Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tính từ năm 1981 tới 2007, bệnh AIDS đã giết chết hơn 25 triệu người,[1] và tới năm 2007 ước tính có khoảng 33,2 triệu người trên khắp thế giới bị nhiễm HIV,[2] làm cho HIV/AIDS trở thành một trong các dịch bệnh phá hoại nhất trong lịch sử. Mặc dù gần đây, việc điều trị và phòng chống HIV đã được cải thiện ở nhiều vùng trên thế giới, nhưng chỉ riêng năm 2007, đã có khoảng 2 triệu người bị chết vì bệnh AIDS,[3] trong đó có khoảng 270.000 trẻ em.[4]
Mục lục
Lịch sử
"Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS" được James W. Bunn và Thomas Netter, hai viên chức thông tin đại chúng cho "Chương trình toàn cầu về bệnh AIDS" của Tổ chức Y tế Thế giới tại Genève, Thụy Sĩ nghĩ ra lần đầu trong tháng 8 năm 1987.[5][6] Bunn và Netter nêu ý kiến của họ cho Dr. Jonathan Mann, Giám đốc Chương trình toàn cầu về bệnh AIDS (nay gọi là Chương trình chung của Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS). Dr. Mann thích sáng kiến này, đã chấp thuận và đồng ý với khuyến nghị về việc tổ chức "Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS" đầu tiên vào ngày 1 tháng 12 năm 1988.Bunn – nguyên là một nhà báo của đài truyền hình KPIX ở San Francisco, Hoa Kỳ, tạm nghỉ phép – đã tiến cử ngày 1 tháng 12 vì tin rằng ngày này sẽ được các phương tiện truyền thông phương Tây theo dõi loan tin tối đa. Vì năm 1988 là năm bầu cử ở Hoa Kỳ, Bunn cho rằng các phương tiện truyền thông sẽ chán loan tin hậu bầu cử (sau đầu tháng 11) và hăm hở tìm chuyện mới để loan tin. Bunn và Netter xác định là ngày 1 tháng 12 đủ xa sau sự kiện bầu cử và đủ sớm trước kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, trên thực tế, là một điểm chết trong lịch tin tức và do đó là thời gian thích hợp nhất cho (việc loan tin về) Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS.
Ngày 18.6.1986 chương trình "AIDS Lifeline" của đài truyền hình KPIX - một dự án giáo dục cộng đồng – có vinh dự được tổng thống Ronald Reagan nêu ra như một dẫn chứng về sáng kiến trong khu vực tư nhân. Do vai trò đồng sáng tạo chương trình "AIDS Lifeline" Bunn được Dr. Mann yêu cầu – nhân danh chính phủ Hoa Kỳ - nghỉ phép 2 năm (ở đài truyền hình KPIX) để theo Dr. Mann, một nhà dịch tễ học làm việc ở các Trung tâm kiểm soát bệnh, để phụ tá trong việc sáng tạo "Chương trình toàn cầu về bệnh AIDS" cho Tổ chức Y tế Thế giới của Liên Hiệp Quốc. Bunn đồng ý và được bổ nhiệm làm Viên chức thông tin đại chúng thứ nhất cho Chương trình toàn cầu về bệnh AIDS. Cùng với Netter, Bunn đã nghĩ ra, thiết kế và thực hiện lễ khai mạc "Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS" đầu tiên – nay là nhận thức và sáng kiến phòng chống bệnh kéo dài nhất trong lịch sử y tế công cộng.
Chương trình chung của Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS (Joint United Nations Programme on HIV/AIDS) (UNAIDS) đã bắt đầu hoạt động vào năm 1996, và nắm việc quy hoạch và xúc tiến Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS.[7] Thay vì tập trung vào một ngày duy nhất, Chương trình chung của Liên Hiệp Quốc về HIV/AID đã lập ra "Chiến dịch thế giới phòng chống AIDS" vào năm 1997 để tập trung vào thông tin, phòng chống và giáo dục về HIV/AIDS quanh năm.[7][8]
Trong 2 năm đầu, chủ đề của Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS tập chú vào các trẻ em và người trẻ. Các chủ đề trên lúc đó đã bị chỉ trích mạnh mẽ vì đã lờ đi sự kiện là người ta thuộc mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm HIV và bệnh AIDS.[7] Tuy nhiên, các chủ đề đã thu hút sự chú ý tới nạn dịch HIV/AIDS, giúp giảm bớt một số kỳ thị xung quanh căn bệnh này, và giúp thúc đẩy sự nhìn nhận vấn đề là một bệnh gia đình.[7]
Năm 2004, "Chiến dịch thế giới phòng chống bệnh AIDS" đã trở thành một tổ chức độc lập.[7][8][9]
Hàng năm, các giáo hoàng Gioan Phaolô II và giáo hoàng Biển Đức XVI đều gửi điện văn chào mừng tới các bệnh nhân và các thầy thuốc trong Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS.[10][11][12][13][14][15]
Việc chọn chủ đề
