saorgio tháng Tư 1794, quân đội Pháp tiến lên phía đông bắc tới vùng Riviera thuộc Ý sau đó ngoặt sang phía bắc để chiếm đóng Ormea trong vùng núi. Từ Ormea, họ đột phá phía tây để thọc sườn các vị trí Áo-Sardegna xung quanh Saorge. Kết quả là, các thành thị duyên hải Oneglia và Loano, cũng như con đèo Tenda chiến lược, bị chiếm bởi quân Pháp[28]. Sau đó, Augustin Robespierre gửi Bonaparte tới một nhiệm vụ ở Cộng hòa Genoa để xác định các toan tính của quốc gia này đối với nước Pháp[26].
Ngày 13 tháng Hái Nho

Cuộc tấn công Quốc Ước ngày 13 tháng Vendémiaire, tranh của Abraham Girardet.
Ông được thả trong vòng hai tuần, và do năng lực của mình, được yêu cầu thảo kế hoạch tấn công các vị trí Ý trong bối cảnh cuộc chiến Pháp-Áo. Ông cũng tham gia vào một cuộc viễn chinh nhằm chiếm lại Corse từ tay người Anh, nhưng quân Pháp đã bị đẩy lùi bởi Hải quân Hoàng gia[32].
Tháng Bốn 1795, Bonaparte đính hôn với Désirée Clary, em gái của Julie Clary, người đã cưới anh trai của Bonaparte là Joseph; nhà Clary là một gia đình thương nhân giàu có đến từ Marseilles[33]. Cùng thời gian này, ông được chỉ định tới Tập đoàn quân phía Tây, lúc này đang tham gia Chiến tranh Vendée — một cuộc nội chiến kéo dài do phe bảo hoàng chống cách mạng gây ra ở vùng Vendée phía tây miền trung nước Pháp. Làm một tư lệnh bộ binh, đó là một sự giáng cấp từ tướng pháo binh - mà quân đội đã có đủ hạn ngạch — và ông viện cớ sức khỏe yếu để từ chối nhậm chức[34].
Ông được chuyển tới Văn phòng Trắc địa của Ủy ban An ninh Công cộng và tìm kiếm cơ hội được gửi tới Constantinople để phục vụ cho Sultan nhưng không thành[35]. Trong thời kì này, ông viết một tiểu thuyết lãng mạn ngắn mang tựa đề Clisson et Eugénie kể về một người lính và tình nhân của anh ta, một so sánh rõ ràng mối quan hệ của chính Bonaparte với Désirée[36]. Ngày 15 tháng Chín, Bonaparte bị loại khỏi danh sách các tướng của quân đội chính quy do việc từ chối nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Vendée. Ông đối diện với một tình trạng tài chính khó khăn và thu hẹp những tham vọng về tiền đồ của mình[37].
Mùng 3 tháng Mười, những người bảo hoàng ở Paris tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại Quốc Ước sau khi họ bị loại khỏi chính phủ mới, nội các Đốc chính[38]. Paul Barras, một lãnh đạo của Chính biến Thermidor, biết đến thành tích quân sự của Bonaparte ở Toulon và trao cho ông quyền chỉ huy các lực lượng ứng biến phòng thủ trụ sở Quốc Ước ở Cung điện Tuileries. Chứng kiến vụ thảm sát đội Cận vệ Thụy Sĩ của nhà vua ba năm trước đó, ông nhận ra pháo binh có thể là chìa khóa để kháng cự[11].
Ông lệnh cho một sĩ quan kị binh trẻ, Joachim Murat, chiếm các khẩu đại bác lớn và dùng chúng để đẩy lui các đợt tấn công vào mùng 5 tháng Mười 1795—13 tháng Vendémiaire (Hái Nho) năm IV theo Lịch Cách mạng Pháp. Sau khi 1400 người bảo hoàng chết, số còn lại rút lui[38].
Sự thất bại của cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đã dập tắt mối đe dọa với Quốc Ước và giúp Bonaparte đột nhiên gặt hái được danh vọng, tiền tài cùng với sự bảo trợ của nội các mới. Murat cưới một trong số các em gái và trở thành em rể cũng như tiếp tục phục vụ Napoléon như một vị tướng. Bonaparte được thăng hàm thiếu tướng, đảm nhiệm chức Tư lệnh Nội địa (Commandand de l'armée de l'Intérieur) và sau đó Tập đoàn quân Ý được trao cho ông[23].
Trong vòng vài tuần ông đã gắn bó với nhân tình cũ của Barras, Joséphine de Beauharnais. Họ cưới nhau vào mùng 9 tháng Ba 1796 sau khi ông hủy đính ước với Désirée Clary[39].
Chiến dịch Ý thứ nhất (1796–97)

Bonaparte trên Cầu Arcole, bởi Nam tước Antoine-Jean Gros, (khoảng 1801), Bảo tàng Louvre, Paris.
Bonaparte đã bác bỏ mong muốn của những người vô thần ở Hội đồng Đốc chính là hành quân vào Rome và phế truất Giáo hoàng vì ông cho rằng điều này sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực sẽ bị Vương quốc Napoli lợi dụng. Thay vào đó, tháng Ba 1797, Bonaparte chỉ huy quân đội tiến vào Áo và buộc nước này thương lượng một hòa ước[41]. Hiệp ước Leoben đã cho Pháp quyền cai quản hầu hết Bắc Ý và các miền đất phía dưới châu thổ sông Rhine (Pays-Bas, gồm Bỉ, Hà Lan và một phần lãnh thổ Đức, Pháp hiện nay), trong khi một điều khoản bí mật hứa hẹn Cộng hòa Venezia cho Áo. Bonaparte hành quân tới Venice và buộc nó đầu hàng, kết thúc 1100 năm nền độc lập của thành phố thương mại này; ông cũng lấy cớ cho quân Pháp cướp bóc những báu vật như những bức tượng ngựa bằng đồng ở Giáo đường Saint Mark[42].
Áp dụng những ý tưởng quân sự thông thường vào các tình huống thực tế đã làm nên những vinh quang quân sự của ông, chẳng hạn như việc sử dụng sáng tạo pháo binh như một lực lượng linh hoạt để hỗ trợ cho bộ binh. Ông nói về chiến thuật của mình như sau: "Tôi đã đánh sáu mươi trận và tôi không học được điều gì mà tôi chưa biết vào lúc bắt đầu. Nhìn Caesar xem; ông ta đánh trận đầu giống như trận cuối"[43].
Ông tinh thông trong việc sử dụng gián điệp và mưu trá và có thể thắng trận chiến bằng cách che đậy việc triển khai quân và tập trung quân vào điểm mấu chốt của mặt trận bị suy yếu của đối phương. Nếu ông không thể sử dụng chiến lược bao vây ưa thích của mình (Mouvement en tenaille, chuyển quân sang hai cánh và hợp vây kẻ địch), ông sẽ nắm lấy vị trí trung tâm và tấn công hai lực lượng phối hợp ở điểm mấu chốt của họ, tung quân đánh một cánh cho đến khi nó rút lui, sau đó quay lại đương đầu với cánh kia[44]. Trong chiến dịch Ý này, quân đội của Bonaparte bắt được 150 000 tù binh, 540 khẩu đại bác và 170 cờ hiệu[45]. Quân đội Pháp đã đánh 67 trận và thắng 19 trận chính quy (pitched battles, trong đó hai bên chọn một địa điểm dàn quân trước khi đánh) nhờ kĩ thuật pháo binh áp đảo và các chiến thuật của Bonaparte[46].
Trong khi chiến dịch diễn ra, Bonaparte trở nên ngày càng có ảnh hưởng trong chính trị Pháp; ông thành lập hai tờ báo: một cho quân đội của ông và một phát hành ở Pháp[47]. Những người bảo hoàng đả kích Bonaparte vì cướp phá Ý và cảnh báo rằng ông có thể trở thành một kẻ độc tài[48]. Bonaparte gửi tướng Pierre Augereau tới Paris để lãnh đạo một cuộc đảo chính và thanh lọc những người bảo hoàng vào mùng 4 tháng Chín — sau được gọi là Đảo chính ngày 18 Fructidor. Điều này đem Barras và các đồng minh phe Cộng hòa trở lại nắm quyền nhưng phụ thuộc vào Bonaparte, người bấy giờ đang tiến hành đàm phán hòa ước mới với Áo. Những thương lượng này dẫn tới Hiệp ước Campo Formio, và Bonaparte trở lại Paris tháng Mười hai như một anh hùng[49]. Ông gặp Talleyrand, Bộ trưởng Ngoại giao mới của Pháp - người về sau phục vụ ở cùng cương vị cho đế chế của Napoléon — và họ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh[23].
Viễn chinh tới Ai Cập (1798-1801)

Napoleon tiến vào Alexandria ngày 3 tháng Bảy, 1798, tranh của Guillaume-François Colson, 1800.
Napoleon đảm bảo với Hội đồng Đốc chính rằng "ngay khi ông chinh phục được Ai Cập, ông sẽ thành lập những mối quan hệ với các hoàng thân Ấn Độ, và cùng với họ, tấn công người Anh tại các thuộc địa của họ"[51]. Theo một bản tường trình tháng Hai 1798 bởi Talleyrand: "Khi đã chiếm giữ và củng cố Ai Cập, chúng ta sẽ gửi một lực lượng 15000 người từ Suez tới Ấn Độ, kết hợp với Tipu-Sahib và đánh đuổi người Anh"[51]. Hội đồng đồng ý với kế hoạch để bảo đảm tuyến giao thương tới Ấn Độ[52].

Bức Bonaparte trước Nhân sư (tranh vẽ khoảng. 1868) của Jean-Léon Gérôme, Lâu đài Hearst
Trên đường tới Ai Cập, Bonaparte tới Malta vào ngày 9 tháng Sáu 1798, khi đó dưới quyền kiểm soát của dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Hai trăm hiệp sĩ gốc Pháp không ủng hộ vị Đại trưởng lão, Ferdinand von Hompesch zu Bolheim, và bày tỏ rằng họ sẽ không chiến đấu chống lại đồng bào. Hompesch đầu hàng sau một sự kháng cự yếu ớt, và Bonaparte chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng với tổn thất chỉ ba binh sĩ[54].
Tướng Bonaparte cùng đoàn quân của ông đã phải né tránh cuộc truy đuổi của Hải quân Hoàng gia và cập cảng ngày 1 tháng Bảy ở Alexandria[23]. Ông đánh trận Shubra Khit chống lại Mamluk, giới quân sự thống trị Ai Cập bấy giờ. Điều này giúp những người Pháp thực hành chiến thuật phòng thủ cho trận Kim Tự Tháp diễn ra ngày 21 tháng Bảy, cách các kim tự tháp 24 km. Lực lượng của Bonaparte vào khoảng 25000, xấp xỉ bằng quân số kỵ binh Mamluk, nhưng ông đã lập những khối quân hình vuông rỗng với quân nhu được giữ an toàn bên trong. Kết quả, chỉ có 29 người Pháp chết[55], so với xấp xỉ 2000 người Ai Cập. Chiến thắng này đã củng cố tinh thần cho quân đội Pháp[56].

Bức Trận Kim tự tháp ngày 21 tháng Bảy 1798 bởi Louis-François, Baron Lejeune, 1808
Với đội quân bị suy yếu bởi bệnh dịch — chủ yếu là dịch hạch — và nguồn quân nhu nghèo nàn, Bonaparte không thể hạ các pháo đài ở Acre và trở lại Ai Cập vào tháng Năm[57]. Để tăng tốc cuộc hành quân, ông ra lệnh bỏ lại những người lính ốm yếu vì dịch hạch và bắt họ uống thuốc độc[61]. (Tuy nhiên, những người Anh sau này chứng kiến đã ghi chép lại rằng hầu hết những người này sống sót và không bị đầu độc). Những người ủng hộ ông lập luận rằng điều này là cần thiết để đối phó với các trận tập hậu của quân Ottoman, và thực tế những người bỏ lại còn sống thường bị tra tấn và chặt đầu bởi kẻ địch. Trở lại Ai Cập, vào ngày 25 tháng Bảy, Bonaparte đánh bại cuộc tấn công đổ bộ của Ottoman trong trận Abukir[62].
Nhà cai trị nước Pháp

Tướng Bonaparte bị bao vây bởi các thành viên của Hội đồng Năm trăm trong cuộc đảo chính 18 tháng Sương mù, tranh của François Bouchot.
Hội đồng Đốc chính đã gửi ông những mệnh lệnh quay về để ngăn ngừa những cuộc xâm lược vào đất Pháp, nhưng đường dây liên lạc nghèo nàn khiến cho các thông điệp không đến được với ông[63]. Vào lúc ông tới được Paris vào tháng Mười, tình hình nước Pháp đã được cải thiện bởi một chuỗi những thắng lợi. Tuy nhiên nền Cộng hòa đã phá sản, và Hội đồng bất lực không được lòng dân Pháp[65]. Hội đồng đã thảo luận về việc "đào ngũ" của Bonaparte nhưng quá yếu ớt để trừng phạt ông[63].
Bonaparte được một trong các viên Đốc chính, Emmanuel Joseph Sieyès, tiếp cận để hỗ trợ cho một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ hợp hiến. Những người đứng đầu kịch bản này bao gồm người em trai ông là Lucien; phát ngôn viên của Hội đồng Năm trăm (tức Hạ nghị viện), Roger Ducos; một viên Đốc chính khác, Joseph Fouché; và Talleyrand. Vào ngày 9 tháng Mười một — hay 18 tháng Brumaire (Sương mù) theo lịch Cộng hòa Pháp - Bonaparte được trao nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho hai viện lập pháp, những người bị thuyết phục rời về Lâu đài Saint-Cloud ở phía Tây Paris, sau một tin đồn về một cuộc nổi loạn của phe Jacobin được lan truyền bởi những người âm mưu[66]. Ngày hôm sau, các nghị sĩ nhận ra họ đang đối mặt với một cuộc đảo chính. Trước sự phản kháng của họ, Bonaparte chỉ huy quân đội nắm quyền và giải tán họ, kế đó một nghị viện thu nhỏ (rump legislature) chỉ định Bonaparte, Sieyès, và Ducos làm các Tổng tài lâm thời quản lí chính quyền[57].
Chế độ Tổng tài Pháp

Napoleon vượt dãy Alps trên lưng chiến mã Marengo (1800), bởi Jacques-Louis David.
Năm 1800, Bonaparte và quân đội của ông vượt dãy Alps tới Ý, nơi quân đội Pháp đã hầu như bị đánh bật hoàn toàn bởi quân Áo trong lúc ông đang ở Ai Cập. Chiến dịch khởi đầu tệ hại cho người Pháp khi Bonarpate có những sai lầm chiến lược; một lực lượng đã bị vây hãm ở Genoa nhưng cuối cùng phá được vây và do đó chiếm được tài nguyên của quân Áo[68]. Nỗ lực này, và sự tăng viện kịp thời của tướng Louis Desaix, đã cho phép Bonaparte quay lại với chuỗi thắng lợi vào tháng Sáu trong trận Marengo có tính quyết định[69].
Anh trai Joseph của Bonaparte tiến hành thương lượng hòa bình ở Lunéville và thông báo rằng Áo, được khuyến khích bởi người Anh, sẽ không công nhận những lãnh thổ Pháp vừa mới chiếm được. Khi cuộc thương lượng trở nên ngày càng căng thẳng, Bonaparte trao quyền cho tướng Moreau tấn công đất Áo thêm một lần nữa. Moreau đã lãnh đạo quân Pháp tới chiến thắng trong trận Hohenlinden. Kết quả là, Hiệp ước Lunéville được kí vào tháng hai 1801; những chiến quả của Pháp từ Hiệp ước Campo Formio được tái xác nhận và tăng cường[69].
Nền hòa bình tạm thời cho châu Âu

Bonaparte, Tổng tài thứ nhất, bởi Jean Auguste Dominique Ingres.
Bonaparte cũng đứng trước sự thất thế và cuối cùng là thảm bại trong đàn áp Cách mạng Haiti. Bằng Luật 20 tháng Năm 1802 ông tái thiết lập chế độ nô lệ trong các vùng thuộc địa Pháp vốn đã bị bãi trừ sau Cách mạng[71]. Đáp trả một cuộc nổi dậy của nô lệ, ông gửi một đạo quân viễn chinh để tái chiếm Saint-Dominique và thiết lập một căn cứ. Tuy nhiên lực lượng này bị hủy diêt bởi dịch sốt vàng và sức kháng cự mãnh liệt bởi những viên tướng Haiti Toussaint Louverture và Jean-Jacques Dessalines[chú thích 6]. Nước Pháp đứng trước tình trạng phá sản tài chính và một cuộc chiến tranh cận kề với người Anh, Bonaparte nhận thấy những sở hữu của Pháp ở đất liền thuộc Bắc Mĩ là không thể bảo vệ được và bán chúng cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ - Vụ mua bán Louisiana - với giá hơn ba cent mỗi mẫu Anh (acre) (tức khoảng 7,4 cent mỗi hecta)[73].
Đế chế Pháp