Từ khi bắt đầu cho tới năm 2004, Chương trình chung của Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS, cơ quan dẫn đầu chiến dịch Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS, đã lựa chọn các chủ đề hàng năm có tham khảo ý kiến các tổ chức y tế toàn cầu khác.Tính đến năm 2008, chủ đề Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS mỗi năm đều do Ban Chỉ đạo toàn cầu của Chiến dịch thế giới phòng chống bệnh AIDS lưa chọn sau khi tham khảo ý kiến rộng rãi với những người, tổ chức và cơ quan chính phủ tham gia trong công tác phòng chống và điều trị HIV/AIDS.[7] Đối với mỗi Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS từ năm 2005 đến năm 2010, thì chủ đề là "Hãy chặn đứng bệnh AIDS. Hãy giữ vững cam kết", với một chủ đề phụ, hàng năm.[7] Chủ đề bao quát này được thiết kế để khuyến khích các nhà lãnh đạo chính trị giữ cam kết của họ cho mọi người được quyền tiếp cận việc phòng chống, điều trị HIV/AIDS, chăm sóc, và hỗ trợ vào năm 2010.[7]
Các chủ đề Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS từ năm 1988–tới nay[16]

Một dải băng đỏ treo giữa các cột ở cổng phía bắc của Nhà Trắng nhân Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS, 30.11.2007

Một bao cao su dài 67 m trên Obelisk of Buenos Aires (Cột hình tháp cùa thành phố Buenos Aires), Argentina, là một phần chiến dịch nhận thức cho Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS năm 2005
1988 | Truyền thông |
1989 | Giới trẻ |
1990 | Phụ nữ và bệnh AIDS |
1991 | Chia sẻ sự Thách thức |
1992 | Cam kết của Cộng đồng |
1993 | Hành động |
1994 | Bệnh AIDS và gia đình |
1995 | Các quyền chung, Các trách nhiệm chung |
1996 | Một thế giới. Một hy vọng |
1997 | Cuộc sống của trẻ em trong một thế giới có bệnh AIDS |
1998 | Sức mạnh để Thay đổi: Chiến dịch thế giới phòng chống AIDS với các người trẻ |
1999 | Nghe, Học, Sống: Chiến dịch thế giới phòng chống AIDS với trẻ em & người trẻ |
2000 | AIDS: Người có ảnh hưởng |
2001 | Tôi quan tâm. Còn anh? |
2002 | Dấu hiệu ghét bỏ và Sự phân biệt đối xử |
2003 | Dấu hiệu ghét bỏ và Sự phân biệt đối xử |
2004 | Phụ nữ, Thiếu nữ, HIV và AIDS |
2005 | Hãy chặn đứng AIDS. Hãy giữ lời cam kết |
2006 | Hãy chặn đứng AIDS. Hãy giữ lời cam kết – Trách nhiệm |
2007 | Hãy chặn đứng AIDS. Hãy giữ lời cam kết – Sự lãnh đạo |
2008 | Hãy chặn đứng AIDS. Hãy giữ lời cam kết – Lãnh đạo – Trao sức mạnh và Sự tin tưởng – Cứu giúp [17] |
2009 | Quyền đạt được cho mọi người và Nhân quyền[18] |
2010 | Quyền đạt được cho mọi người và Nhân quyền[18] |
Tháng nhận thức bệnh AIDS
Nhiều chính phủ và nhiều tổ chức đã công bố lấy các tháng khác nhau làm Tháng nhận thức bệnh AIDS. Tháng được chọn nhiều nhất là tháng 10 và tháng 12. Tháng 12 được chọn vì trùng với Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS.Tham khảo
- ^ Joint United Nations Programme on HIV/AIDS (UNAIDS), Report on the Global HIV/AIDS Epidemic 2008, (Geneva, Switzerland: UNAIDS, July 2008; English original), p. 15.
- ^ Joint United Nations Programme on HIV/AIDS (UNAIDS), Report on the Global HIV/AIDS Epidemic 2008, (Geneva, Switzerland: UNAIDS, July 2008; English original), p. 32.
- ^ Joint United Nations Programme on HIV/AIDS (UNAIDS), Report on the Global HIV/AIDS Epidemic 2008, (Geneva, Switzerland: UNAIDS, July 2008; English original), p. 30.
- ^ Joint United Nations Programme on HIV/AIDS (UNAIDS), Report on the Global HIV/AIDS Epidemic 2008, (Geneva, Switzerland: UNAIDS, July 2008; English original), p. 37.
- ^ U.S. Centers for Disease Control and Prevention, International News, "World AIDS Day Co-Founder Looks Back 20 Years Later", CDC HIV/Hepatitis/STD/TB Prevention News Update, December 12, 2007
- ^ "AIDS Day Co-Founder Looks Back after 20 Years" By Rose Hoban, Voice of America, 06 December, 2007
- ^ a ă â b c d đ e Speicher, Sara. "World AIDS Day Marks 20th Anniversary Of Solidarity." Medical News Today. November 19, 2008.
- ^ a ă van Soest, Marcel. "Accountability: Main Message on World AIDS Day." Joint United Nations Programme on HIV/AIDS. Oct 20, 2006.