Hoàng đế Napoléon I cùng Hoàng hậu Josephine đăng quang, tranh bởi Jacques-Louis David,năm 1804.
Tại Nhà thờ Milan vào ngày 26 tháng Năm 1805, Napoléon đăng quang ngôi Vua của Ý với Vương miện Sắt của Lombardy. Ông lập nên cấp Thống chế của Đế chế từ những vị tướng hàng đầu của mình, để đảm bảo lòng trung thành của quân đội.
Chiến tranh liên minh thứ ba

Napoleon trong trận Austerlitz, bởi François Gérard năm 1805. Trận Austerlitz, cũng được biết với tên trận Ba Hoàng đế, được xem là chiến thắng vĩ đại nhất của Napoleon, nơi Đế quốc Pháp đã đánh tan thành công Liên minh thứ ba.
Theo đó, Hải quân Pháp sẽ thoát khỏi sự bao vây của quân anh ở Toulon và Brest rồi đe dọa tấn công Tây Ấn, do đó sẽ loại bỏ được sự phòng thủ phía Tây quần đảo Anh, với hi vọng một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha có thể đoạt được eo biển đủ lâu để quân đội Pháp băng qua từ Boulogne và xâm lược nước Anh[78]. Tuy nhiên, sau thất bại trong trận hải chiến ở Cape Finisterre vào tháng Bảy 1805 và cuộc rút lui của Đô đốc Villeneuve về Cadiz, xâm lược đất Anh không bao giờ còn là một lựa chọn hiện thực đối với Napoléon nữa[79].
Khi quân đội Áo được triển khai tới Bavaria, ông ngừng triển khai xâm lược Anh và ra lệnh cho đạo quân đóng ở Boulogne, Grande Armée của ông, hành quân bí mật trong một cuộc di chuyển thọc sâu vào hậu phương địch — chiến dịch Ulm. Điều này bao vây lực lượng Áo sắp sửa tấn công Pháp và cắt đứt các đường liên lạc của họ. Ngày 20 tháng Mười 1805, quân Pháp bắt được 30 000 tù binh trong trận Ulm, tuy nhiên ngày hôm sau chiến thắng của người Anh ở Trafalgar đồng nghĩa với việc Hải quân Hoàng gia hoàn toàn chiếm lĩnh các vùng biển[80].
Sáu tuần sau, trong lần kỉ niệm một năm ngày đăng quang, Napoléon đã đánh bại liên quân Áo-Nga trong trận Austerlitz nổi tiếng với tổn thất của phe Liên minh vào khoảng 27 000 người, gấp 3 lần quân Pháp[81]. Trận này đã bẻ gãy Liên minh thứ ba, khiến cho Aleksandr I phải than thở: "Chúng ta là những em bé trong bàn tay của một gã khổng lồ" [82]. Napoléon trở về Paris nhận sự hưởng ứng nhiệt liệt, cho khánh thành Khải Hoàn Môn để tưởng niệm chiến thắng. Áo phải chịu nhường một phần lãnh thổ; Hòa ước Pressburg dẫn tới sự giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh và lập nên Liên bang sông Rhine với Napoléon giữ vị trí Bảo hộ Công[80].
Napoleon sau này nhắc lại "trận Austerlitz là trận đánh đẹp nhất trong mọi trận đánh tôi từng thực hiện"[83]. Frank McLynn cho rằng Napoléon đã quá thành công ở Austerlitz tới mức ông mất sự liên hệ với thực tiễn, và thứ từng là chính sách ngoại giao Pháp trở thành "một thứ của riêng Napoleon"[84]. Vincent Cronin không tán thành, cho rằng Napoléon không tự mãn quá mức về bản thân, mà "ông là hiện thân cho lòng tự mãn của ba mươi triệu người Pháp"[85].
Các mối đồng minh Trung Đông

Công sứ Ba Tư Mirza Mohammed Reza-Qazvini gặp Napoléon I tại Dinh Finckenstein, 27 tháng Tư 1807, bởi François Mulard.
Napoleon gửi tướng Horace Sebastiani sang làm đặc sứ, hứa hẹn sẽ giúp đỡ Đế quốc Ottoman khôi phục những lãnh thổ đã mất[86]. Tháng Hai năm 1806, sau chiến thắng của Napoléon ở Austerlitz và sự chia cắt sau đó của Đế quốc Habsburg, Hoàng đế Ottoman Selim III cuối cùng thừa nhận ngôi Hoàng đế của Napoleon, chính thức chọn liên minh với Pháp như "người đồng minh thân thiết và tự nhiên của chúng ta", đồng thời tuyên chiến với Nga và Anh[87].
Một liên minh Pháp-Ba Tư cũng được hình thành, trong thời gian từ 1807 tới 1809, giữa Đế quốc Ba Tư của Fat′h-Ali Shah Qajar chống Nga và Anh. Liên minh này chấm dứt khi Pháp bắt tay với Nga và chuyển trọng tâm sang các chiến dịch châu Âu[50].
Chiến tranh với Liên minh thứ tư
Sau một thắng lại quyết định tại trận Friedland, ông kí các Hiệp ước Tilsit bao gồm một văn bản với Nga hoàng Aleksandr I phân chia lục địa giữa hai cường quốc này; một văn bản khác với Phổ tước một nửa lãnh thổ nước này. Napoléon đặt các nhà cai trị lên ngai vàng các bang nước Đức, bao gồm người em Jérôme làm vua của Vương quốc Westfalen mới lập. Trong vùng Ba Lan mà Pháp kiểm soát, ông lập nên Công quốc Warszawa dưới quyền Vua Friedrich August I của Sachsen[90].
Với các chiếu chỉ Milan và chiếu chỉ Berlin, Napoléon nỗ lực tăng cường một sự tẩy chay thương mại khắp châu Âu đối với Anh mang tên Hệ thống Lục địa. Đạo luật chiến tranh kinh tế này không thành công, bởi nó khuyến khích các thương gia Anh buôn lậu vào châu Âu lục địa, và nhân viên cưỡng bách thuế quan độc quyền của Napoléon không thể ngăn họ lại[91].
Chiến tranh Bán đảo

Ngày thứ 2 tháng 5 năm 1808, quân Mamluk xung kích, một bức họa của Francisco Goya
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Iberia tốn kém và thường đẫm máu vẫn tiếp tục khi Napoléon vắng mặt. Trong cuộc vây hãm Zaragoza lần thứ hai, gần như toàn bộ thành phố bị phá hủy và hơn 5 vạn người bỏ mạng[95]. Mặc dù Napoléon để 30 vạn quân tinh nhuệ ở lại Tây Ban Nha để chống lại quân du kích cũng như liên quân Anh-Bồ Đao Nha dưới sự chỉ huy của Công tước Wellington, nhưng sự kiểm soát của Pháp ngày một suy yếu[96].
Sau khi phía đồng minh giành thắng lợi, cuộc chiến kết thúc sau khi Napoléon thoái vị vào năm 1814[97]. Napoléon mô tả cuộc chiến tranh Bán đảo là trung tâm của sự thất bại chung cuộc của mình. Ông đã viết trong hồi ký: "Cuộc chiến tranh bất hạnh đó đã hủy diệt tôi...Tất cả...những tai họa của tôi bị buộc chặt với nút thắt định mệnh đó"[98].
Chiến tranh Liên minh thứ năm và tái hôn
Vương quốc Anh vẫn chống Pháp và có vài trận thắng trên biển[101]. Trên lục địa châu Âu, Anh chỉ hỗ trợ cuộc chiến trên bán đảo Iberia và gửi một đoàn quân viễn chinh gồm 40.000 người tới Walcheren (vùng Zeeland, Hà Lan) từ 30 tháng 7 tới 10 tháng 12 năm 1809 để tấn công căn cứ hải quân Antwerpen của Pháp và để chia cắt lực lượng Pháp nhằm giúp Áo nhưng cuối cùng phải rút lui khi Napoléon đem quân tăng viện[102].
Ông đồng thời sáp nhập lãnh thổ của Giáo hoàng bởi Giáo hội từ chối ủng hộ Hệ thống Lục địa; Giáo hoàng Piô VII đáp trả bằng cách rút phép thông công vị hoàng đế Pháp. Sau đó một số sĩ quan của Napoléon bắt cóc Giáo hoàng, Napoléon tuy không ra lệnh trên nhưng khi biết sự việc cũng không cho thả Piô. Giáo hoàng bị chuyển đi khắp các lãnh thổ của Napoléon và Napoléon đã gửi các phái đoàn tới gây áp lực buộc ông trên các vấn đề bao gồm thỏa thuận về một giáo ước mới với nước Pháp, điều Piô từ chối. Năm 1810 Napoléon kết hôn với nữ Đại công tước Marie Louise của Áo, sau khi ông ly dị với Joséphine; điều này gây thêm căng thẳng với Giáo hội, và mười ba Hồng y đã bị tống giam do vắng mặt tại lễ cưới[103]. Giáo hoàng tiếp tục bị giam cầm trong 5 năm và không trở về Rome cho đến tháng Năm 1814[104].

Đệ nhất Đế chế Pháp có quy mô rộng nhất vào năm 1811
Đế quốc Pháp
Các quốc gia vệ tinh của Pháp
Các quốc gia đồng minh
Xâm lược nước Nga
Tới 1812, các cố vấn của Aleksandr đề xuất khả năng tiến hành xâm lược Đế quốc Pháp và tái chiếm Ba Lan. Nhận được báo cáo tình báo về những sự chuẩn bị chiến tranh của Nga, Napoléon tăng cường mở rộng đạo quân Grande Armée của mình lên hơn 450 000 lính[108]. Ông phớt lờ lời khuyên lặp lại chống một cuộc xâm lược vào trung tâm nước Nga và chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công; và ngày 23 tháng Sáu 1812 cuộc chinh phạt bắt đầu[109].
Trong một nỗ lực nhằm thu được sự hỗ trợ hơn nữa từ những người yêu nước dân tộc chủ nghĩa Ba Lan, Napoléon gọi cuộc chiến là Chiến tranh Ba Lan lần thứ hai - Chiến tranh Ba Lan lần thứ nhất là cuộc nổi dậy Liên bang Bar của quý tộc Ba Lan chống lại Nga năm 1768. Những người yêu nước Ba Lan muốn khu vực Ba Lan thuộc Nga sáp nhập vào Công quốc Warszawa và một nhà nước Ba Lan độc lập được tạo ra. Điều này bị từ chối bởi Napoléon đã hứa với đồng minh Áo không cho phép như vậy. Napoléon cũng từ chối giải phóng cho nông nô Nga bởi lo ngại điều này có thể tạo nên những chống đối trong miền hậu phương của quân đội ông. Những nông nô này về sau đã đối xử khốc hại đối với lính Pháp khi họ rút chạy[110].

Napoleon rút khỏi Nga, tranh của Adolph Northen.
Người Nga bấy giờ mới tung ra những trận đánh ở ngoại vi Moskva ngày 7 tháng Chín: trận Borodino khiến cho 44 000 quân Nga và 35 000 quân Pháp tử vong, bị thương hoặc bị bắt, và có lẽ là ngày chiến sự đẫm máu nhất trong lịch sử từ trước tới thời điểm đó[112]. Mặc dù quân Pháp thắng, quân đội Nga đã đương đầu, và đứng vững, trong trận chiến trực diện mà Napoléon đã hi vọng sẽ mang tính quyết định. Napoléon đã ghi chép lại: "Trận khủng khiếp nhất trong mọi trận đánh của tôi là trận trước Moskva. Người Pháp đã chứng tỏ họ xứng đáng với chiến thắng, nhưng người Nga đã chứng tỏ họ bất khả chiến bại"[113].
Quân đội Nga rút xa khỏi Moskva. Napoléon tiến vào thành phố, giả định rằng sự thất thủ của nó sẽ kết thúc chiến tranh và Aleksandr sẽ đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, dưới lệnh của tổng đốc thành phố Feodor Rostopchin, thay vì một sự đầu hàng, Moskva bị đốt cháy. Sau một tháng, lo lắng mất quyền kiểm soát ở Pháp, Napoléon và quân đội rút lui[114].
Người Pháp chịu tổn thất to lớn trong quá trình rút quân tai hại, mà một phần là do Mùa Đông Nga [chú thích 8]. Quân đội Pháp bắt đầu với hơn 400 000 quân tiền phương, nhưng vào lúc kết thúc chỉ có ít hơn 40 000 người vượt sông Berezina tháng Mười một 1812[115]. Phía Nga mất 150 000 lính trong trận chiến và hàng trăm nghìn người dân khác thiệt mạng[116].
Chiến tranh Liên minh thứ sáu

Adieux de Napoléon à la Garde impériale dans la cour du Cheval-Blanc du château de Fontainebleau (Napoleon từ biệt Cận vệ Đế chế ở sân Bạch Mã của Cung điện Fontainebleau) – ngày 20 tháng Tư 1814. Tranh của Antoine Alphonse Montfort, Bảo tàng quốc gia Cung điện Versailles.
Bất chấp những thắng lợi này, các con số tiếp tục ngày càng chống lại Napoleon, và quân Pháp bị khóa chặt bởi một lực lượng đông gấp đôi và do đó thua trong trận Leipzig. Đây có lẽ là trận chiến lớn nhất trong toàn bộ các cuộc chiến tranh của Napoléon và nó gây cho 90 000 người thương vong[119].
Napoleon rút về Pháp với đội quân giảm xuống còn 70 000 lính và 40 000 người tụt khỏi đội hình, chống lại đội quân Liên minh đông gấp hơn ba lần[120]. Nước Pháp bị bao vây: quân Anh dồn ép từ phía nam, các đạo quân Liên minh khác đang nhắm vào tấn công các bang chư hầu Đức. Napoléon thắng một loạt trận xuất sắc trong Chiến dịch Sáu ngày[chú thích 9], tuy nhiên chúng không đủ ý nghĩa để thay đổi cục diện. Quân Liên minh đã đánh bại Napoléon trong những trận đánh quan trọng tại Laon và Arcis-sur-Aube, và tiến chiếm Paris vào tháng Ba 1814[122].[123]
Khi Napoléon đề xuất hành quân tới thủ đô, các thống chế của ông quyết định gây binh biến[124]. Ngày 4 tháng Tư, đứng đầu bởi Thống chế Ney, họ phản kháng Napoleon. Napoléon khẳng định rằng quân đội sẽ theo ông, và Ney đáp lại rằng quân đội sẽ theo những vị tướng của nó. Napoléon không có lựa chọn nào ngoài thoái vị. Ông quyết định nhường ngôi cho con; tuy nhiên, Liên minh từ chối điều này, và Napoléon buộc phải thoái vị không điều kiện vào ngày 11 tháng Tư.
Lưu đày tới Elba
Các Lực lượng Liên minh đã tuyên bố rằng Hoàng đế Napoléon là trở ngại duy nhất cho sự khôi phục nền hòa bình ở châu Âu, Hoàng đế Napoleon, trung thành với lời thề của mình, nay tuyên bố rằng ông từ bỏ, về phần ông cũng như những người thừa kế của ông, ngai vàng của nước Pháp và Ý, và rằng không sự hy sinh nào, ngay cả mạng sống của mình, mà ông không sẵn lòng làm vì lợi ích của nước Pháp.Trong Hiệp ước Fontainebleau, những người chiến thắng đày ông tới Elba, một hòn đảo 12 000 dân ở Địa Trung Hải, cách bờ biển Toscana 20 km. Họ cho ông quyền cai trị hòn đảo và cho phép ông giữ lại danh hiệu hoàng đế. Napoléon đã định tự tử bằng viên thuốc mà ông mang theo mình kể từ một lần suýt bị người Nga bắt được trong đợt rút lui khỏi Moskva. Tuy nhiên độc tính của nó đã giảm sau vài năm, và Napoléon sống sót. Ông chấp nhận lưu đày, trong khi vợ và con trai tìm sự nương náu ở nước Áo[126]. Trong vài tháng đầu ở Elba ông đã tạo dựng một đội quân và cả một lực lượng hải quân nhỏ trên đảo, phát triển các mỏ sắt, và ra những sắc lệnh liên quan đến phương thức canh tác nông nghiệp hiện đại[127].
Thảo ở Cung điện Fontainebleau, 11 tháng Tư 1814.
—Tuyên ngôn thoái vị của Napoleon[125]
Triều đại Một trăm ngày
Trung đoàn số 5 được gửi tới để ngăn chặn ông và nối lại tuyến đường tới nam Grenoble vào mùng 7 tháng Ba 1815. Napoléon tiếp cận đội quân một mình, xuống ngựa và khi đứng trong tầm đạn, ông hét lên: "Ta ở đây. Giết Hoàng đế của các người đi, nếu các người muốn"[129].
Những người lính đáp lại bằng tiếng hô "Hoàng đế Vạn tuế!" ("Vive L'Empereur!") và hành quân cùng Napoléon tới Paris; Louis XVIII bỏ chạy. Ngày 13 tháng Ba, các cường quốc tại Hội nghị Viên đã tuyên bố Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật, và bốn ngày sau Anh, Nga, Áo và Phổ kết hợp một lần nữa để gửi mỗi nước 15 vạn quân tới chiến trường để chấm dứt nền cai trị của ông[130].
Napoleon đến Paris ngày 20 tháng Ba và cầm quyền trong một thời kì mà ngày nay gọi là Triều đại Một trăm ngày. Đến đầu tháng Sáu lực lượng vũ trang mà ông tập hợp được đạt con số 200 000, và ông quyết định chọn tấn công để đánh bật gọng kìm của quân đội Anh và Phổ. Tập đoàn quân phía Bắc băng qua biên giới tới Vương quốc Liên hiệp Netherlands, nay là Bỉ[131].
Quân đội Napoléon chiến đấu với quân liên minh, chỉ huy bởi Wellington và Gebhard Leberecht von Blücher, trong trận Waterloo ngày 18 tháng Sáu 1815. Quân đội Wellington chịu đựng các đợt tấn công liên tiếp của người Pháp và đẩy lùi họ trên chiến trường trong khi quân Phổ tới tăng viện và phá vỡ sườn phải của đội hình quân Napoleon. Napoléon bị đánh bại bởi ông phải chiến đấu một chọi hai, tấn công một đội quân chiếm được vị trí phòng ngự tuyệt vời trên địa hình ẩm ướt lầy lội.
Sức khỏe của ông ngày hôm đó có thể đã ảnh hưởng tới sự hiện diện và sự hăng hái của ông trên chiến trường, thêm vào sự kiện là cấp dưới có thể đã khiến ông ngã. Một sự kiện khác có ảnh hưởng quan trọng tới kết cục là lực lượng kị binh do tướng Grouchy đã không tiếp ứng kịp thời. Dù vậy, Napoléon đã tiến rất gần tới một chiến thắng chớp nhoáng. Bị áp đảo về số lượng, quân đội Pháp rút khỏi chiến trường trong hỗn loạn, điều cho phép lực lượng Liên minh tiến vào nước Pháp và khôi phục ngai vàng nước Pháp cho Louis XVIII.
Ở ngoài cảng Rochefort, Charente-Maritime, sau khi cân nhắc một cuộc đào thoát sang Hợp chúng quốc, Napoléon chính thức yêu cầu tị nạn chính trị từ đại tá người Anh Frederick Lewis Maitland trên chiến hạm HMS Bellerophon ngày 15 tháng Bảy 1815[132].
Lưu đày ở Saint Helena

Napoleon trên đảo Saint Helena
Napoleon chuyển tới Longwood House vào tháng Mười hai 1815; nó đã rơi vào tình trạng hư nát, ẩm ướt và gió lùa, hại cho sức khỏe. Tờ The Times đã xuất bản những bài báo ám chỉ rằng chính phủ Anh đang cố gắng làm ông chết mau, và ông thường phàn nàn về điều kiện sống trong những bức thư gửi cho tổng đốc và là người canh giữ ông Hudson Lowe[135].
Với sự đỡ đần của một ít người đi theo, Napoléon viết hồi kí và lên án những người giam giữ ông - đặc biệt là Lowe. Sự đối xử của Lowe với Napoléon bị xem là tồi tệ bởi các học giả như Frank MacLynn[136]. Lowe đã gia tăng thêm tình trạng khổ cực của ông bằng những biện pháp bao gồm sự hạn chế việc đi lại của Napoleon, một quy định yêu cầu không món quà nào được gửi cho ông nếu nó đề cập đến danh hiệu hoàng đế của ông, và một văn bản mà những người ủng hộ phải kí đòi hỏi rằng họ sẽ phải ở lại với người tù thời gian không xác định[136]. Năm 1818, The Times tường thuật một tin đồn thất thiệt về sự đào thoát của Napoléon và nói rằng tin tức được chào đón bởi sự thắp nến đồng thời ở nhiều gia đình London[chú thích 10]. Có một sự thông cảm cho ông ở Nghị viện Anh:Nam tước Holland có một diễn văn trước Nghị viện yêu cầu tù nhân phải được đối xử mà không chịu sự tàn nhẫn không cần thiết nào[138]. Napoléon tiếp tục theo dõi thời sự qua tờ The Times và từng hi vọng được thả khi Holland trở thành Thủ tướng. Ông cũng nhận sự giúp đỡ của Nam tước Cochrane, người tham dự vào các cuộc đấu tranh của Chile và Brasil giành độc lập và muốn cứu Napoléon và giúp ông lập nên một đế chế mới ở Nam Mỹ, một viễn cảnh bị sụp đổ bởi cái chết của Napoléon vào năm 1821[139].
Có những âm mưu khác để cứu thoát Napoléon khỏi sự giam cầm bao gồm một âm mưu từ Texas, nơi những người lính lưu đày của Grand Armée muốn một sự phục hưng Đế quốc Napoléon ở Mỹ. Có cả một kế hoạch cứu ông bằng một tàu ngầm sơ khai[140]. Trong thời kì Napoléon bị giam cầm, Nam tước Byron đã viết những vần thơ xem Napoléon như hiện thân của anh hùng lãng mạn, thiên tài bất toàn, cô độc và bị ngược đãi. Tin tức rằng Napoléon khởi sự làm vườn ở Longwood cũng làm dậy lên sự đồng cảm với nhiều gia đình Anh[141].
Qua đời và an táng
Ngay từ cuối năm 1817, đã xuất hiện nhiều dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Bác sĩ riêng của Napoleon, Barry O'Meara, cảnh báo chính quyền về tình trạng sức khỏe suy giảm của người tù mà nguyên nhân chính, theo ông, là sự đối xử khắc nghiệt của viên "cai ngục", Lowe, buộc Napoléon giam thân hàng tháng trời trong nơi cư trú hư nát và ẩm ướt Longwood. O'Meara có một liên lạc thư từ bí mật với một thư kí ở Bộ Hải quân Anh, được biết rằng những lá thư này được đọc bởi lãnh đạo cao cấp: ông hi vọng, bằng cách này, cảnh báo chính phủ, nhưng thực tế không đem lại điều gì.[142] Đã vậy, O' Meara còn bị thuyên chuyển đi nơi khác, thay thế bằng một bác sĩ gốc đảo Corse tên là Francesco Antommarchi.Tháng Hai 1821, sức khỏe Napoléon trở nên suy sụp nhanh chóng, ông phải nằm liệt trên giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu: "Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh và do các kẻ sát nhân được thuê mướn". Ngày 2 tháng Năm hai bác sĩ Anh, những người vừa tới gần đó, chăm sóc cho ông nhưng chỉ có thể kê những liều giảm đau[143]. Ông mất hai ngày sau đó, sau khi trải qua lễ thú tội, xức dầu thánh và ban thánh thể với sự hiện diện của Giám mục Ange Vignali[143]. Những lời cuối cùng của ông là "France, armée, tête d'armée, Joséphine" (Nước Pháp, quân đội, chỉ huy quân đội, Joséphine)[143]. Napoléon đã qua đời lúc 5 giờ 49 phút giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi thể của ông được mặc bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận Marengo.
Trái với di nguyện của ông, tổng đốc người Anh cho rằng ông nên được chôn ở St. Helena, trong Thung lũng Willows. Hudson Lowe khăng khăng đòi câu khắc trên bia mộ phải đề "Napoleon Bonaparte"; những thuộc hạ theo đi đày, Montholon và Bertrand muốn Đế hiệu "Napoleon" phải được viết chỉ bằng tên đầu. Kết quả là tấm bia mộ để trống tên[143].

Mộ Napoléon ở Điện Invalides.
Ngày 15 tháng Mười hai, tang lễ quốc gia được cử hành. Xe tang di chuyển từ Khải Hoàn Môn xuống đại lộ Champs-Élysées, băng qua Quảng trường Concorde tới Les Invalides (Điện Phế binh) và tới mái vòm ở nhà nguyện St Jérôme nơi nó nằm lại cho đến khi ngôi mộ thiết kế bởi Louis Visconti hoàn thành. Năm 1861, thi hài được táng trong một chiếc quách làm từ đá tràng thạch (porphyry) trong hầm mộ dưới mái vòm của Điện Invalides[144].
Nguyên nhân cái chết
Cuộc khám nghiệm tử thi chỉ ra rằng nguyên nhân cái chết là ung thư dạ dày. Tuy nhiên, François Carlo Antommarchi, bác sĩ riêng của Napoléon và là người chỉ đạo cuộc khám nghiệm, đã không kí vào báo cáo chính thức[145]. Cha của Napoléon cũng qua đời vì ung thư dạ dày nhưng điều này dường như không được biết vào thời điểm mổ tử thi[146]. Antommarchi tìm thấy bằng chứng về một vết loét dạ dày, và đây là cách giải thích tiện lợi nhất đối với chính phủ Anh, những người muốn tránh sự chỉ trích về việc chăm sóc vị hoàng đế Pháp[143].
Napoléon sur son lit de mort (Napoleon hấp hối trên giường), bởi Horace Vernet, 1826.
Họ khẳng định rằng kali tactrat, được sử dụng để ngăn dạ dày đào thải các chất này và cơn khát là triệu chứng của đầu độc. Giả thuyết của họ là calomen (thủy nhân clorua HgCl2, xưa kia được dùng làm thuốc nhuận tràng) được áp dụng quá liều cho Napoleon, đã giết ông và để lại những tổn thương mô rộng khắp[147]. Một bài báo năm 2007 đã khẳng định loại arsen tìm thấy trên thân tóc Napoléon là loại vô cơ, độc tính cao nhất, và theo nhà độc dược học Patrick Kintz, điều này ủng hộ kết luật rằng cái chết của ông là một vụ ám sát[148].
Giấy dán tường được dùng ở Longwood chứa nồng độ cao hợp chất arsen được sử để nhuộm màu bởi những nhà sản xuất Anh. Chất kết dính, vốn vô hại ở điều kiện nước Anh, có lẽ đã bị mốc trong khí hậu ẩm hơn nhiều ở St. Helena và nhả ra khí arsin (arsen hidrua, AsH3) độc hại. Lý thuyết này đã được loại trừ do nó không giải thích được số liệu về nồng độ hấp thụ arsen tìm thấy trong các phân tích khác[147].
Dù sao, những nghiên cứu hiện đại tỏ ra nghiêng về chứng cớ giải phẫu ban đầu[148]. Các nhà nghiên cứu năm 2008 đã phân tích các mẫu tóc Napoléon khác nhau từ suốt cuộc đời ông, từ gia đình và những người đương thời. Tất cả các mẫu đều có nồng độ arsen rất cao, xấp xỉ gấp 100 lần con số trung bình. Theo các nhà nghiên cứu này, cơ thể Napoléon đã bị nhiễm độc arsen nặng khi còn là một cậu bé, và nồng độ arsen cao trong tóc không phải do sự đầu độc có chủ ý nào; người ta có thể phơi nhiễm liên tục với arsen từ các loại keo và chất nhuộm trong suốt cuộc đời họ[chú thích 11]
Những cải cách lớn
Napoleon đã tiến hành những cải cách lâu dài, liên quan đến giáo dục bậc cao, một đạo luật thuế, hệ thống đường sá và cống thoát nước, và thiết lập nên Ngân hàng Pháp (Banque de France - ngân hàng trung ương của Pháp). Ông thương lượng Giáo ước 1801 với Giáo hội Công giáo, tìm cách hòa giải với dân chúng hầu hết theo Công giáo với nền cai trị của ông. Nó được ban hành song song với Bộ Điều khoản Cơ bản (Les Articles Organiques), bộ luật chỉnh đốn tín ngưỡng dân chúng ở Pháp. Cùng năm đó, Bonaparte trở thành Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và bổ nhiệm Jean Baptiste Joseph Delambre làm Thư kí Thường trực[53].Tháng Năm 1802, ông lập nên Bắc Đẩu Bội tinh (tiếng Pháp là Légion d'honneur, nghĩa là "Binh đoàn danh dự"), một sự thay thế cho các huân chương hoàng gia và tước hiệu hiệp sĩ cũ, để khuyến khích các thành tích quân sự lẫn dân sự; huân chương này hiện vẫn là phần thưởng danh dự cao nhất ở Pháp ngày nay[150]. Quyền lực ông được tăng cường nhờ Hiến pháp Năm X do ông chỉ đạo biên soạn: "Điều 1. Nhân dân Pháp chỉ đinh, và Thượng viện tấn phong Napoleon-Bonaparte là Tổng tài Thứ nhất suốt đời[151]. Chính sau văn bản này mà ông thường được gọi là Napoléon thay vì Bonaparte[19].
Bộ luật dân sự của Napoleon, Code Civil — nay thường được biết dưới tên Bộ luật Napoleon — được chuẩn bị bởi hai viện lập pháp dưới sự giám sát của Jean Jacques Régis de Cambacérès, vị Tổng tài thứ hai. Napoléon tham gia tích cực vào các phiên họp của Hội đồng Nhà nước để sửa chữa bản thảo. Sự phát triển bộ luật là một thay đổi căn bản về bản chất của hệ thống luật dân sự với sự nhấn mạnh rõ ràng lên các luật phải được viết rõ ràng và có thể tiếp cận được. Các bộ luật khác do Napoléon ấn định nhằm hệ thống hóa luật thương mại và luật hình sự; một Hướng dẫn Luật Hình sự thiết lập lần đầu tiên một cách quy củ các quy trình tố tụng[152].
Trong số các cải cách của Napoleon, đáng kể nhất là luật pháp và hệ thống đo lường. Về ý nghĩa các cải cách của Napoleon, xem phần Di sản.
Bộ luật Napoléon
Đánh giá tầm ảnh hưởng của nó tới Đức, Dieter Langewiesche mô tả bộ luật như một "dự án cách mạng" khuyến khích sự phát triển của một xã hội tư sản ở miền Đức bằng việc mở rộng quyền đối với tài sản tư hữu và một sự đẩy nhanh kết thúc của chế độ phong kiến. Napoléon đã tái cấu trúc thứ từng là Đế quốc La Mã Thần thánh, tạo nên từ hơn một nghìn lãnh địa lớn nhỏ, thành một Liên bang sông Rhine gồm bốn mươi bang; điều này cung cấp cơ sở cho Liên bang Đức và sự thống nhất nước Đức năm 1871[155].
Phong trào hướng tới thống nhất dân tộc ở Ý cũng được thúc đẩy một cách tương tự bởi sự cầm quyền của Napoleon[156]. Những sự thay đổi này góp phần vào sự phát triển nói chung của chủ nghĩa dân tộc và quốc gia dân tộc[157].
Hệ thống đo lường
Napoleon và tôn giáo
Lễ rửa tội của Napoléon diễn ra ở Ajaccio ngày 21 tháng Bảy 1771; ông được nuôi dưỡng trong một gia đình ngoan đạo và nhận một nền giáo dục Công giáo. Tuy nhiên, các thầy giáo của ông đã thất bại trong việc đem lại niềm tin tôn giáo cho ông khi còn nhỏ[162]. Khi trưởng thành, Napoléon được miêu tả như một người "hữu thần với niềm tin và sự tôn kính không tự nguyện với Công giáo"[163]. Ông chưa bao giờ tin vào một vị Chúa hiện hữu; thượng đế với ông là một vị Chúa vắng mặt và xa xôi[162] nhưng ông thừa nhận một cách thực dụng rằng những tôn giáo có tổ chức là yếu tố then chốt của trật tự xã hội[162] và đặc biệt là Giáo hội Công giáo Rôma, mà theo ông, có "những nghi lễ tráng lệ và luân lí cao cả hơn là các đạo luật có ảnh hưởng lên trí tưởng tượng của dân chúng tốt hơn những tôn giáo khác"[162].Napoleon có một hôn lễ dân sự với Joséphine de Beauharnais mà không cử hành nghi lễ tôn giáo nào, vào ngày 9 tháng Ba 1796. Trong chiến dịch Ai Cập, ông thể hiện nhiều sự khoan dung đối với tôn giáo hơn so với bất kì một vị tướng cách mạng nào khác, và thảo luận với các học giả Hồi giáo và cho phép các buổi lễ tôn giáo, nhưng tướng Dupuy, người tham gia chiến dịch cùng ông, về sau tiết lộ sau cái chết của Giáo hoàng Piô VI, về những lí do chính trị cho cách đối xử như vậy: "Chúng ta đang lừa gạt những người Ai Cập với mối quan tâm giả vờ của chúng ta đối với tôn giáo của họ; chẳng phải Bonaparte lẫn chúng ta tin vào tôn giáo này hơn chúng ta đã từng tin vào tôn giáo của ngài Piô quá cố"[chú thích 12]. Trong hồi kí của mình, thư kí của Bonaparte là Bourienne viết về mối quan tâm tôn giáo của Bonaparte theo những lời lẽ tương tự[165].
Chủ nghĩa cơ hội về tôn giáo của ông được tóm tắt trong câu nói nổi tiếng của chính ông: "Chính bằng việc làm cho mình thành người Cơ đốc giáo ta đã đem hòa bình cho Bretagne và Vendée. Chính bằng việc làm cho mình thành người Ý ta đã chinh phục tinh thần ở Ý. Chính bằng việc làm cho mình thành một người Hồi giáo ta đã thiết lập quyền lực ở Ai Cập. nếu ta cai trị một quốc gia Do Thái, ta hẳn nên cho xây lại Đền Solomon"[166].
Napoleon đã tự đội vương miện cho mình làm Hoàng đế Napoléon I vào này 2 tháng Mười hai 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris với sự ban phúc của Giáo hoàng Piô VII. Ngày 1 tháng Tư 1810, Napoléon kết hôn theo giáo lễ với công chúa nước Áo Marie Louise. Trong một cuộc thảo luận riêng tư với tướng Gourgaud khi đang lưu đầy ở St. Helena, Napoléon bộc lộ các quan điểm duy vật về nguồn gốc con người[chú thích 13] và nghi ngờ tính thần thánh của Jesus, khẳng định rằng thật là ngu xuẩn để tin rằng Socrates, Plato, Muhammad và Anh giáo cần bị nguyền rủa vì không thuộc Giáo hội Công giáo Rôma[chú thích 14]. Tuy nhiên, Napoléon vẫn nhận xức dầu bởi một linh mục khi sắp từ trần[169].
Giáo ước
-
Xem thêm tại [[Giáo ước năm 1801]]