- ^ Yearbook of the United Nations 2005. Vol. 59 Geneva, Switzerland: United Nations Publications, 2007. ISBN 9211009677
- ^ First World AIDS Day in 1988
- ^ Message for the World AIDS Day
- ^ Pope: "I feel near to people with AIDS and their families"
- ^ Message of Caritas Internationalis On Occasion of World AIDS Day 2006
- ^ Pope skirts condoms issue in World AIDS Day statement
- ^ Message from the Pope on World AIDS Day
- ^ World AIDS Day, Minnesota Department of Health, 2008
- ^ Dr. Peter Piot, "2008 World AIDS Day statements," Joint United Nations Programme on HIV/AIDS (UNAIDS), November 30, 2008.
- ^ a ă World AIDS Day avert.org
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS |
- World AIDS Day Campaign - Site no longer available
- The Official Unite Against Aids Concert on World Aids Day
- The World AIDS Campaign
- AVERT.org's World AIDS Day page
- WorldAIDSDay.org
- Africa Centre for HIV/AIDS Management
- AIDSPortal events page World AIDS Day and other AIDS related events
- Engenderhealth and World AIDS Day
- World AIDS Day
- World AIDS Day, Resources from the Kaiser Family Foundation
- "Echoes Of Yourself in The Mirror" is a trailer for documentary that features Cleve Jones, creator of the AIDS Memorial Quilt, speaking at San Francisco State University during World AIDS Day
- Love Amplified, World AIDS Day 2008 Concert in Singapore
- AIDS.gov World AIDS Day 2008
- Department of Health and Human Services HIV/AIDS Awareness Days Website
- National Black HIV/AIDS Awareness Day (2/7)
- National Women and Girls HIV/AIDS Awareness Day (3/10)
- National Native HIV/AIDS Awareness Day (3/20): http://www.nnaapc.org, http://www.itcaonline.com and http://www.happ.colostate.edu
- HIV Vaccine Awareness Day (5/18): www.niaid.nih.gov/news/events/HVAD and http://bethegeneration.nih.gov
- National Asian & Pacific Islander HIV/AIDS Awareness Day (5/19)
- Caribbean American HIV/AIDS Awareness Day (6/8)
- National HIV Testing Day (6/27): www.napwa.org/public/programs/nhtd.php and www.hivtest.org
- National HIV/AIDS and Aging Awareness Day (9/18)
- National Latino AIDS Awareness Day (10/15)
- World AIDS Day in Sapporo
- World AIDS Day - Online Memorials to AIDS Victims
- Rhode Island College LibGuide - World AIDS Day
- World AIDS Day Quotes
Cộng hòa Trung Phi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Trung Phi | |||||
---|---|---|---|---|---|
République centrafricaine (tiếng Pháp) | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Unité, Dignité, Travail (tiếng Pháp: "" |
|||||
Quốc ca | |||||
tiếng Pháp: La Renaissance, tiếng Sango: E Zingo | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa tổng thống | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Catherine Samba - Panza Elie Doté |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Pháp | ||||
Thủ đô | Bangui |
||||
Thành phố lớn nhất | Bangui | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 622.984 km² | ||||
Diện tích nước | 0% % | ||||
Múi giờ | CUT (UTC+1) | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | 13 tháng 8 năm 1960 |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2003) | 3.683.538 người (hạng 124) | ||||
Dân số (2003) | 3.032.926 người | ||||
Mật độ | 5,8 người/km² | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 4,53 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,355 thấp (hạng 171) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Franc CFA (XAF ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .cf |
Mục lục
Lịch sử
Lịch sử thời kì tiền thuộc địa của quốc gia này ít được biết đến. Người Banda, người Ngbadi, người Baya và người Azande là các nhóm sắc tộc chính ở vùng này. Từ thập kỷ 70 của thế kỉ 19, người châu Âu bắt đầu thám hiểm vùng này.Năm 1889, Pháp lập một tiền trạm tại Bangui, thành lập vùng thuộc địa giữa hai sông Oubangui và Chari năm 1905 và sáp nhập vào lãnh thổ Châu Phi Xích đạo thuộc Pháp năm 1910. Vùng lãnh thổ này trở thành Cộng hòa Trung Phi với tư cách là nước tự trị thuộc Cộng đồng nước Pháp năm 1958.
Năm 1960, Cộng hòa Trung Phi tuyên bố độc lập và David Dacko trở thành Tổng thống. Năm 1966, Jean Bedel Bokassa lên cầm quyền sau cuộc đảo chính. Bokassa tuyên bố trở thành Tổng thống trọn đời năm 1972. Năm 1976, Tổng thống Jean Bedel Bokassa tuyên bố làm Hoàng đế, đổi tên nước thành Vương quốc Trung Phi.