Lãnh đạo Giáo hội Công giáo nhận lời thề thế tục theo yêu cầu của Giáo ước.
Trong Cách mạng Pháp, Quốc hội Pháp đã đoạt lấy các tài sản của Giáo hội và ban bố Luật Tổ chức dân sự của Tăng lữ, biến Giáo hội thành một bộ phận của Nhà nước, tách nó khỏi quyền lực của Giáo hoàng. Điều này gây nên sự thù địch của những người vùng Vendée đối với sự thay đổi trong mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và chính phủ Pháp. Các đạo luật sau đó hủy bỏ lịch Gregory truyền thống và các ngày lễ Công giáo.
Trong khi Giáo ước phục hồi một số liên hệ với Giáo hoàng, nó chủ yếu có lợi cho chính quyền; cán cân mối quan hệ nhà nước-nhà thờ nghiêng hẳn theo hướng có lợi cho Napoleon. Giờ đây, Napoléon có thể thu được lợi ích của giới Công giáo trong nước Pháp đồng thời kiểm soát Rome về mặt chính trị. Napoléon từng nói với người em Lucien vào tháng Tư 1801, "Những nhà chinh phục khéo léo không bị vướng víu bởi những thầy tu. Họ có thể vừa kiềm chế chúng vừa sử dụng chúng[170]". Như một phần của Giáo ước, ông giới thiệu một bộ luật song song mang tên Những Điều khoản Cơ bản.
Giải phóng tôn giáo
-
Xem thêm tại [[Napoleon và người Do Thái]]
Ông từng tuyên bố: "Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một đề xuất nào bắt buộc dân tộc Do Thái phải rời Pháp, bởi đối với tôi người Do Thái giống như bất kì công dân nào khác trên đất nước chúng ta. Đẩy người Do Thái khỏi đất nước sẽ làm suy yếu, nhưng đồng hóa họ sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho đất nước[172]". Ông được người Do Thái mến mộ tới mức Giáo hội Chính thống Nga kết tội ông là "kẻ chống lại Jesus và kẻ thù của Chúa Trời"[173].
Hình ảnh trong văn hóa
Trong thời kì Chiến tranh Napoléon ông bị báo chí Anh quốc xem như một bạo chúa nguy hiểm, rình rập xâm lược. Một khúc hát cho trẻ em cảnh báo trẻ nhỏ rằng Bonaparte ăn ngấu nghiến những đứa trẻ hư; một "ông ba bị"[176]. Báo chí phái Bảo thủ Anh đôi khi mô tả Napoléon lùn hơn nhiều chiều cao trung bình của con người, và hình ảnh này kéo dài dai dẳng. Sự ngộ nhận về chiều cao của ông cũng là kết quả của sự khác biệt giữa các đơn vị đo là pouce của Pháp (2.71 cm) và inch của Anh (2.54 cm); ông cao khoảng 1.7 mét, chiều cao trung bình thời bấy giờ[chú thích 15]. Napoléon thường được bao quanh bởi các cận vệ cao lớn và biệt hiệu le petit caporal (hạ sĩ bé) là một tiếng thân mật thể hiện sự thân thiết được ghi nhận giữa ông với những người lính hơn là chiều cao của ông[178].
Năm 1908, nhà phân tâm học Alfred Adler lấy Napoléon để mô tả một phức cảm thấp kém (inferiority complex) trong đó những người lùn có cư xử hiếu chiến để bù đắp cho sự thiếu chiều cao; điều này gợi cảm hứng cho thuật ngữ Phức cảm Napoleon[179]. Nhân vật hình mẫu về Napoléon là một "bạo chúa bé nhỏ" lùn một cách tức cười và điều này đã trở thành một sáo ngữ (cliché) trong văn hóa đại chúng. Ông thường được minh họa mang một mũ nồi rộng với cử chỉ tay đưa lên áo gi-lê — liên hệ với bức tranh năm 1812 của Jacques-Louis David[180].
Di sản
Quân sự

Tượng Napoléon Bonaparte ở Cherbourg-Octeville
khánh thành bởi Napoléon III năm 1858. Napoléon I từng tăng cường khả
năng phòng thủ của thành phố này để ngăn cản sự xâm nhập của hải quân
Anh.
Quân đoàn thay thế sư đoàn làm đơn vị quân đội lớn nhất, và pháo tự hành được tích hợp vào các khẩu đội dự bị, hệ thống nhân sự trở nên linh hoạt hơn và kỵ binh trở lại làm một đội hình quan trọng trong lý thuyết quân sự Pháp. Các phương pháp này ngày nay được xem là các đặc điểm chủ yếu của học thuyết quân sự Napoleon[181]. Mặc dù ông đã củng cố việc thực hành chế độ tòng quân cưỡng bức hiện đại được đưa ra bởi Hội đồng Đốc chính, một trong các chiếu chỉ đầu tiên của nhà Bourbon phục hưng là chấm dứt nó[182].
Các đối thủ của Napoléon học tập từ các cách tân của ông. Tầm quan trọng được tăng cường của hỏa lực pháo sau 1807 bắt nguồn từ việc ông tạo lên một lực lượng pháo có tính cơ động cao, tăng cường số lượng pháo và thay đổi trong cách vận dụng chúng. Kết quả của những yếu tố này là Napoleon, thay vì dựa vào bộ binh làm xói mòn sức phòng thủ của kẻ địch, giờ có thể sử dụng hỏa lực tập trung như một mũi nhọn để khoét một lỗ thủng trong phòng tuyến của kẻ địch và sau đó khai thác lỗ thủng đó bằng bộ binh và kỵ binh hỗ trợ. McConachy bác bỏ lập luận cho rằng sự phụ thuộc tăng lên vào pháo binh bởi quân đội Pháp bắt đầu từ 1807 là một sản phẩm tự nhiên của chất lượng suy giảm của bộ binh Pháp và sau này là sự yếu thế của Pháp về số lượng kỵ binh[183]. Vũ khí và các loại kĩ thuật quân sự khác nhìn chung không đổi trong kỷ nguyên Cách mạng và thời Napoleon, nhưng sự vận động tác chiến của thế kỉ 18 đã chứng kiến những thay đổi đáng kể[184]. Ảnh hưởng lớn nhất của Napoléon là trong cách ông chỉ đạo chiến tranh. Antoine-Henri Jomini đã giải thích các phương pháp của Napoléon trong một cuốn sách giáo khoa được sử dụng rộng rãi đã ảnh hướng tới tất cả các quân đội châu Âu và Mỹ[185]. Napoléon được nhà lí thuyết quân sự đầy ảnh hưởng Carl von Clausewitz xem như một thiên tài trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh, và các nhà sử học xếp ông vào một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất[186]. Wellington, khi được hỏi được hỏi ai là vị tướng vĩ đại nhất thời đó, đã trả lời: "Trong thời đại này, trong những thời đại đã qua, [cũng như] trong bất kỳ thời đại nào, [đó là] Napoleon"[187].
Dưới thời Napoleon, đã xuất hiện một sự nhấn mạnh mới vào sự hủy diệt, chứ không phải ưu thế chiến thuật, đối với kẻ thù. Các cuộc xâm lược và lãnh thổ địch xảy ra trên những mặt trận rộng lớn hơn, thứ làm cho các cuộc chiến tranh hao tiền tốn của hơn và có tính dứt điểm hơn. Hệ quả chính trị của chiến tranh tăng lên rõ rệt; sự thất trận đối với một cường quốc châu Âu đáng kể hơn nhiều việc mất các nước vùng đệm cô lập. Những nền hòa bình tựa Hòa bình Carthage (nền hòa bình khắc nghiệt với phe bại trận) bện chặt với toàn thể các nỗ lực dân tộc, làm khuếch trương hiện tượng Cách mạng của chiến tranh tổng lực[188].
Chủ nghĩa Bonaparte
Chỉ trích

"EXIT LIBERTÉ a la FRANCOIS ! or BUONAPARTE closing the Farce of Egalité, at St. Cloud near Paris Nov. 10th. 1799", tranh châm biếm ở Anh về cuộc đảo chính 18 tháng Sương mù, bởi James Gillray.
Những người chỉ trích ông cáo buộc rằng ông không hề băn khoăn lắm khi đối mặt với viễn cảnh chiến tranh và cái chết của hàng ngàn người, biến việc tìm kiếm một nền thống trị đồng thuận sang một chuỗi những xung đột trên khắp châu Âu và phớt lờ các hòa ước và hiệp định. Vai trò của ông trong Cách mạng Haiti và quyết định phục hồi chế độ nô lệ ở các thuộc địa hải ngoại của Pháp gây nên tranh cãi và làm ảnh hưởng tới hình ảnh của ông[192].
Napoléon đã thể chế hóa sự cướp bóc ở các lãnh thổ chinh phục được: các bảo tàng Pháp chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật vơ vét bởi quân đội của ông trên khắp châu Âu. Các vật tạo tác được đem tới Bảo tàng Louvre để tạo nên một bảo tàng trung ương vĩ đại; ví dụ của ông về sau thành nguồn cảm hứng cho những kẻ bắt chước khét tiếng hơn[193]. Ông bị đem so sánh với Adolf Hitler, nổi tiếng nhất bởi nhà sử học Pieter Grey năm 1947[194]. Tuy nhiên David G. Chandler, chuyên gia về lịch sử Napoléon chỉ trích so sánh trên: "Không gì có thể hạ cấp người trước [Napoléon] và làm tăng giá trị cho kẻ sau [Hitler] hơn" [195].
Những người chỉ trích cũng lập luận rằng di sản thực sự của Napoléon phải phản ánh sự mất mát vị thế của nước Pháp và những cái chết vô ích do nền cai trị của ông đem lại: sử gia Victor Davis Hanson viết, "Xét cho cùng, kỷ lục quân sự là không phải tranh cãi - 17 năm chiến tranh, chừng sáu triệu người chết, nước Pháp khánh kiệt, các thuộc địa hải ngoại bị mất"[196]. McLynn lưu ý với độc giả rằng, "Ông có thể xem như người đã kéo chậm đời sống kinh tế châu Âu cả một thế hệ bởi những biến động do những cuộc chiến tranh của ông[191]. Tuy nhiên, Vincent Cronin đáp lại rằng những chỉ trích như vậy dựa vào một tiền đề không đầy đủ rằng Napoléon chịu hoàn toàn trách nhiệm cho những cuộc chiến mang tên ông, trong khi thực tế nước Pháp là nạn nhân của một loạt những mối liên minh nhằm hủy diệt những lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp[197]. Mặt khác, một cuộc thăm dò ý kiến xuất bản trên báo Le Figaro năm 2005 cho thấy gần 40% người Pháp coi ông là "một tay độc tài đã dùng mọi cách để thỏa mãn sự thèm khát quyền lực của mình".[198]
Tuyên truyền và tưởng niệm
Học giả Hazareesingh năm 2004 đã xem xét hình ảnh và sự tưởng niệm Napoléon trong ngữ cảnh chính trị-xã hội của nó. Theo đó, nó đóng một vai trò quan trọng trong những thách thức chính trị tập thể đối với nền quân chủ Bourbon những năm 1815-1830. Người dân ở mọi tầng lớp và mọi khu vực trên nước Pháp, đặc biệt là các cựu binh thời kì Napoleon, gợi đến di sản của Napoléon và những mối liên hệ của nó đối với những lý tưởng của cuộc cách mạng 1789[200]. Những tin đồn lan nhanh về sự quay về của Napoléon từ đảo St. Helena và Napoléon như một cảm hứng cho chủ nghĩa ái quốc, sự tự do tập thể lẫn cá nhân, cùng với sự vận động chính trị đã tự thể hiện trong những chất liệu có tính nổi loạn, đáng chú ý là sự thể hiện các họa tiết ba màu (cách mạng) và hoa hồng (nhà Bonaparte), và những hoạt động tổ chức những ngày kỷ niệm cuộc đời và triều đại Napoléon trong khi phá hoại những ngày lễ hoàng gia, và chứng tỏ mục tiêu thành công và thịnh hành của những người ủng hộ Napoléon các loại nhằm liên tục làm mất ổn định nền cai trị của nhà Bourbon[200].
Datta (2005) chỉ ra rằng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt Boulanger vào cuối những năm 1880, huyền thoại Napoléon đã tách li khỏi chính trị đảng phái và hồi sinh trong văn hóa đại chúng. Tập trung phân tích một số tác phẩm văn học thời Belle Époque, Datta xem xét cách các tác giả và nhà phê bình thời kì này khai thác huyền thoại Napoléon cho những mục đích chính trị và văn hóa đa dạng[201]. Quy giảm về một nhân vật phụ, hình ảnh hư cấu mới về Napoléon không còn là một nhân vật lịch sử thế giới mà là một nhân vật gần gũi hơn, phỏng theo những nhu cầu của mỗi cá nhân và được tiếp nhận như sự giải trí đại chúng. Trong nỗ lực của các tác giả để thể hiện vị hoàng đế như một biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, những người đề xướng lẫn đả kích Đệ tam Cộng hòa sử dụng huyền thoại này như một phương tiện để thăm dò những nỗi lo về giới và những nỗi sợ về quá trình dân chủ hóa đi kèm với kỉ nguyên của văn hóa và chính trị quần chúng[201].
Các Hội nghị Napoléon Quốc tế được tổ chức thường xuyên và có sự tham gia của các thành viên của giới quân sự Pháp và Mỹ, các chính trị gia Pháp và các học giả đến từ nhiều quốc gia khác nhau[202].
Được dự tính hoàn thành vào năm 2014, Công viên giải trí Napoleonland ở gần Montereau-Fault-Yonne trên vị trí diễn ra chiến thắng của Napoléon trong trận Montereau sẽ có nội dung hoạt động liên quan đến cuộc đời ông.
Di sản ngoài nước Pháp
Napoleon chịu trách nhiệm cho việc lật đổ nhiều Chế độ cũ (Ancien Régime) - những nền quân chủ điển hình ở châu Âu và lan truyền các giá trị chính thống của Cách mạng Pháp tới các quốc gia khác. Đặc biệt, chủ nghĩa dân tộc Pháp của Napoléon đã có ảnh hưởng lên sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở những miền khác - thường là một cách không chủ ý. Một ví dụ là chủ nghĩa dân tộc Đức của Fichte đã thách thức sự chinh phục nước Đức của Napoleon. Napoléon cũng là tác giả tạo ra cơ sở cờ tam sắc xanh-trắng-đỏ của nước Ý trong thời kì ông cai trị đất nước này.Đạo luật Napoléon là sự hệ thống hóa luật pháp bao gồm luật dân sự, luật gia đình và luật hình sự mà ông áp đặt lên các lãnh thổ bị chinh phục. Sau sự sụp đổ của Napoleon, bộ luật này không những vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia bao gồm Hà Lan, Bỉ, một phần của Ý và Đức, mà còn được dùng làm cơ sở cho nhiều phần của những bộ luật ngoài châu Âu bao gồm Cộng hòa Dominica, bang Lousiana của Hoa Kỳ và tỉnh Quebec của Canada[203].
Ở Ba Lan hồi ức về Napoléon rất mạnh mẽ, do sự ủng hộ của ông với nền tự chủ và đối lập lại Nga, đạo luật của ông, sự kết thúc chế độ nông nô, và việc hình thành bộ máy quan liêu trung lưu hiện đại[204].
Một số nhà lãnh đạo chịu ảnh hưởng bởi Napoleon. Muhammad Ali của Ai Cập tìm kiếm liên minh với nước Pháp của Napoléon và tìm cách hiện đại hóa Ai Cập theo các cách thức của chính quyền Pháp. Vào thế kỉ 20, Adolf Hitler từng bày tỏ sự tôn kính Napoléon bằng cách viếng mộ 3 ngày sau khi sau khi Đức chiếm được Pháp (1940) trong Thế chiến thứ hai. Hitler được cho là đã nói rằng đây là "một trong những khoảnh khắc lớn nhất trong đời tôi". Hôm sau, Hitler lại thăm mộ Napoléon trong chuyến tham quan Paris, và trong suốt chiến tranh, vị lãnh tụ Đức Quốc xã đã đặt các túi cát quanh mộ Napoléon để tránh sự hư hại do bom đạn gây ra[198].
Hôn nhân và con cái
![]() |
![]() |
|
Vợ đầu của Napoleon, Joséphine, hoàng hậu Pháp
|
Vợ thứ hai của Napoleon, Marie-Louise, hoàng hậu Pháp
|
Joséphine có nhiều nhân tình, bao gồm một trung úy người Hungary, Hippolyte Charles, trong chiến dịch Ý của Napoleon[207]. Napoléon biết được đầy đủ mức độ mối quan hệ của bà với Charles khi ở Ai Cập, và một bức thư ông viết cho anh trai nói về chủ đề này bị người Anh chặn được. Lá thư xuất hiện trên các báo chí ở London và Paris, gây cho Napoléon nỗi xấu hổ to lớn. Napoléon cũng có những mối quan hệ của riêng mình: trong chiến dịch Ai Cập ông đã chiếm Pauline Bellisle Foures, vợ của một sĩ quan cấp thấp, làm nhân tình của mình[208][chú thích 16].
Trong khi các nhân tình của ông có những đứa con bởi ông, Joséphine không sinh được một người thừa kế, có thể vì hoặc những ám ảnh về sự bắt giam trong Thời kỳ Khủng bố hoặc lần bà từng phá thai ở tuổi 20[210]. Napoléon sau cùng chọn lựa li dị để ông có thể tái hôn để tìm người thừa kế. Tháng Ba 1810, ông cưới Marie Louise, nữ Đại Công tước Áo, và cháu của Marie Antoinette thông qua một đám cưới vắng mặt; do đó ông đã kết hôn với một gia đình đế vương Đức[211].
Họ duy trì hôn nhân cho tới khi ông mất, mặc dù bà không đi đày cùng ông ở Elba và do đó không nhìn thấy chồng lần nữa. Họ có một đứa con, Napoleon Francis Joseph Charles (1811–1832), từ lúc sinh ra đã được phong Vua của người La Mã. Đứa trẻ về sau trở thành Napoléon II năm 1814 và tại vị chỉ hai tuần. Ông hoàng được ban danh hiệu Công tước Reichstadt năm 1818 và chết do bệnh lao ở tuổi 21, mà không có con cái[211].
Napoleon cũng công nhận hai đứa con ngoài giá thú khác: Charles Léon (1806–1881) sinh bởi Eléonore Denuelle de La Plaigne[212] và Bá tước Alexandre Joseph Colonna-Walewski (1810–1868) bởi Nữ bá tước Marie Walewska[212]. Ông có thể có bốn đứa trẻ ngoài giá thú không được thừa nhận nữa, như Karl Eugin von Mühlfeld bởi Victoria Kraus[213]; Hélène Napoleone Bonaparte (1816–1910) bởi Albine de Montholon; và Jules Barthélemy-Saint-Hilaire, người mà mẹ hiện còn chưa rõ[214].
Tước hiệu và huy hiệu
Hoàng đế Napoléon I của Pháp
|
||
Chức vụ | ||
---|---|---|
Tiền vị: Hội đồng Đốc chính Pháp |
Tổng tài Lâm thời của Pháp 11 tháng 11 – 12 tháng 12 năm 1799 Cùng với: Roger Ducos và Emmanuel Joseph Sieyès |
Trở thành Tổng tài |
Chức vụ mới
Chế độ Tổng tài thiết lập
|
Tổng tài thứ nhất của Pháp 12 tháng Mười hai 1799 – 18 tháng năm 1804 Cùng với: Jean Jacques Régis de Cambacérès (Tổng tài thứ hai) Charles-François Lebrun (Tổng tài thứ ba) |
Trở thành Hoàng đế |
Hiệu | ||
Trống ngôi
Cách mạng Pháp
Người cuối cùng giữ danh hiệu
Louis XVI của Phápnhư là Vua của người Pháp |
Hoàng đế của người Pháp
![]() 18 tháng Năm 1804 – 11 tháng Tư 1814 |
Kế vị Louis XVIII của Pháp như là Vua của Pháp và Navarre |
Trống ngôi
Người cuối cùng giữ danh hiệu
Karl V, Hoàng đế Thánh chế La Mãnhư là nhà quân chủ cuối cùng đăng quang ở cùng ngôi vị, 1530 |
Vua của Ý 17 tháng Ba 1805 – 11 tháng Tư 1814 |
Trống ngôi
Danh hiệu được kế thừa bởi
Vittorio Emanuele II của Savoy |
Tiền vị: Louis XVIII của Pháp như là Vua của Pháp và Navarre |
Hoàng đế của người Pháp
![]() 20 tháng Ba – 22 tháng Sáu 1815 |
Kế vị Louis XVIII của Pháp như là Vua của Pháp và Navarre (Napoleon II chỉ theo nguyện vọng của ông) |
Chức vụ mới
Nhà nước thành lập
|
Bảo hộ công của Liên bang sông Rhine 12 tháng Bảy 1806 – 19 tháng Mười 1813 |
Liên bang sông Rhine giải thể |
Tước hiệu thừa kế trên danh nghĩa | ||
Chức vụ mới | — DANH NGHĨA — Hoàng đế của người Pháp 11 tháng Tư 1814 – 20 tháng Ba 1815 |
Trống ngôi
Danh hiệu được kế thừa bởi
Napoleon II |
Phả hệ tổ tiên
Tổ tiên của Napoléon Bonaparte |
---|
Chú thích
- ^ Trong một số sách ghi phiên âm Hán-Việt là Nã Phá Luân
- ^ Tên của ông cũng được đánh vần làNabulione, Nabulio, Napolionne, và Napulione.[3]
- ^ Tuy nhiên trừ tên gọi, dường như không có liên hệ nào giữa ông với Định lí Napoleon[15].
- ^ Các sách thường gọi ông là Bonaparte trong giai doạn trước khi ông nhậm chức Tổng tài thứ nhất suốt đời.[19]
- ^ Một số truyện sử khẳng định ông bị tống giam ở Pháo đài Carré ở Antibes nhưng không có bằng chứng rõ ràng nào cho điều này[29].
- ^ Claude Ribbe đưa ra cáo buộc rằng người Pháp đã sử dụng những phòng hơi ngạt trong cuộc chiến này[72].
- ^ Bản thân thuật ngữ du kích-guerrilla- sinh ra từ đây.
- ^ Một thuật ngữ, có khi còn mang tên Mùa Đông Xô Viết, Sương giá Nga, chỉ nhiệt độ cực thấp và thay đổi nhanh chóng ở phần Nga thuộc châu Âu, thường được dùng để giải thích các thất bại quân sự trên miền đất này
- ^ Với quân số 30 000 chống lại 120 000 quân Liên minh, Napoléon gây ra tổn thất gần 18 000 người cho đối phương, gấp hơn 5 lần người Pháp, khiến cho một số sử gia cho rằng đây là chiến dịch đánh đẹp nhất của Napoleon[121].
- ^ Một tục lệ trong đó các gia đình đặt nến ở cửa số hướng ra phố để báo trước một tin tốt lành[137].
- ^ Cơ thể có thể chịu đựng một liều lượng arsen lớn nếu nó xâm nhập thường xuyên và từ từ, và arsen có thời từng được rao truyền là thuốc trị bách bệnh[149].
- ^ "Nous trompons les Égyptiens par notre simili attachement à leur religion, à laquelle Bonaparte et nous ne croyons pas plus qu'à celle de Pie le défunt."[164]
- ^ "Tôi nghĩ rằng vật chất làm nên con người là một chất nhớt, được hun nóng bởi mặt trời và thổi hồn bởi các các dòng điện. Cái làm nên động vật —một con bò, chẳng hạn— mà không phải vật chất có tổ chức? Chao, khi chúng ta thấy rằng khuôn khổ thể chất của chúng ta tương tự chúng, có lẽ chúng ta không tin rằng chúng ta chỉ là những vật chất được tổ chức chất hơn... ý tưởng đơn giản nhất hàm chứa trong sự thờ cúng mặt trời, thứ đem lại sự sống cho vạn vật. Tôi nhắc lại, tôi nghĩ con người được tạo ra trong không khí được sưởi ấm bởi mặt trời, và sau một thời gian nào đó điều đó năng lực sinh sôi này chấm dứt"[167].
- ^ "Tôi không tin rằng Jesus Kitô từng tồn tại. Tôi sẽ tin vào tôn giáo Cơ đốc nếu nó bắt đầu từ khởi thủy thế giới. Cho rằng Socrates, Plato, người Hồi giáo, và tất cả người Anh cần bị nguyền rủa là quá ngu xuẩn. Jesus hẳn là đã chết, giống như nhiều kẻ cuồng tín tự tuyên bố họ là những nhà tiên tri hoặc đấng Cứu thế được mong chờ. Hàng năm có nhiều kẻ như vậy"[168].
- ^ Chiều cao của Napoleon là 5 ft 2 in Pháp theo bác sĩ Antommarchi khi giải phẫu thi thể ông[177].
- ^ Một đêm, trong lúc quan hệ bất chính với nữ diễn viên Marguerite George, Napoléon bị hôn mê nặng. Lần này cùng với những cơn đau nhỏ khác khiến cho các sử gia tranh cãi liệu ông có bị động kinh không và ở mức độ nào[209].
Trích dẫn
- ^ Schom, Alan (1998). Napoléon Bonaparte . New York: HarperPerennial. ISBN 0-06-092-958-8.
- ^ McLynn 1998, tr.6
- ^ a ă Dwyer 2008, tr.xv
- ^ The other conquest. Google Books. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
- ^ French Fortifications, 1715–1815. Google Books. 30 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
- ^ McLynn 1998, tr.2
- ^ Cronin 1994, tr.20–21
- ^ Harvey, R. The War of Wars, Robinson, 2006. tr. 58-61.
- ^ “Cathedral—Ajaccio”. La Fondation Napoléon. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2008.
- ^ Cronin 1994, tr.27
- ^ a ă â Roberts 2001, tr.xvi
- ^ McLynn 1998, tr.18
- ^ Dwyer 2008, tr.29
- ^ McLynn 1998, tr.21
- ^ Wells 1992, tr.74
- ^ McLynn 1998, tr.23
- ^ a ă Dwyer 2008, tr.42
- ^ McLynn 1998, tr.26
- ^ a ă McLynn 1998, tr.290
- ^ McLynn 1998, tr.37
- ^ McLynn 1998, tr.55
- ^ McLynn 1998, tr.61
- ^ a ă â b c d Roberts 2001, tr.xviii
- ^ Dwyer 2008, tr.132
- ^ McLynn 1998, tr.76
- ^ a ă Dwyer 2008, tr.145-9
- ^ Chandler 1973, tr.30
- ^ Boycott-Brown 2001, tr.88-92
- ^ Dwyer 2008, tr.155
- ^ Bourrienne, Memoirs of Napoleon, tr. 39.
- ^ Bourrienne, Memoirs of Napoleon, tr. 38.
- ^ Dwyer 2008, tr.157
- ^ McLynn 1998, tr.76 và 84
- ^ McLynn 1998, tr.92
- ^ Dwyer 2008, tr.26
- ^ Dwyer 2008, tr.164
- ^ McLynn 1998, tr.93
- ^ a ă McLynn 1998, tr.96
- ^ McLynn 1998, tr.102
- ^ McLynn 1998, tr.129
- ^ Dwyer 2008, tr.284-5
- ^ McLynn 1998, tr.132
- ^ McLynn 1998, tr.145
- ^ McLynn 1998, tr.142
- ^ Harvey 2006, tr.179
- ^ McLynn 1998, tr.135