Những xáo trộn kinh tế - xã hội, các cuộc đàn áp đẫm máu đối với những người chống đối và những cuộc tàn sát học sinh trung học dẫn đến việc Pháp giúp đỡ Tổng thống David Dacko lật đổ Bokassa, trở lại cầm quyền và lập nền cộng hòa năm 1979. Sau cuộc tuyển cử Tổng thống năm 1981, Tướng Kolingba tiến hành đảo chính và lãnh đạo đất nước. Mặc dầu Hiến pháp mới được thông qua (1986) và trở lại chế độ đa đảng (1991- 1992), Kolingba cũng không thể duy trì quyền lực. Năm 1993, Ange Félix Patassé đắc cử Tổng thống. Tháng 3 năm 1998, "Hiệp ước hòa giải dân tộc" được kí kết tại Bangui. Tổng thống Patassé sống sót sau cuộc mưu toan đảo chính tháng 5 năm 2001. Tháng 3 năm 2003, Tướng Francois Bozizé lật đổ Tổng thống Patassé và tự tuyên bố trở thành Tổng thống. Ngày 13 tháng 3 năm 2005, trong cuộc bầu cử Tổng thống ở Trung Phi, Francois Bozizé đã đắc cử với số phiếu 64,6%.
Chính trị
Trung Phi thực hiện đường lối chính trị đa đảng, mở cửa. Đảng cầm quyền hiện nay là Phong trào giải phóng nhân dân Trung Phi (Đảng của Tổng thống).Các Đảng phái đối lập:
- Liên minh vì nền Dân chủ và Tiến bộ (ADP),
- Đảng Cộng hoà Trung Phi (PRC),
- Phong trào Dân chủ vì Đổi mới và Tiến bộ ở Trung Phi (MDREC).
Do tình hình an ninh chính trị có nhiều phức tạp, năm 1998, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thông qua Nghị quyết 1159 thiết lập lực lượng gìn giữ hoà bình ở Trung Phi (MINURCA) thay thế cho lực lượng Liên Phi; MINURCA đã kết thúc sứ mệnh của mình năm 2000. Hiện nay, Văn phòng kiến tạo hoà bình của Liên Hiệp Quốc tại Cộng hòa Trung Phi (BONUCA), được thành lập năm 1999 để hỗ trợ các hoạt động của MINURCA vẫn đang hoạt động.
Gần đây, do chịu ảnh hưởng của xung đột Darfur (Sudan), khu vực Đông-Bắc của Trung Phi còn có những bất ổn do làn sóng người tị nạn từ Darfur cũng như xung đột giữa một số lực lượng phiến quân tại khu vực biên giới chung với Sudan và Chad. Trong bối cảnh đó, ngày 25 tháng 9 năm 2007, Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 1778 cho phép triển khai tại Trung Phi và Sát lực lượng quốc tế trên cơ sở phối hợp với EU để thực thi các nhiệm vụ trấn áp bạo lực, bảo vệ dân thường, người tị nạn và giám sát nhân quyền. Tháng 10 năm 2007, EU đã thông qua quyết định triển khai lực lượng của mình (EUFOR) tại khu vực này.
Ngày 26 tháng 6 năm 2008, Cộng hòa Trung Phi và hai phe nổi dậy (Quân đội nhân dân phục hồi nền dân chủ và Liên minh các lực lượng dân chủ vì tập hợp) ở miền Bắc đã ký Hiệp định hoà bình chung tại Gabon theo đó tiến hành giải giáp các phe nhóm nổi dậy, ân xá cho các binh sĩ và tái hoà nhập họ vào cộng đồng. Trước đó, hai phe này đã từng ký hiệp định riêng rẽ với chính phủ Trung Phi.
Tháng 12 năm 2008, Trung Phi tổ chức đối thoại chính trị mở rộng với sự tham gia của tất cả các phe phái chính trị, kể cả phe của cựu Tổng thống Ange Félix Patassé, và đề ra lộ trình chấm dứt xung đột vũ trang và bất ổn chính trị.
Đối ngoại
Trung Phi là thành viên Liên Hiệp Quốc, Liên minh châu Phi (AU), Phong trào không liên kết, Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ và nhiều tổ chức khác.Trung Phi có quan hệ mật thiết với Pháp trên nhiều lĩnh vực. Pháp đang hỗ trợ quân sự cho các lực lượng của Trung Phi. Trong giai đoạn 1970-1980, Libya tích cực tranh giành ảnh hưởng với Pháp tại Trung Phi và tháng 5 năm 2001, Libya từng triển khai quân tại Bangui để yểm trợ cho Tổng thống Ange Félix Patassé.
Bên cạnh đó, Trung Phi tăng cường quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây. Đầu năm 1989, Trung Phi công nhận nhà nước Ixraen và Palestin.
Từ năm 2005, đến nay, Trung Phi tìm cách đa dạng hoá quan hệ đối ngoại với các nước khác như các nước vùng Vịnh, Trung Quốc, Nam Phi.