- ^ Dwyer 2008, tr.306
- ^ Dwyer 2008, tr.305
- ^ Dwyer 2008, tr.322
- ^ a ă â Watson 2003, tr.13-14
- ^ a ă Amini 2000, tr.12
- ^ Dwyer 2008, pp.342
- ^ a ă Alder 2002
- ^ McLynn 1998, tr.175
- ^ McLynn 1998, tr.179
- ^ Dwyer 2008, tr.372
- ^ a ă â b c d đ Roberts 2001, tr.xx
- ^ Dwyer 2008, pp.392
- ^ Dwyer 2008, tr.411-24
- ^ McLynn 1998, tr.189
- ^ McLynn 1998, tr.193
- ^ Dwyer 2008, tr.442
- ^ a ă â Connelly 2006, tr.57
- ^ Dwyer 2008, tr.444
- ^ Dwyer 2008, tr.455
- ^ McLynn 1998, tr.215
- ^ McLynn 1998, tr.224
- ^ a ă McLynn 1998, tr.235
- ^ a ă Schom 1997, tr.302
- ^ McLynn 1998, tr.265
- ^ Jackson 2004, tr.33
- ^ Ribbe 2007
- ^ Connelly 2006, tr.70
- ^ McLynn 1998, tr.243
- ^ McLynn 1998, tr.296
- ^ McLynn 1998, tr.297
- ^ Woolley, Reginald Maxwell (1915). Coronation Rites. Cambridge University Press. tr. 106–107.
- ^ a ă McLynn 1998, tr.321
- ^ McLynn 1998, tr.332
- ^ a ă Goetz 2005, tr.301
- ^ David G. Chandler, The Campaigns of Napoleon, trang 432
- ^ Todd Fisher & Gregory Fremont-Barnes, The Napoleonic Wars: The Rise and Fall of an Empire. trang 54
- ^ Schom 1997, tr.414
- ^ McLynn 1998, tr.350
- ^ Cronin 1994, tr.344
- ^ a ă Karsh 2001, tr.11
- ^ Karsh 2001, tr.12
- ^ McLynn 1998, tr.356
- ^ McLynn 1998, tr.370
- ^ McLynn 1998, tr.426
- ^ McLynn 1998, tr.497
- ^ Gates 2001, tr.20
- ^ Chandler 1995, tr.631
- ^ McLynn 1998, tr.408
- ^ Harvey 2006, tr.631
- ^ Gates 2001, tr.177
- ^ Gates 2001, tr.467
- ^ Napoleon Bonaparte, Memorial de Sainte-Helene, Vol 1 (Paris: Garnier fretes, 1961 (1823), các trang. 609–610
- ^ M. Surhone, Lambert (2010). War of the Fifth Coalition. VDM Publishing. tr. 29. ISBN 9786130908935.
- ^ Tucker, Spencer (2009). A Global Chronology of Conflict: From the Ancient World to the Modern Middle East: From the Ancient World to the Modern Middle East. ABC-CLIO. tr. 1067–1068. ISBN 1851096728.
- ^ Books Llc (2010). 1809 in the United Kingdom: War of the Fifth Coalition, Battle of the Basque Roads, Battle of Talavera, Battle of Les Sables-D'Olonne. General Books LLC. tr. 24. ISBN 9781155997926.
- ^ Books Llc (2010). 1809 in the United Kingdom: War of the Fifth Coalition, Battle of the Basque Roads, Battle of Talavera, Battle of Les Sables-D'Olonne. General Books LLC. tr. 50. ISBN 9781155997926.
- ^ McLynn 1998, tr.470
- ^ McLynn 1998, tr.433–5
- ^ McLynn 1998, tr.472.
- ^ McLynn 1998, tr.378
- ^ McLynn 1998, tr.495
- ^ McLynn 1998, tr.507
- ^ McLynn 1998, tr.506
- ^ McLynn 1998, tr.504—505
- ^ Harvey 2006, tr.773
- ^ McLynn 1998, tr.518
- ^ Markham 1988, tr.194
- ^ McLynn 1998, tr.522
- ^ Markham 1988, tr.190 và 199
- ^ McLynn 1998, tr.541
- ^ McLynn 1998, tr.549
- ^ McLynn 1998, tr.565
- ^ Chandler 1995, tr.1020
- ^ Fremont-Barnes 2004, tr.14
- ^ Chandler, David. Dictionary of the Napoleonic wars, Wordsworth editions, 1999.pgs.87, 90, 286-87, 459
- ^ McLynn 1998, tr.585
- ^ Alan Forrest, Napoleon, Quercus, 2011. ISBN 0857387596.
- ^ Gates 2003, tr.259
- ^ “Napoleon's act of abdication”. Bulletin des lois de la Republique Française. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2009.
- ^ McLynn 1998, tr.593-4
- ^ McLynn 1998, tr.597
- ^ McLynn 1998, tr.604
- ^ McLynn 1998, tr.605
- ^ McLynn 1998, tr.607
- ^ Chesney 2006, tr.35
- ^ Cordingly 2004, tr.254
- ^ Balcombe 1845
- ^ Thomson 1969, tr.77–9
- ^ Schom 1997, tr.769–770
- ^ a ă McLynn 1998, tr.642
- ^ Woodward 2005, tr.51–9
- ^ McLynn 1998, tr.644
- ^ Macaulay 1986, tr.141
- ^ Wilkins 1972
- ^ McLynn 1998, tr.651
- ^ Albert Benhamou, Inside Longwood – Barry O'Meara's clandestine letters, 2012
- ^ a ă â b c McLynn 1998, tr.655
- ^ a ă Driskel 1993, tr.168
- ^ McLynn 1998, tr.656
- ^ Johnson 2002, tr.180–1
- ^ a ă â b Cullen 2008, tr.146–48
- ^ a ă Cullen 2008, tr.156
- ^ Cullen 2008, tr.50
- ^ Blaufarb 2007, tr.101–2
- ^ Edwards 1999, tr.55
- ^ McLynn 1998, 255
- ^ Wanniski 1998, tr.184
- ^ Wood 2007, tr.55
- ^ Scheck 2008, Chapter: The Road to National Unification
- ^ Astarita 2005, tr.264
- ^ Alter 2006, các trang.61–76
- ^ Hallock, William; Wade, Herbert T (1906). “Outlines of the evolution of weights and measures and the metric system”. London: The Macmillan Company. tr. 66–69.
- ^ Denis Février. “Un historique du mètre” (bằng tiếng Pháp). Ministère de l'Economie, des Finances et de l'Industrie. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
- ^ Thierry Sabot (1 tháng 10 năm 2000). “Les poids et mesures sous l’Ancien Régime” [The weights and measures of the Ancien Régime] (bằng tiếng Pháp). histoire-genealogie. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
- ^ O'Connor 2003
- ^ a ă â b “L'Empire et le Saint-Siège”. Napoleon.org. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Revue des Deux Mondes – 1867 – tome 71, tr.386” (bằng tiếng Pháp). Fr.wikisource.org. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2011.
- ^ Jacques Bainville, Napoléon I, tr.94
- ^ “Bonaparte and Islam.”. Center for History and New Media at George Mason University. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Napoleon: Man of Peace”. Napoleon-series.org. 17 tháng 11 năm 1999. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011.
- ^ Talk Of Napoleon At St. Helena'' (1903), pp. 270–271
- ^ Talk Of Napoleon At St. Helena'' (1903), pp. 276–277
- ^ Louis Antoine Fauvelet de Bourrienne, Memoirs of Napoleon Bonaparte, tr. 586. Google. 1839. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2011.
- ^ Aston, Nigel (2002). Christianity and Revolutionary Europe c. 1750–1830. Cambridge University Press. ISBN 0-521-46027-1.
- ^ McLynn 1998, tr.436
- ^ Schwarzfuchs 1979, tr.50
- ^ Cronin 1994, tr.315
- ^ van Crevald, Martin (1987). Command in War. Massachusetts: Harvard University Press. tr. 64. ISBN 0-674-14441-4.
- ^ “Napoleon Bonaparte (Character)”. IMDB. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008. and Bell 2007, tr.13
- ^ Roberts 2004, tr.93
- ^ Dunan 1963
- ^ “Sarkozy height row grips France”. BBC. 8 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.
- ^ Hall 2006, tr.181
- ^ Bordes 2007, tr.118
- ^ a ă Archer et al 2002, tr.397
- ^ Flynn 2001, tr.16
- ^ Bruce McConachy, "The Roots of Artillery Doctrine: Napoleonic Artillery Tactics Reconsidered," Journal of Military History 2001 65(3): 617–640. in JSTOR; online
- ^ Archer et al 2002, tr.383
- ^ John Shy, "Jomini" in Peter Paret, ed. Makers of Modern Strategy: From Machiavelli to the Nuclear Age (1986).
- ^ Archer et al 2002, tr.380
- ^ Roberts 2001, tr.272
- ^ Archer et al 2002, tr.404
- ^ Outhwaite 2003 tr.50
- ^ Abbott 2005,p.3
- ^ a ă McLynn 1998, tr.666
- ^ Repa, Jan (2 tháng 12 năm 2005). “Furore over Austerlitz ceremony”. BBC. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2010.
- ^ Poulos 2000
- ^ Geyl 1947
- ^ Chandler 1973, tr. xliii
- ^ Hanson 2003
- ^ Cronin 1994, pp.342–3
- ^ a ă French Fuhrer: Genocidal Napoleon was as barbaric as Hitler, historian claims
- ^ Alan Forrest, "Propaganda and the Legitimation of Power in Napoleonic France." French History, 2004 18(4): tr. 426–445
- ^ a ă Sudhir Hazareesingh, "Memory and Political Imagination: the Legend of Napoleon Revisited." French History, 2004 18(4): tr463–483
- ^ a ă Venita Datta, "'L'appel Au Soldat': Visions of the Napoleonic Legend in Popular Culture of the Belle Epoque." French Historical Studies 2005 28(1): tr.1–30
- ^ “Call for Papers: International Napoleonic Society, Fourth International Napoleonic Congress”. La Fondation Napoléon. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Napoleonic Code”. Encyclopeadia Britannica. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2012.
- ^ Andrzej Nieuwazny, "Napoleon and Polish identity." History Today, May 1998 v48 n5 pp. 50–55
- ^ McLynn 1998, tr.117
- ^ McLynn 1998, tr.271
- ^ McLynn 1998, tr.118
- ^ McLynn 1998, tr.188
- ^ McLynn 1998, tr.284
- ^ McLynn 1998, tr.100
- ^ a ă McLynn 1998, tr.663
- ^ a ă McLynn 1998, tr.630
- ^ McLynn 1998, tr.423
- ^ Lowndes 1943
Tham khảo
- Abbott, John (2005). Life of Napoleon Bonaparte. Kessinger Publishing. ISBN 1417970634.
- Alder, Ken (2002). The Measure of All Things—The Seven-Year Odyssey and Hidden Error That Transformed the World. Free Press. ISBN 074321675X.
- Alter, Peter (2006). Trong T. C. W. Blanning and Hagen Schulze. Unity and Diversity in European Culture c. 1800. Oxford University Press. ISBN 0197263828.
- Amini, Iradj (2000). Napoleon and Persia. Taylor & Francis. ISBN 0934211582.
- Archer, Christon I.; John R. Ferris, Holger H. Herwig (2002). World History of Warfare. University of Nebraska Press. ISBN 0803244231.
- Astarita, Tommaso (2005). Between Salt Water And Holy Water: A History Of Southern Italy. W. W. Norton & Company. ISBN 0393058646.
- Balcombe Abell, Lucia Elizabeth (1845). Recollections of the Emperor Napoleon. J. Murray. OCLC 9123757.
- Bell, David (2007). The First Total War. Houghton Mifflin Harcourt. ISBN 0618349650.
- Bertman, Sandra (2002). “Execution of the Defenders of Madrid, 3 May 1808”. New York University. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2008.
- Blaufarb, Rafe (2007). Napoleon: Symbol for an Age, A Brief History with Documents. Bedford. ISBN 0312431104.
- Bordes, Philippe (2007). Jacques-Louis David. Yale University Press. ISBN 0300123469.
- Chandler, David (1973). The Campaigns of Napoleon, Volume 1. 9780025236608. ISBN 0025236601.
- Chandler, David (1995). The Campaigns of Napoleon. Simon & Schuster. ISBN 0025236601.
- Chandler, David (2002). Napoleon. Leo Cooper. ISBN 0850527503.
- Chesney, Charles (2006). Waterloo Lectures:A Study Of The Campaign Of 1815. Kessinger Publishing. ISBN 1428649883.
- Connelly, Owen (2006). Blundering to Glory: Napoleon's Military Campaigns. Rowman & Littlefield. ISBN 0742553183.
- Cordingly, David (2004). The Billy Ruffian: The Bellerophon and the Downfall of Napoleon. Bloomsbury. ISBN 158234468X.
- Cronin, Vincent (1994). Napoleon. HarperCollins. ISBN 0006375219.
- Cullen, William (2008). Is Arsenic an Aphrodisiac?. Royal Society of Chemistry. ISBN 0854043632.
- Driskel, Paul (1993). As Befits a Legend. Kent State University Press. ISBN 0873384849.
- Dunan, Marcel (1963). “Napoleon's height” (bằng tiếng Pháp). La Fondation Napoléon. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2009.
- Dwyer, Philip (2008). Napoleon:The Path to Power 1769–1799. Bloomsbury. ISBN 9780747566779.
- Edwards, Catharine (1999). Roman Presences. Cambridge University Press. ISBN 052159197X.
- Flynn, George Q. (2001). Conscription and democracy: The Draft in France, Great Britain, and the United States. Greenwood Publishing Group. ISBN 031331912X.
- Fremont-Barnes, Gregory; Todd Fisher (2004). The Napoleonic Wars: The Rise and Fall of an Empire. Osprey. ISBN 1841768316.
- Fulghum, Neil (2007). “Death Mask of Napoleon”. University of North Carolina. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2008.
- Gates, David (2001). The Spanish Ulcer: A History of the Peninsular War. Da Capo Press. ISBN 0306810832.
- Gates, David (2003). The Napoleonic Wars, 1803–1815. Pimlico. ISBN 0712607196.
- Geyl, Pieter (1982) [1947]. Napoleon For and Against. Penguin Books. ISBN 0452000572.
- Goetz, Robert (2005). 1805: Austerlitz: Napoleon and the Destruction of the Third Coalition. Greenhill Books. ISBN 1853676446.
- Hall, Stephen (2006). Size Matters. Houghton Mifflin Harcourt. ISBN 0618470409.
- Hanson, Victor Davis (2003). “The Claremont Institute: The Little Tyrant, A review of Napoleon: A Penguin Life”. The Claremont Institute. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2008.
- Harvey, Robert (2006). The War of Wars. Robinson. ISBN 9781845296353.
- Hindmarsh, J. Thomas; John Savory (2008). “The Death of Napoleon, Cancer or Arsenic?”. Clinical Chemistry (American Association for Clinical Chemistry) 54: 2092. doi:10.1373/clinchem.2008.117358. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
- Jackson, John (2004). Race, Racism, and Science. ABC-CLIO. ISBN 1851094482.
- Johnson, P. (2002). Napoleon: A life. Penguin Books. ISBN 0670030783.
- Karsh, Inari (2001). Empires of the Sand: The Struggle for Mastery in the Middle East, 1789–1923. Harvard University Press. ISBN 0674005414.
- Kladstrup, Don; Petie Kladstrup (2005). Champagne: How the World's Most Glamorous Wine Triumphed Over War and Hard Times. William Morrow. ISBN 0060737921.
- Lowndes, Marie Adelaide Belloc (1943). Where Love And Friendship Dwelt. Macmillan. OCLC 67554055.
- Macaulay, Neill (1986). Dom Pedro: The Struggle for Liberty in Brazil and Portugal, 1798–1834. Duke University Press. ISBN 0822306816.
- Markham, Felix (1988). Napoleon. Mass Market Paperback. ISBN 0451627989.
- McLynn, Frank (1998). Napoleon. Pimlico. ISBN 0712662472.
- O'Connor, J; E F Robertson (2003). “The history of measurement”. St Andrew's University. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2008.
- Outhwaite, William (2003). The Blackwell Dictionary of Modern Social Thought. Blackwell. ISBN 0631221646.
- Poulos, Anthi (2000). “1954 Hague Convention for the Protection of Cultural Property in the Event of Armed Conflict”. International Journal of Legal Information (HeinOnline).
- Ribbe, Claude (2007). Napoleon's Crimes: A Blueprint for Hitler. Oneworld Publications. ISBN 1851685332.
- Roberts, Andrew (2001). Napoleon and Wellington. Weidenfeld and Nicholson. ISBN 0297646079.
- Roberts, Chris (2004). Heavy Words Lightly Thrown. Granta. ISBN 1862077657.
- Scheck, Raffael (2008). Germany, 1871–1945: A Concise History. Berg. ISBN 184520817X.
- Schom, Alan (1997). Napoleon Bonaparte. HarperCollins. ISBN 9780060172145.
- Schwarzfuchs, Simon (1979). Napoleon, the Jews and the Sanhedrin. Routledge. ISBN 0197100236.
- Thomson, Kathleen (1969). “Balcombe, Alexander Beatson (1811–77)”. Australian Dictionary of Biography Online. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2008.
- Wanniski, Jude (1998). The Way the World Works. Regnery Gateway. ISBN 0895263440.
- Watson, William (2003). Tricolor and crescent. Greenwood Publishing Group. ISBN 0275974707. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2009.
- Wells, David (1992). The Penguin Dictionary of Curious and Interesting Geometry. Penguin Books. ISBN 0140118136.
- Wilkins, William (1972) [1944]. Napoleon's Submarine. New English Library. ISBN 0450010287.
- Wilson, J (2 tháng 8 năm 1975). “Dr. Archibald Arnott: Surgeon to the 20th Foot and Physician to Napoleon”. British Medical Journal (vol.3). PMC 1674241. PMID 1097047. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2008.
- Wood, Philip (2007). The Law and Practice of International Finance Series. Sweet & Maxwell. ISBN 1847032109.
- Woodward, Chris (July năm 2005). “Napoleon's Last Journey” (7). History Today. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2008.
Liên kết ngoài