Địa lí
Cộng hòa Trung Phi nằm ở khu vực Trung Phi, Bắc giáp Chad, Nam giáp Cộng hòa Congo và Cộng hòa Dân chủ Congo, Đông giáp Sudan vâ Tây giáp Cameroon. Địa hình phần lớn là vùng cao nguyên rộng lớn nằm giữa hai vùng trũng ở phía bắc và phía nam.Khí hậu
Khu vực cao nguyên phía nam nằm trong miền khí hậu cận xích đạo, thuận lợi cho các khu rừng nhiệt đới phát tnển, do lượng mưa giảm dần nên khu vực phía bắc phần lớn là các vùng thảo nguyên.Các tỉnh và đơn vị dưới tỉnh
Các tỉnh gồm:
Kinh tế
Trung Phi là một trong những nước nghèo ở châu Phi. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp. Nông nghiệp chiếm hơn 1/2 GDP, gỗ chiếm 16% thu nhập xuất khẩu và công nghiệp kim cương chiếm 40%. Sản phẩm nông nghiệp có: bông, cà phê, sắn, lạc, lúa, ngô, kê... Về khoáng sản ngoài kim cương còn có sắt, măng gan, niken... nhưng sản lượng thấp.Hạn chế của Trung Phi là nước không tiếp giáp với biển, hệ thống giao thông lạc hậu, phần lớn là lực lượng lao động không có nghề. Thiếu sự chỉ đạo trong phát triển kinh tế vĩ mô. Tình hình bất ổn cản trở kinh tế phát triển. Phân phối thu nhập bất bình đẳng. Mặc dù được Pháp và cộng đồng quốc tế viện trợ nhưng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu thiết yếu trong nước.
Trung Phi xuất khẩu kim cương, gỗ, bông, cà phê, thuốc lá sang các nước Bỉ (22%), Indonesia (19,3%), Ý (7,7%), Pháp (7,1%), Cộng hòa Dân chủ Công Gô (6,8%). Giá trị xuất khẩu đạt 146,7 triệu USD (2007). Nhập khẩu thực phẩm, hàng dệt may, xăng dầu, máy móc thiết bị, động cơ ôtô, hoá chất, dược phẩm từ các nước Pháp (16,6%), Hà Lan (13%), Cameroon (9,7%), Mỹ (6,3%). Giá trị nhập khẩu là 237,3 triệu USD (2007).
Năm 2010, tổng sản phẩm quốc nội của Trung Phi là 2,2 tỷ USD, tăng trưởng 3,7% so với năm 2006. GDP bình quân đầu người của Trung Phi là hơn 400 USD người/năm. Tỷ lệ lạm phát được duy trì dưới 1%/năm.
Về ngoại thương, năm 2010, Trung Phi xuất khẩu khoảng 200 triệu USD hàng hoá các loại, trong đó các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của nước này là kim cương, gỗ, bông, cà phê, thuốc lá. Các đối tác xuất khẩu của Trung Phi là Bỉ, Ý, Tây Ban Nha, Indonesia, Pháp, Mỹ. Kim ngạch nhập khẩu năm 2010 của Trung Phi là 300 triệu USD. Các mặt hàng mà nước này thường nhập là thực phẩm, hàng dệt may, sản phẩm xăng dầu, máy móc, thiết bị điện, xe cộ, hoá chất, dược phẩm, hàng tiêu dùng, sản phẩm công nghiệp. Các bạn hàng nhập khẩu của Trung Phi là Pháp, Mỹ, Cameroon, Bỉ.
Dân cư
Dân số của nước Cộng hòa Trung Phi đã tăng gấp bốn lần kể từ khi độc lập. Năm 1960, dân số là 1.232.000; ước tính của Liên Hợp Quốc năm 2009, nó là 4.422.000.[1] Liên Hiệp Quốc ước tính rằng khoảng 11% dân số trong độ tuổi từ 15 đến 49 bị nhiễm HIV. Chỉ có 3% là dương tính với căn bệnh này.[2] Dân cư được chia thành hơn 80 nhóm dân tộc, mỗi nhóm có ngôn ngữ riêng của mình. Các nhóm dân tộc lớn nhất là Baya, Banda, Mandjia, Sara, Mboum, M'Baka, Yakoma, và Fula hoặc Fulani.[3], với nhóm nhỏ người Pháp.Hơn 55% dân số sống ở khu vực nông thôn. Các lĩnh vực nông nghiệp chính tập trung xung quanh Bossangoa và Bambari. Bangui, Berberati, Bangassou, và Bossangoa là các trung tâm đô thị đông dân cư nhất.
Trung Phi cũng là quốc gia có tỷ lệ dân sô trẻ cao nhất châu Phi. Tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi trong năm 2010 là 40,4%, 55,6% là từ 15 đến 65 tuổi, trong khi 4% là 65 tuổi trở lên.[4]
Tôn giáo
Khoảng 80% dân số của nước Cộng hòa Trung Phi là Kitô hữu. Người ta tin rằng nhiều người trong số những người theo này kết hợp yếu tố truyền thống bản địa vào việc thực hành đức tin của họ.[5]Tín hữu Công giáo và Tin Lành phân bố rải rác khắp lãnh thổ. Hồi giáo tập trung chủ yếu ở phía bắc. Khoảng 51% dân số là Tin Lành, 29% là Công giáo La Mã, và 10% là người Hồi giáo. Tín ngưỡng bản địa truyền thống được thực hiện bởi khoảng 10% dân số.[6] Ngoài ra, còn có các nhóm truyền giáo thuộc các giáo phái Kitô giáo khác như Giáo hội Luther, Baptist, và Nhân chứng Jehovah.
Công giáo Rôma ở Trung Phi chiếm trên dưới 900.000 tín hữu đại diện cho khoảng một phần tư dân số. Có chín giáo phận và một tổng giáo phận:
Hồi giáo chiếm khoảng 10% (500.000 người) dân số của nước Cộng hòa Trung Phi, làm cho nó làm cho nó trở thành tôn giáo lớn thứ 2 sau Kitô giáo. Hầu hết người Hồi giáo Trung Phi sống ở phía bắc, phía đông, các vùng gần biên giới với Chad và Sudan.[6]
Hiến pháp (bị đình chỉ từ năm 2003) quy định về tự do tôn giáo trong khi cấm một số hình thức cực đoan tôn giáo. Lệnh cấm này thường được coi là hướng về trào lưu chính thống Hồi giáo. Ngày lễ Kitô giáo được tổ chức như ngày lễ quốc gia. Tất cả các nhóm tôn giáo phải đăng ký thông qua Bộ Nội vụ. Giáo Hội Thống Nhất đã bị cấm kể từ giữa những năm 1980. Việc thực hành phù thủy được coi là một hành vi phạm tội hình sự, tuy nhiên truy tố thường chỉ được thực hiện kết hợp với hoạt động tội phạm khác, chẳng hạn như giết người.
Giáo dục
Giáo dục bắt buộc và miễn phí đối với trẻ em (bắt đầu từ năm 7 tuổi). Cả nước có khoảng 2/3 trẻ em theo học đầy đủ. Các cơ sở và phương tiện dạy và học còn rất thiếu thốn, khoảng 10% số học sinh theo học tiếp chương trình trung học và 2% số học sinh học lên đại học (hoặc các trường kĩ thuật).Y tế
Các bệnh tật như sốt rét, viêm gan, bại liệt, giun sán... khá phổ biến. Trung Phi chưa có đủ các dịch vụ chăm sóc y tế. Cán bộ y tế thường làm việc tận tụy nhưng được trả lương rất thấp. Hoạt động y tế ở nông thôn được sự tài trợ của các bệnh viện tư ở thủ đô và các nhà truyền giáo.Tham khảo
- ^ http://www.un.org/esa/population/publications/wpp2008/wpp2008_text_tables.pdf
- ^ http://data.unaids.org/pub/GlobalReport/2006/2006_GR_ANN3_en.pdf
- ^ In Fula: Fulɓe; in French: Peul
- ^ http://esa.un.org/unpd/wpp/index.htm
- ^ http://www.state.gov/j/drl/rls/irf/2010/148671.htm
- ^ a ă http://www.minplan-rca.org/pays
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cộng hòa Trung Phi |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cộng hòa Trung Phi |
Thể loại:
Trần Nghệ Tông (chữ Hán: 陳藝宗, tháng 12, 1321 - 15 tháng 12, 1394) là vị hoàng đế thứ 8 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là em trai của hoàng đế Trần Hiến Tông và là anh trai của hoàng đế Trần Dụ Tông, giữ tước vị Cung Định Vương (恭定王) dưới triều hai vị hoàng đế này.[1]
Ông là vị hoàng đế có công lật đổ Dương Nhật Lễ và khôi phục lại cơ đồ cho triều đại nhà Trần.[1] Tuy nhiên, sự thiếu quyết đoán của ông đã khiến quyền bính rơi vào tay của ngoại thích Lê Quý Ly, em họ bên ngoại của ông. Do đó, dẫu được ca ngợi là "công nghiệp lớn lao,[1] ông cũng bị sử sách phê phán là nhu nhược, "nối giáo cho giặc".[2] Ngoài ra, như một vị Hoàng đế không có bản lĩnh, ông không thể chống nổi sự xâm phạm của quân Chiêm Thành, khiến có lúc kinh đô Thăng Long bị thất thủ về tay giặc[1]. Và ông, cùng với vua em Trần Dụ Tông trước kia, trở thành hai vị hoàng đế gây ra sự suy vong cho triều đại nhà Trần.[2]
Ít lâu sau khi lên ngôi, ông lên làm Thái thượng hoàng vào năm 1372, nhường ngôi cho em là Trần Kính - tức Trần Duệ Tông. Duệ Tông hoàng đế tử trận trong cuộc tiến công Chiêm Thành vào năm 1377, và bất chấp Đỗ Tử Bình là kẻ tội đồ cho thảm bại này, ông lại nương tay với Tử Bình. Cho đến cuối đời, ông vẫn có thái độ mù quáng và tin dùng Quý Ly. Họa Chiêm Thành chỉ lắng xuống khi quân Đại Việt dưới quyền Trần Khát Chân thắng lớn vào năm 1390.[2]
Vào năm 1332, tức là năm Khai Hựu thứ 4 đời Hiến Tông, một lần vị Hoàng tử 11 tuổi Trần Phủ theo hầu Thượng hoàng Minh Tông tại cung Trùng Quang. Hôm ấy, mưa to gió lớn, và ông đã chế tác một bài thơ, trong đó có đoạn:[1]
Dưới triều Trần Hiến Tông, ông được phong làm Phiêu Kỵ Thượng Tướng Quân, trấn thủ trấn Tuyên Quang vào năm Mậu Dần 1338, niên hiệu Khai Hựu năm thứ 10.[1]
Vào năm Quý Tỵ 1353, niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 13, dưới triều Trần Dụ Tông, ông lại được phong làm Hữu Tướng Quốc.[1]
Vào năm Đinh Mùi 1367, niên hiệu Đại Trị năm thứ 10 đời Trần Dụ Tông, ông được cử làm Tả Tướng Quốc.[1]
Khi ấy, nhà Minh bên Trung Quốc cử hai sứ thần Ngưu Lượng, Trương Dĩ Ninh đến Đại Việt để trao ấn vàng và sắc rồng. Không ngờ, họ lại đến đúng lúc vua Dụ Tông qua đời. Trương Dĩ Ninh sau đó lâm bệnh mất, còn Ngưu Lượng thì khi trở về Trung Quốc, Cung Định Vương Trần Phủ có ngâm bài thơ tiễn khách như sau:[1]
Nhật Lễ làm vua nhưng bỏ bễ công việc, ham chơi, rượu chè, lại giết bà nội là mẹ Dụ Tông vì bà hối hận việc lập Nhật Lễ. Dương Nhật Lễ cho đón Dương Khương, cha đẻ của Nhật Lễ, vào triều, song Nhật Lễ còn định đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình.
Đêm ngày 20 tháng 9 năm 1370, các tông thất là: cha con thái tể Trần Nguyên Trác, Nguyên Tiết và hai người con của công chúa Thiên Ninh[4] đem người tôn thất vào thành định giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và đều bị hại.
Vào Mùa Đông, tháng 10 năm 1370[1], Trần Phủ - vốn có tính khí hèn nhát[2] - vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại[5], phủ Thanh Hóa để dấy quân. Trần Kính giúp ông đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội.
Khi ấy, Nhật Lễ chuyên dùng thiếu úy Trần Ngô Lang mà không biết Ngô Lang đồng mưu với Trần Phủ. Mỗi khi sai quân tướng đi đánh bắt, Ngô Lang đều bí mật bảo họ theo Trần Phủ đừng về nữa. Rất nhiều lần sai các quân Nam, Bắc đi đánh, đều không một ai trở về. Do đó quân của Trần Phủ, Trần Kính mạnh thêm.
Trước kia, Cung Định Vương Trần Phủ vốn không muốn tranh giành[2], nên chẳng hề suy nghĩ đến chuyện lên ngôi đại thống, khiến Công chúa Thiên Ninh phải khuyên ông:[1]
Vào tháng 11 năm 1370, tất cả anh em Trần Phủ, Trần Kính cùng với Thiên Ninh công chúa dẫn quân về Kinh thành. Vào ngày 13 tháng 11 (tức 1 tháng 12 DL) năm 1370, Trần Phủ tới phủ Kiến Hưng, trước còn gọi là phủ Hiển Khánh. Vua Nhật Lễ bị phế bỏ, giáng xuống làm Hôn Đức Công.[1]
Sau khi lên ngôi, thấy chính sự thời Dụ Tông suy sụp, Nghệ Tông muốn khôi phục nề nếp công việc đều theo lệ cũ đời Minh Tông. Ông nói:[1]
Năm 1371, Nghệ Tông lấy người họ ngoại là Lê Quý Ly làm khu mật viện đại sứ. Quý Ly vốn có hai bà cô đều là cung nhân của vua Trần Minh Tông.
Bà Minh Từ sinh ra Nghệ Tông, bà Đôn Từ sinh ra Duệ Tông, vì vậy Nghệ
Tông từ khi mới lên ngôi rất tín nhiệm Quý Ly. Sau đó Nghệ Tông lại đem
em gái mới góa chồng là công chúa Huy Ninh gả cho Quý Ly. Do Nghệ Tông
là một vị Hoàng đế thiếu quyết đoán cho nên Quý Ly nắm mọi quyền hành
trong tay.[2]
Năm 1372, Nghệ Tông còn cất nhắc Đỗ Tử Bình làm Hành khiển, tham mưu quân sự. Hai người này về sau đều làm hại cơ nghiệp nhà Trần.
Noi gương đời trước của nhà Trần thường giữ chế độ vua và thái thượng hoàng cùng trị nước, tháng 11 năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho Trần Kính và lên làm thượng hoàng. Trần Kính lên ngôi, tức là Trần Duệ Tông. Vua Duệ Tông mạnh mẽ hơn ông, tuy nhiên Nghệ Tông vẫn nắm giữ đại quyền.[2]
Sau khi nhường ngôi cho Duệ Tông, ông phó thác việc đánh Chiêm cho vua em. Năm 1376, Duệ Tông hăng hái đi đánh Chiêm, nhưng vì chủ quan, bị mắc mưu vua Chiêm là Chế Bồng Nga nên bị tử trận ở thành Đồ Bàn (xem bài Trần Duệ Tông). Một hoàng thân là Ngự Câu vương Trần Húc đầu hàng Chiêm.
Nghệ Tông lập con của Duệ Tông là Trần Hiện lên ngôi, tức là Trần Phế Đế. Phế Đế ít tuổi nên mọi việc đều do thượng hoàng Nghệ Tông quyết định.
Ngày 5 tháng 5 năm 1378, người Chiêm đưa Trần Húc đã đầu hàng đến cướp phủ Nghệ An. Tháng 6, quân Chiêm đánh vào sông Đại Hoàng. Hành khiển Đỗ Tử Bình được sai đi chống giữ, bị thua trận. quân Chiêm liền đánh vào kinh sư, bắt người cướp của rồi rút về.
Kho tàng bị quân Chiêm cướp sạch. Nghệ Tông theo kế của Đỗ Tử Bình, bắt chước phép đánh thuế dung[7] của nhà Đường, thuế má lại nặng thêm. Hồi đầu đời nhà Trần, dẫu có thuế đinh nhưng chỉ người có ruộng mới phải đóng. Đến đây, không cứ có ruộng hay không, đều phải đóng cả, chỉ binh lính mới được miễn.
Tháng 2 năm 1380, người Chiêm xúi giục người Tân Bình, Thuận Hóa ra cướp Nghệ An, Diễn Châu, cướp của bắt người. Tháng 3, Chiêm Thành lại cướp Thanh Hóa. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Lê Quý Ly chỉ huy quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi chống giữ. Tới tháng 5, quân Chiêm không đánh được phải rút lui.
Tháng 6 năm 1383, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga dẫn quân đánh Đại Việt. Kinh sư kinh động. Thượng hoàng sai Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ. Mật Ôn bị giặc bắt sống. Thượng hoàng Nghệ Tông chạy qua sông Đông Ngàn để lánh giặc. Khi ấy có người học trò là Nguyễn Mộng Hoa để cả áo mũ lội xuống nước kéo thuyền ngự lại, xin Nghệ Tông ở lại đánh giặc, nhưng ông không nghe. Quân Chiêm lại cướp phá một trận nữa.
Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hoá. Nghệ Tông lại sai Quý Ly đi chống cự, bị quân Chiêm đánh thua to. Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về. Ngoài mặt trận nguy cấp, Nghệ Tông sai Trần Khát Chân ra cứu.
Năm 1390, Trần Khát Chân nhờ hàng tướng Chiêm chỉ cho chỗ thuyền của Chế Bồng Nga, tập trung hỏa pháo mà bắn. Chế Bồng Nga trúng đạn chết. Họa Chiêm Thành xâm lấn mới tạm chấm dứt. Quân Đại Việt thừa thắng liền cắt lấy đầu Chế Bồng Nga. Khi nhận được thủ cấp của vua Chiêm, Thượng hoàng Nghệ Tông ví von mình như Lưu Bang lúc nhận được thủ cấp của Hạng Vũ.[2]
Duệ Tông tử trận, Nghệ Tông không hề trách cứ Quý Ly, chỉ sai mang xe tù nhốt Tử Bình mang về, đồ làm lính. Tuy nhiên chỉ 1 năm sau lại phục chức cho Bình làm hành khiển, sai cùng Quý Ly đi chống Chiêm.
Rồi sau đó Bình còn được cất nhắc làm Nhập nội hành khiển tả tham tri chính sự, lĩnh chức Kinh lược sứ Lạng Giang. Năm 1382, Bình chết, lại được truy tặng là Thiếu bảo và được tòng tự ở Văn Miếu.
Năm 1389, Quý Ly đi đánh Chiêm lại bị thua, giao quân cho tỳ tướng là Phạm Khả Vĩnh, Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về. Sau trận đó Nguyễn Đa Phương trở về, công khai chê Quý Ly là bất tài. Quý Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông bèn cách chức Phương. Quý Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương vì sợ Phương đi hàng giặc. Nghệ Tông bèn ép Phương tự vẫn.
Tháng 2 năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương mưu giết Quý Ly, nhưng Thượng hoàng Nghệ Tông cho là Nhật Chương có lòng khác, bèn giết Nhật Chương.
Quyền hành của Quý Ly quá lớn, nhiều người lo lắng cho cơ nghiệp nhà Trần. Tháng 4 năm 1392, Bùi Mộng Hoa dâng thư lên Nghệ Tông, đại ý nói:
Năm 1394, Nghệ Tông tuổi cao sức yếu, biết Quý Ly có ý lấy ngôi nhà Trần, mà ngăn lại thì không kịp, nên sai thợ vẽ tranh những đại thần nêu tấm gương phò vua nhỏ mà không mang lòng dạ cướp ngôi của đời trước, như Chu Công giúp Chu Thành Vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hán Hậu chúa, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông, gọi là tranh "Tứ phụ", ban cho Quý Ly, để giúp vua Thuận Tông cũng nên như thế.
Tới khi Nghệ