Tìm hiểu thêm về Napoleon Bonaparte ở các dự án khác của Wikipedia: | |
![]() |
Định nghĩa ở Wiktionary |
![]() |
Nội dung đa phương tiện ở Commons |
![]() |
Tư liệu học tập ở Wikiversity |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Câu nói nổi tiếng ở Wikiquote |
![]() |
Văn bản ở Wikisource |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
- The Napoleonic Guide
- Napoleon Series
- International Napoleonic Society
- Memoirs of Napoleon, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- John Holland RoseThe Life of Napoleon I, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- John Gibson LockhartThe History of Napoleon Buonaparte, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- William Milligan SloaneThe Life of Napoleon I., tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg Vol. 1/4
- William Milligan SloaneThe Life of Napoleon I., tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg Vol. 3/4
Chiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
Phần đầu cuộc chiến xảy ra năm Nhâm Dần (1842) bao gồm nhiều trận lớn nhỏ, phần lớn đã xảy ra ở Kiên Giang và An Giang thuộc miền Nam Việt Nam. Theo Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện thì đây là cuộc chiến tranh giữ nước quan trọng của người Việt, phải huy động đến năm ngàn quân và súng lớn do những tướng giỏi chỉ huy.[2]
Mục lục
Nguyên nhân
Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì:- Sau chiến thắng năm Giáp Ngọ (1834), uy danh của chính quyền Việt Nam được nổi hơn bao giờ hết, các nước chư hầu càng thêm kính phục. Quốc vương Xiêm La phải cử một sứ bộ qua Huế xin giảng hòa... Mọi việc đáng lẽ tốt đẹp và êm ả, thì trái lại đám quan lại [3] Việt Nam sang Trấn Tây thành (Nam Vang) đã có nhiều hành động lạm quyền, lạm thế và những nhiễu dân. Chẳng bao lâu, họ bắt cả Ngọc Vân công chúa về Gia Định, đem Trà Long (Chakrey Long) và La Kiên đày ra Bắc Việt. Miệt thị hoàng gia, loại trừ cấp lãnh đạo bản địa, trong lúc kẻ thù (Xiêm La) đang rình cạnh nách. Việc này quá tàn bạo, thất nhân tâm, lại lỗi lầm về phương tiện chiến lược và đã đưa đến một hậu quả vô cùng tai hại: Dân Chân Lạp không chịu được sự sĩ nhục liền vùng vậy chống lại chính sách Việt hóa Chân Lạp mà bấy lâu họ đã căm giận. Em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn phất cờ khởi nghĩa, người Xiêm tất nhiên chỉ chờ cơ hội này để lợi dụng tình thế. Quan quân của ta phải đánh dẹp liên miên...[4]
Trước khi giao chiến
Năm 1841, vua Minh Mạng mất, Thiệu Trị vừa lên thay. Thấy tình hình Chân Lạp bất ổn mãi, nên nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang; vua Thiệu Trị liền nghe, truyền cho Trương Minh Giảng rút quân về, nhưng đến An Giang thì viên tướng này mất. Sách Việt Nam sử lược giải thích: Bởi vì việc kinh lý đất Chân Lạp là ở tay ông cả, nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây mà về, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.[6]
Biết tướng Trương Minh Giảng rút quân về nước, quân Xiêm đưa Nặc Ông Đôn về Nam Vang lên ngôi vua và không bỏ lỡ cơ hội, Phi Nhã Chất Tri (còn gọi là tướng Bodin) dẫn quân sang đánh phục thù.
Diễn biến trận 1842 trên đất Việt Nam
Sách Việt Nam sử lược chép:- Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam Kỳ, thì quân Tiêm La (Xiêm La) lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng đốc đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây (Nam Vang). Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu...[7]
- Tướng Phi Nhã Chất Tri đem quân Xiêm đến dựng đồn lũy ở bờ kênh Vĩnh Tế, rồi qua lại gây sự với những đồn bảo của quân Việt. Quan binh ra bèn chia ra nhiều cánh, đi tiểu trừ, giết và làm bị thương rất đông, chiếm lấy được một loạt bảy đồn ở bờ kênh Vĩnh Tế. Những gián điệp do Xiêm tổ chức ở núi Tượng và núi Cấm nghe tin, bèn chạy trốn. Quân Xiêm toan mở cuộc tấn công khác, nhưng trong nước Xiêm xảy ra việc bất ổn, nên tạm ngưng kế hoạch.
- Năm sau (1842), quân Xiêm đổ bộ lên Hà Tiên, ta chận giặc tại đồn Vĩnh Thông. Tình thế trở nên căng thẳng, quân Xiêm có thêm cánh quân theo sông Tiền, sông Hậu đổ xuống. Tướng Nguyễn Tri Phương lại tâu về triều đình, nhận định rằng mất sông Tiền là mất An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, nên ta cần đem binh giữ và phòng bị cẩn mật những đồn Thông Bình (Tuyên Bình), Hùng Ngự (Hồng Ngự), Tân Châu, An Lạc. Chiến thuyền từ Huế, quân sĩ từ Quảng Nam, Quảng Ngãi được đưa gấp vào chiến trường chính.
- Tổng thống Lê Văn Đức đưa quân đến Bảy Núi (An Giang), hợp đồng với quân của quyền Tổng đốc An Hà là Phạm Văn Điển. Ông Điển đóng đồn phòng thủ ở hậu cứ núi Cấm, trong khi Lê Văn Đức và Lê Văn Phú kéo quân đến núi Tượng, thì quân Xiêm hoảng chạy.
- Lê Văn Đức lại kéo quân đến Xà Tón (Tri Tôn, An Giang), vừa gặp Tán lý Tôn Thất Tường tới, liền chia ra 5 đạo, mỗi đạo một ngàn quân, đem súng lớn phá tan đồn lũy quân Xiêm. Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Tri Phương cùng nhau cũng tấn binh đến núi Cô Tô, đuổi được quân đối phương. Sau đó, Nguyễn Công Trứ lãnh trách nhiệm xây dựng, khuyến khích dân địa phương trở lại canh tác bình thường, nhưng kết quả không khả quan. Quân Xiêm cứ âm mưu trở lại, mặc dầu đã bị đánh đuổi ra khỏi biên giới...[2]
- Tháng Giêng năm 1842, chiến thuyền Xiêm đến vùng đảo Phú Quốc, tấn công để dò xét. Nguyễn Công Trứ, thử trổ tài, nhưng bị "sóng gió ngăn trở". Bọn Hoàng Tôn (tự xưng là con của Hoàng tử Cảnh, lấy hiệu là Hoàng Tôn) đưa 5000 người đến Sách Sô[8], là vị trí quan trọng ở giữa sông Tiền và sông Hậu. Tướng Nguyễn Tri Phương liền đem binh thuyền bố trí sẵn.
- Tháng 2 năm 1942, quân Xiêm lại tăng cường hải quân, đến gần Cần Vọt (Quảng Biên, Kampot), rồi kéo tới Bạch Mã (Kép) với ý định chiếm Lư Khê (Rạch Vược, phía Nam Hà Tiên) và chiếm Tô Môn (cửa Đông Hồ, bên cạnh núi Tô Châu) để bao vây Hà Tiên. Xiêm kéo mấy vạn binh tràn vùng kênh Vĩnh Tế, quân Việt chống đỡ không kịp. Cánh quân chánh của Xiêm đánh từ bờ biển vịnh Xiêm La qua theo đường Hà Tiên, chớ không từ Nam Vang mà thọc xuống theo sông Tiền như mấy lần trước.
- Trước nguy cơ ấy, vua Thiệu Trị cho quân lực từ Huế kéo vào tăng cường, cùng với lính thú từ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đợt tấn công đầu tiên của quân Xiêm bị chận lại, ở khắp các mặt trận Vĩnh Tế, sông Tiền và sông Hậu. Nhưng quân Xiêm chưa rút lui, cho củng cố thành lũy, chiếm trọn vùng núi Cô Tô.
- Tháng 5 năm ấy, quân Việt kéo vào chiếm lại khu Cô Tô. Đoàn binh gồm năm đạo, mỗi đạo 1000 quân, đem súng lớn đặt tại Tri Tôn (Xà Tón) mà bắn phá đồn lũy đối phương. Nguyễn Tri Phương đem đại binh đến núi Cô Tô, quân Xiêm tan, một số đông ra đầu thú, trong số đó có cả người Tàu và người Miên có đến số ngàn. Vua Thiệu Trị sai Nguyễn Công Trứ điều động việc lập ấp, khuyến khích khẩn ruộng. Nhưng việc làm này không đi tới đâu cả...[9]
Chiến dịch phản công của quân nhà Nguyễn trên đất Cao Miên năm 1845
Sau đó, cũng theo Việt Nam sử lược, thì ở Chân Lạp, quân Xiêm La lại giở trò tàn bạo, khiến người Chân Lạp không phục, lại nổi lên và cử người sang cầu cứu quân đội Việt. Vua Thiệu Trị bèn sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc Chân Lạp. Tháng 6 năm Ất Tỵ (1845), Võ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Dây Sắt, lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp và Xiêm về hàng kể hơn 23.000 người. Tiếp theo, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh truy đuổi liên quân Xiêm La - Chân Lạp, vây vua Nặc Ông Đôn và tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin) ở Ô Đông (Oudon).Kế hoạch
Tháng 6 âm lịch năm Ất Tỵ (1845), (Tháng 6-9 âm lịch ở hạ lưu sông Mê Kông vùng thuộc Campuchia và Việt Nam thường đang vào mùa nước nổi (lũ)), kế hoạch ban đầu của vua Thiệu Trị:- Cử Võ Văn Giải (hậu quân đô thống kiêm Tổng đốc Định Biên), Tôn Thất Bạch (Thượng thư Bộ Binh) làm Khâm sai đại thần kinh lý Nam Kỳ trù tính việc Trấn Tây.[10]
- Lấy các đạo binh thuộc quân thứ An Giang, Định Tường (Đồng Tháp, Long An), Gia Định (Long An, Tây Ninh) chia làm 3 đường tiến sang đất Cao Miên từ các đồn: Tân Châu (thuộc An Giang), Thông Bình (thuộc Định Tường), và Tây Ninh (thuộc Gia Định). Tướng lĩnh đứng đầu 3 đạo binh là các quan hàng tỉnh của An Giang, Định Tường và Gia Định.
- Đạo binh Tân Châu ban đầu định do Tổng đốc An Hà Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) chỉ huy, nhưng sau thay đổi kế hoạch do Nguyễn Văn Hoàng (đề đốc An Giang) nắm, theo đường thủy lớn sông Tiền Giang (tức Tonlé Bassac Thượng) tiến tới đánh đồn Ba Nam (đồn trọng yếu trên sông Me Kong (Tiền Giang), nay là Phumi Ba Nam thuộc thị trấn Neak Loeang huyện Peam Ro tỉnh Prey Veng). Đồn Ba Nam nằm kẹp giữa sông Tiền (Bassac Thượng) và sông Ba Nam (Prek Banam), một phân lưu của Bassac Thượng chảy từ ngã ba Ba My (tức Trà Mạt) song song với sông Bassac Thượng về tới sông Sở Thượng trên biên giới Việt-Miên.
- Đạo binh Thông Bình do Doãn Uẩn (tuần phủ An Giang) chỉ huy, theo đường sông nhánh (sông Prek Trabeak, nhà Nguyễn gọi là sông Tam Ly[11] với đoạn cuối theo hướng bắc-nam từ điểm nối với sông Vàm Dừa (tức rạch Cái Cỏ, hay Prek Kompong Snay) đến điểm gặp sông Sở Hạ (Prek Krom, hay rạch Lợi Ban), làm thành đoạn biên phía tây của Thông Bình với Campuchia vào thời nhà Nguyễn được tính là đoạn đầu của sông Vàm Dừa (Cái Cỏ) chảy dọc biên giới Việt Miên. Sông Prek Trabeak là nhánh của sông Tiền chảy qua phủ lỵ Ba Nam (Ba Phnum) và đồn Thông Bình) tiến vào suốt trong lòng phủ Nam Ninh (tức là phủ Ba Nam (mới đổi trước đó), xem bài Hành chính Việt Nam thời Nguyễn), rồi hợp quân với đạo Tiền Giang (tức đạo binh Tân Châu).[12]
- Đạo binh thứ 3, dự kiến tiến sang Cao Miên từ phủ Tây Ninh tỉnh Gia Định, do các quan tỉnh này là Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực chỉ huy. Tuy nhiên đạo này không tiến binh ngay, mà phải tới tháng 8 âm lịch (1845), khi 2 đạo trên đã bình định xong phủ Nam Ninh, thì đạo này (do Công Nhàn lĩnh, Hữu Dực ở lại Tây Ninh) mới tiến sang Cao Miên hợp quân đánh đồn Thiết Thằng.
Diễn biến
Tháng 6 âm, Doãn Uẩn cùng lãnh binh Định Tường là Nguyễn Sáng đem quân từ đồn Thông Bình (nay thuộc xã Thông Bình huyện Tân Hồng tỉnh Đồng Tháp) tiến sang Cao Miên qua ngả huyện Nam Thịnh (tức phủ Ba Nam cũ) thuộc phủ Nam Ninh (theo đường sông nhánh của sông Tiền Giang và dọc quốc lộ 1 (Campuchia) ngày nay), hạ ngay được hai đồn Thị Đam[12] (nay khoảng xã Cheang Daek huyện Kampong Trabaek), Vịnh Bích (khoảng thị trấn Kampong Trabaek huyện Kampong Trabaek tỉnh Prey Veng). Sau đó, Doãn Uẩn tiến tới đóng ở Gò Bắc (nay khoảng các xã Kansoam Ak, Kou Khchak huyện Kampong Trabaek hay làng (phum) Beng Pasré huyện Ba Phnum), phía trước là xứ Kha Đốc (khoảng làng Beng Pasré hay xã Sdau Kaong huyện Ba Phnum) có đồn Kha Đốc do các tướng của liên quân Xiêm-Lạp tên là Bang và Mạt trấn giữ. Quân Xiêm-Lạp từ đồn Kha Đốc phía thượng lưu (sông nhánh) theo dọc sông tiến xuống bắn bị thương viên vệ úy Trần Tri. Uẩn và Sáng thúc quân đánh phản công, quân Xiêm-Lạp bỏ đồn Kha Đốc rút chạy, quân nhà Nguyễn chiếm được đồn Kha Đốc.Đồng thời với Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng cũng từ đồn Tân Châu (nay thuộc Tân Châu An Giang) tiến đến Tầm Bôn (thuộc huyện Phù Nam phủ Nam Ninh Trấn Tây, nay là khoảng xã Preaek Sambuor thuộc huyện Peam Chor tỉnh Prey Veng), quân Xiêm Lạp xuôi theo sông Tiền bắn ra, Hoàng cùng Hồ Đức Tú (lãnh binh An Giang) và Lê Đình Lý (phó lãnh binh Vĩnh Long), tiến đánh thu được Tàm Bôn và ngược dòng sông Tiền tiến về đồn Ba Nam (phumi Ba Nam). Nguyễn Văn Hoàng tiến quân hạ được đồn Ba Nam (Phumi Ba Nam, ở Neak Loeang trên ngã tư giao cắt giữa Quốc lộ số 1 (Campuchia) với sông Tiền Giang), Nguyễn Văn Hoàng liền chiêu an vỗ về dân chúng Cao Miên, và thám sát biết được rằng: quân Xiêm-Lạp do các tướng Cao La Hâm, Mộc Xá Na Lăng nắm, đã xây dựng ở phía thượng lưu sông Tiền Giang một phòng tuyến quanh đồn Thiết Thằng[13] (doc bờ sông và chặn ngang sông tại đồn Thiết Thằng) án ngữ trên bờ sông Tiền chặn đường tiến tới Nam Vang. Hoàng sai Hồ Đức Tú đánh hạ được đồn ngoài rìa (phía hạ lưu Thiết Thằng) của phòng tuyến trên sông này. (Phòng tuyến Thiết Thằng nằm khoảng 2 bờ sông Tiền Giang (Mê Kông) nay thuộc khoảng 2 huyện Kien Svay hay Lvea Aem tỉnh Kandal).
Ngày 14 tháng 6 âm năm Ất Tỵ (tức 18 tháng 7 năm 1845[14]), Doãn Uẩn tiến đánh đồn Sách Sô (nay là Phumi Khsach Sa thuộc khoảng các xã Roung Damrei, Reaks Chey huyện Ba Phnum) ở chi lưu sông Sách Sô (sông Preaek Say Sos, nối với sông Preaek Banam ở xã Banlich Prasat). Quân Cao Miên ở chi lưu sông Sách Sô (vùng Sách Sô thuộc huyện Nam Thịnh phủ Nam Ninh Trấn Tây[15]) kết bè mảng trên sông, đào hầm hố dựng lũy để chống quân nhà Nguyễn. Cánh quân của Doãn Uẩn đang đánh đồn Sách Sô, liền đến đóng đồn ở Bang Chích (khoảng xã Banlich Prasat huyện Peam Ro tỉnh Prey Veng ngày nay), rồi sai các phó cơ Nguyễn Khoa, Nguyễn Hữu Mỹ đem 400 quân hội với đạo quân ở sông Tiền Giang của Nguyễn Văn Hoàng.[16] Theo Ngoại Lãng tướng công niên biểu của Doãn Uẩn: "Ngày 14 tháng 6, công phá đầm lũy giặc ở Sách Sô...(Sách Sô tức là thượng du của phủ Nam Ninh, phía trước có đầm lớn, đảng giặc đã đắp lũy từ trước ở ven đầm, hai lớp trong ngoài dài hơn ngàn trượng. Tất chúng tử thủ. Ta chia binh làm hai đạo: lãnh binh binh Hồ Đức Tú và phó lãnh binh Lê Đình Lý cầm một ngàn binh từ phủ Tẩu Đà tiến vào, ta cùng lãnh binh Nguyễn Sáng dẫn hơn ngàn quân từ Ích Đà tiến vào. Bọn giặc dựa vào lũy đông như kiến, bắn ra. Ta thân đốc hai đạo quan binh oanh kích bằng pháo lớn. Ai nấy dũng cảm hăng hái,lên trước bạt lũy, đâm chết nhiều tên. Đảng giặc tan vỡ, vào rừng chống giữ. Quan binh liền đóng đồn trấn giữ ở Sách Sô."
Trong lúc đó, quân Xiêm La-Cao Miên lại vòng xuống quấy rối các đồn Vịnh Bích, Kha Đốc. Doãn Uẩn sai Trần Tri và Trương Lý đem quân chống giữ, rồi gửi thư xin viện binh cho Nguyễn Tri Phương. Đồng thời Uẩn tiến quân tới ngã ba sông Trà Mạt (còn gọi là ngã ba Ba Mi[17], nay khoảng phía nam xã Peam Mean Chey huyện Peam Ro), để hội quân với Nguyễn Văn Hoàng. Hoàng điều Hồ Đức Tú, Lê Đình Lý cùng 1000 quân theo Doãn Uẩn, còn mình lại về đánh mặt đồn Ba Nam. Hôm sau, Doãn Uẩn chia quân làm hai đạo tiến đánh Sách Sô: Doãn Uẩn, Nguyễn Sáng đánh mặt phải, mặt trái là Hồ Đức Tú và Lê Đình Lý. Hồ Đức Tú thúc quân lên bờ đánh thành, Doãn Uẩn kéo quân lội qua sông, ra mặt trước thành, bắn giết được một tướng Xiêm và hơn trăm quân đối phương. Lê Đình Lý bắn chết một tướng Xiêm. Cánh hữu, Nguyễn Sáng bắn trúng 10 quân Cao Miên và 20 quân Xiêm La. Hạ được đồn Sách Sô, Doãn Uẩn cho Hồ Đức Tú về đồn Ba Nam, và định rút quân ở 5 đồn Thị Đam (Cheang Daek), Vịnh Bích (Kampong Trabaek), Gò Bắc(Kansoam Ak), Kha Đốc (Sdau Kaong), và Bang Chích (Banlich Prasat) về tập trung đồn Sách Sô (Phumi Khsach Sa) để binh lực thêm hùng hậu, nên gửi thư về cho Nguyễn Tri Phương. Tri Phương không nhất trí, đưa thư đáp rằng nên tạm để quân tại các đồn đó để canh phòng.
Ở Nam Kỳ, Võ Văn Giải (hậu quân đô thống) và Tôn Thất Bạch (binh bộ thượng thư) đến An Giang, phân cho Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Nghị đem thuyền chở quân đến quân thứ Ba Nam, tăng cường cho Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng. Khi Tri Phương chưa tới, ngày 26 tháng 6 âm, 5000 quân Xiêm Lạp đến vây đạo quân của Doãn Uẩn ở đồn Sách Sô. Doãn Uẩn sai Lê Viên (quản cơ), Hồ Đức Tú, Nguyễn Sáng, đem binh chống giữ, bắn giết được tướng Xiêm, làm quân Xiêm Lạp tan vỡ.
Được tin thắng trận, vua Thiệu Trị khen ngợi các tướng sĩ hai đạo binh Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng, đồng thời dụ Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch rằng: cần đốc thúc 2 đao quân tiến nhanh tới hạ thành Nam Vang, và yêu cầu đạo binh thứ 3 theo kế hoạch ban đầu ở Tây Ninh dưới quyền Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực, lúc đó vẫn chưa tiến sang Cao Miên, phải tiến sang Ba Nam hội quân.
Tháng 7 âm, Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Nghị cùng viện binh đến được Ba Nam. Nguyễn Tri Phương sai quân chiêu dụ dân chúng Cao Miên, nhưng dân bị quân của Ang Duong kiềm tỏa không chịu theo ra. Thượng lưu dọc sông Tiền thuộc Ba Nam, quân Xiêm lập đồn lũy chạy ngang đến Thiết Thằng (quân Xiêm dùng xích sắt chắn ngang sông), bảo vệ Nam Vang. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng muốn nhanh chia đường tiến đánh Thiết Thằng, nhưng Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch cho rằng chưa nên đánh vì quân chưa hội đủ, dân Miên theo về chưa nhiều. Quan quân tâu về triều, vua dụ rằng cần phải tốc chiến tốc thắng (chỉ dụ của vua đến quân thứ ngày 22 tháng 7 âm). Trong khi đó, quân Xiêm lại quấy nhiễu đồn Sách Sô, Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) và Doãn Uẩn dẫn 1000 quân ra đánh dẹp, quân Xiêm thua chạy.[18]
Ngày 6 tháng 8 âm[19] (7 tháng 9 năm 1845), tại quân thứ Ba Nam, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn chia đường tiến đánh Thiết Thằng (đồn sắt): Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Nghị dẫn 3000 quân, Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng đem 2000 quân, 2 đạo đều tiến theo đường thủy sông Tiền Giang (Mê Kông) và có thổ dân Cao Miên dẫn đường. Quân Xiêm-Lạp hai bên bờ bắn ra đánh chặn, 2 đạo quân nhà Nguyễn hợp lại đồng loạt tấn công. Các tướng lĩnh Hồ Đức Tú, Lê Đình Lý, Hồ Hậu, Nguyễn Công Nhàn đều hăng hái lập công. Quân Việt tiêu diệt được 1 đại tướng của Xiêm cùng 600 quân Xiêm-Lạp (gồm cả người Xiêm, người Miên, người Lào, người Hoa), và thu được rất nhiều thuyền bè súng ống. Quân Việt chết một tướng là Trương Lý. Quân Xiêm của Chất Tri thua chạy bỏ đồn lũy rút về Nam Vang. Nhân đà thắng, quân Việt tiến thẳng đến Nam Vang, mất phòng tuyến Thiết Thằng (ngày 12 tháng 8 âm[19] tức 11 tháng 9 năm 1845), đại quân Xiêm-Lạp của Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) và Nặc Ông Đôn (tức Ông Giun, Ang Duong) rút lui khỏi Nam Vang vào ban đêm, chạy về phía Oudong cố thủ.[20] Doãn Uẩn nói về đồn Thiết Thằng như sau: "Năm Thiệu Trị thứ nhất,... Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) và Nặc Ông Đôn (tức Ông Giun, Ang Duong) chiếm Trấn Tây đã phá thành cũ, xây thành mới bằng gạch ở thượng lưu dài hơn trăn trượng. Lại đặt đồn lũy ở hai bên sông hạ lưu Sa An của Hậu Giang và Hách Chử của Tiền Giang, mà đồn Tiền Giang là kiên cố nhất, tả hữu đắp liền ba đồn, rào lũy dày đặc, đắp núi đất cao lên, bố trí nhiều hồng y đại pháo,lại làm khóa sắt ngang sông, tự coi là thế hiểm kiếm các, kiên cố không thể phá vỡ, cho nên gọi là Thiết Lũy, còn gọi là đồn Thiết Thằng."
Thu được thành Nam Vang (Phnom Penh), vua Thiệu Trị khen thưởng và thăng chức cho tướng sĩ quân Việt đánh Xiêm-Lạp, Nguyễn Văn Chương được thăng Hiệp biện đại học sĩ, Doãn Uẩn được thăng quyền thượng thư bộ Binh, các tướng bên dưới đều được thăng cấp và khen thưởng. Vua dụ Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) và Doãn Uẩn đem quân tiến gấp tới bến Vĩnh Long (Kampong Luong, trên bờ sông Tonlé Sap, nay là xã Kampong Luong huyện Ponhea Leu tỉnh Kandal) truy kích quân Xiêm-Lạp. Vua sai Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch, Nguyễn Văn Hoàng đi chiêu an dân chúng, ổn định đất Trấn Tây mới lấy lại. Vua điều binh từ Nam Kỳ tăng cường cho Trấn Tây, lấy quân từ các tỉnh Trung Kỳ kể từ kinh đô Huế trở vào bổ sung cho Nam Kỳ. Vũ Văn Giải (cuối tháng 8 đến được Trấn Tây) tâu xin tạm lập Nặc Ong Bướm (tức Ang Bhim, con của Ong Yêm (tức Ang Im, hay Ang Em)) lên ngôi vương, nhưng Thiệu Trị chưa thuận[21], vì đang cân nhắc giữa Bướm và Ngọc Vân (Ang Mey) con gái của vua Ông Chân (Ang Chan II). Dân Cao Miên về theo nhà Nguyễn khoảng 23000 người, các tướng người Cao Miên là Ốc Nha Sô Phì và Lịch Bồn Nha Trắc cũng kéo quân Miên ra hàng.
Tháng 9 âm năm 1845, Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch báo cáo cho Thiệu Trị về tình hình Trấn Tây rằng: hoàng thân Cao Miên là Ông Giun (Ang Duong) và tướng Xiêm là Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) lúc đó đang tụ tập tại vùng Vĩnh Long (Kampong Luong) và đô thành Oudong. Quân nhà Nguyễn do Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị đang ngược theo đường sông Tonlé Sap tiến về phía bến Vĩnh Long truy kích quân Xiêm-Lạp. Còn Giải cùng Bạch và Hoàng ở lại Nam Vang ổn định tình hình. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn tiến đánh đến bến Vĩnh Long, quân Xiêm hai bên bờ sông bắn ra ác liệt, quân Việt không thể tiến lên bờ được. Thiệu Trị liền lệnh cho Võ Văn Giải mang quân từ Nam Vang lên tăng cường đánh Oudong (để Bạch và Hoàng ở lại Nam Vang).
Vũ Văn Giải chưa tới nơi, thì Tri Phương đã cùng Hồ Đức Tú, Nguyễn Công Nhàn bỏ thuyền lên bộ, còn để lại Doãn Uẩn giữ thủy trại và đánh yểm hộ. Quân Xiêm bi vỡ trận, thua chạy rút về giữ thành Ô Đông (tức Oudong), ở phía Tây Nam bến Vĩnh Long. Thiệu Trị dụ quân tướng Việt ở Trấn Tây rằng cần phải bao vây quân Xiêm-Lạp tại Oudong (Oudong Meanchey), không cho quân Xiêm của Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) rút về Bắc Tầm Bôn (tức Battambang), để rồi tiêu diệt (Kampong Luong nằm ở vùng đất chắn giữa Oudong và Battambang). Thiệu Trị thăng chức cho các tướng nhà Nguyễn ở Trấn Tây: Võ Văn Giải làm Tiền quân Đô Thống kiêm Phủ biên tướng quân quản hạt Trấn Tây (chức của Trương Minh Giảng trước đó), Nguyễn Tri Phương làm Hiệp biện Đại học sĩ kiêm Khâm sai đại thần, Tôn Thất Bạch làm Tổng đốc An Giang, Doãn Uẩn làm Thượng thư Bộ Binh kiêm Tham tán đại thần Trấn Tây.[22] Thiệu Trị sai Nguyễn Lương Nhàn (tuần phủ Hà Tiên) đem 1000 quân cùng nhiều súng thần công lớn, đến huyện Khai Biên phủ Quảng Biên (tức Kampot ngày nay) chiêu an dân chúng và tuyển mộ người Cao Miên dẫn quân tiến đến phủ Hải Tây (nay là tỉnh Pursat), phía Tây Bắc của Ô Đông (Oudong Meanchey) để kép chặt vòng vây.
Bị vây chặt trong thành Oudong, cuối tháng 9, Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) gửi thư sang phía quân Việt xin cầu hòa 2, 3 lần. Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), Doãn Uẩn tạm đình chiến, giữ nguyên vòng vây không tiến đánh, đồng thời báo cáo về triều đình Huế, và cho quân Xiêm một hẹn ước hòa đàm.
Tháng 10 âm lịch, đến thời hạn hẹn ước hòa đàm, quân Xiêm sai hẹn không đến mà vẫn cố thủ giữ thành Oudong, quân Việt từ ngoại thành liền tiến đánh Oudong. Nguyễn Tri Phương từ mặt sông Tầm Nạp (nay khoảng bờ sông xã Samraong huyện Ponhea Leu, phía hạ lưu sông Tonlé Sap, tức phía Đông Nam Oudong) tiến vào, Doãn Uẩn từ mặt sông Vĩnh Long (Kampong Luong, phía thượng lưu sông Tonlé Sáp, tức mặt Đông Bắc Oudong) tiến đánh Oudong. Theo Ngoại Lãng tướng công niên biểu của Doãn Uẩn: "Sau đó (tức là sau khi đưa thư xin hòa), Chất Tri và Sá Ông Đôn (Ang Duong) trì hồi quá hạn. Ngày 28 tháng 9 (âm, tức 28-10-1845), [quân Việt] lại chia binh tiến công ở Vĩnh Long (Kampong Luong). Binh đạo Khâm sai (tức Nguyễn Văn Chương) đánh đường hữu lộ của chúng. Binh đạo Tham tán (tức Doãn Uẩn) đánh đường tả lộ của chúng." "... Hơn hai tuần (khoảng hơn 20 ngày), quân ta tiến đánh lũy giặc, chỉ hơn 20 trận. Ngày 20 tháng mười (âm tức 19-11-1845), đảng giặc ở trên lũy (thành Ô Đông) xin quan quân ngừng đánh đồn phóng pháo, để Chất Tri phái người đến quân thứ xin hòa. Vài ngày sau đó, [Nguyễn Văn Chương và Doãn Uẩn] mới tiếp tục phát gửi tờ tâu đệ tiền kỳ. Trong bản tâu có châu phê (lời vua): Giặc Xiêm thế cùng lực kiệt, vẫy đuôi xin tha, khẩu thỉnh cầu hòa, chẳng phải là không có kế hoãn binh. Mà xem thế chúng, ta đánh thì tất thắng, giữ thì khó, nên sắp xếp thế nào để được thể? Nội trị được vĩnh ninh, biên cương ngoại yên, nhiếp phục được ngoại di. Giao cho các đại thần mau chóng bàn bạc tâu lên. Khâm thử!" "Các đại thần văn võ họp bàn, thấy rằng đương lúc này binh uy vang động. Ta đã chiếm thế thượng phong. Hãy tạm hòa với chúng. Cho quân dân được tạm nghỉ sức, thì cũng chẳng đến nỗi không là thượng sách."
Theo Đại Nam thực lục: Tháng 11 (ngày 1-11 âm lịch là ngày 29-11-1845), mùa đông, năm Thiệu Trị thứ 5, Ất Tỵ (1845), Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng bàn tính, cho rằng Ô Đông tuy là cái cô thành, nhưng địa thế rất hiểm, lũy sách còn nhiều, Chất Tri và tên Giun dựa lẫn nhau, tất không chịu bỏ, thì đánh không biết đến bao giờ xong việc! Mà đánh để lấy thành, không bằng đánh bằng cách thu phục lòng người, xong việc quân cũng là xong việc nước. Chi bằng tạm cho xin hòa, để có thể thư sức dân quân.
Hậu quả
Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống, nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam. Tháng 2 âm lịch năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương (ý trao cho làm chủ toàn cõi Cao Miên gồm cả Nam Vang lẫn Oudong) và phong cho Ang Mey làm Cao Miên quận chúa (ý trao cho làm chủ vùng Trấn Tây (Nam Vang) nhà Nguyễn kiểm soát). Thiệu Trị lệnh cho quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây (vùng Nam Vang đến biên giới với Nam Kỳ của Đại Nam) rút về An Giang.[26] Quân đội Xiêm La do Chất Tri chỉ huy cũng rút về Battambang (vùng đất Thái Lan chiếm đóng của Campuchia trong suốt thế kỷ 19), Campuchia được độc lập trong vùng lãnh thổ nguyên là đất Trấn Tây giai đoạn (1836-1840), bao gồm cả Nam Vang và Oudong. Biên giới Nam Kỳ Lục tỉnh-Cao Miên, tuy chưa theo phong cách phương Tây hoạch định bằng văn bản hiệp định, nhưng về cơ bản trở về với đường ranh giới vào khoảng đầu năm 1841, khi Trương Minh Giảng rút quân Trấn Tây về An Giang, và trước khi quân Xiêm-Lạp xâm phạm Hà Tiên, An Giang đầu cuộc chiến. Biên giới này tồn tại cho đến sau khi Pháp xâm chiếm và ổn định xong Nam Kỳ, chiếm đóng và bảo hộ Cao Miên, thì được thay thế bởi ranh giới hành chính (nội bộ trong Liên bang Đông Dương) giữa Cao Miên và Nam Kỳ thuộc Pháp được hoạch định bởi hiệp định giữa Pháp và triều đình Cao Miên.
Chú thích
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, tập 6, trang 303,312.
- ^ a ă Chép lại theo Sơn Nam, Lịch sử An Giang, tr. 12-13.
- ^ Ý nói đến tướng Trương Minh Giảng và Tham tán Lê Đại Cương.
- ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, Quyển 4, tr. 372.
- ^ U Đông: Kinh đô cổ Cămpuchia thời kì từ 1620 đến 1867. Đây là tên một dãy núi nhỏ ở giữa đồng bằng, cách Phnôm Pênh khoảng 20 km về phía tây. Hiện chỉ còn một số di tích đền, tháp và nền cũ của hoàng cung.
- ^ Việt Nam sử lược, tr. 467. Theo Sơn Nam, thì Trương Minh Giảng chết vì bệnh, nhưng lý do chính là vì buồn giận triều đình. (Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tr. 91)
- ^ Việt Nam sử lược, tr. 47.
- ^ Theo Sơn Nam thì Sách Sô nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, nhưng Đại Nam thực lục thì viết rằng: Sách Sô thuộc địa hạt huyện Nam Thịnh, phủ Nam Ninh kiêm lý (tức Nam Thịnh thuộc phủ Nam Ninh nhưng có phủ lỵ ở Nam Thịnh), Nam Thịnh là đổi tên từ Ba Nam năm 1840 mà thành. Ba Nam thưc tế nằm bên tả sông Tiền, còn sông Hậu thực tế nằm bên bờ hữu sông Tiền.
- ^ Lược theo Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, tr. 91-92.
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, tập 6, trang 735.
- ^ Biên giới Việt Nam-Campuchia.
- ^ a ă Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, tập 6, trang 737.
- ^ Đại Nam thực luc, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, trang 741.
- ^ a ă đối chiếu âm lịch với dương lịch.
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XXI, tập 6, trang 363.
- ^ Đại Nam thực lục, quyển XLVIII, trang 742.
- ^ Trong cuốn Trấn Tây kỷ lược, Doãn Uẩn viết: "Xứ ngã ba Ba Mi có dòng sông nhỏ chảy qua, rồi rẽ ngang sang sông nhánh Ba Nam. Lại một dòng chảy thông sang sông bé Tiền Giang, chảy xuống đến Thông Bình..."
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLIX, tập 6, trang 748.
- ^ a ă bài Một số sự kiện về cuộc đời và sự nghiệp của Doãn Uẩn, tác giả Doãn Đoan Trinh, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1(357)/2006, trang 67. ISSN.0866-7497.
- ^ Đại Nam thực lục, quyển XLIX, trang 759.
- ^ Đại Nam thực lục, đệ tam kỷ, quyển XLIX, trang 760-761.
- ^ Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển L, tập 6, trang 765.
- ^ Doãn tướng công hoạn tích, Doãn Uẩn, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: A.192:243 tr, 32 x 22. và A.2177: 316 tr, 28 x 17.
- ^ Đại Nam thực lục chính biên, trang 785, tập 6.
- ^ Đại Nam thực lục chính biên, trang 788, tập 6.
- ^ Việt Nam sử lược, tr. 477-468.
- ^ http://khoalichsu.edu.vn/bai-nghien-cu/87-ch-quyn-lanh-th-ca-vit-nam-tren-vung-t-nam-b.html Chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ, của Vũ Minh Giang.
- ^ Các hiệp định biên giới Việt Nam – Campuchia thời Pháp thuộc và vấn đề cơ sở chính trị - pháp lý của đường biên giới Việt Nam – Campuchia, cổng điện tử Cà Mau, Nguyễn Sỹ Tuấn đăng ngày 01/10/2014.
- ^ (tiếng Pháp) Michel Blanchard,Vietnam-Cambodge: Une frontière contestée, chap. III (« Les données historiques: de la limite territoriale au tracé frontalier »), p. 33–43
Tài liệu tham khảo
-
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1964
- Sơn Nam, Lịch sử An Giang, NXB Tổng hợp An Giang, 1988.
- Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang Miền Nam. Nxb Văn nghệ TP. HCM, 1994.
- Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, Quyển 4. Tủ sách Sử học Việt Nam, sài Gòn, 1961.
- Hoàng Văn Lân & Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858- cuối XIX), Q. 3, Tập 2. Nxb Giáo dục, 1979.
- Phạm Việt Trung - Nguyễn Xuân Kỳ - Đỗ Văn Nhung, Lịch sử Campuchia. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1981.
Chiến tranh Việt-Xiêm |
---|
Chiến tranh Việt–Xiêm (1718) • Chiến tranh Việt–Xiêm (1771-1772) • Chiến tranh Việt-Xiêm (1784-1785) • Chiến tranh Việt–Xiêm (1833-1834) • Chiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845) |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment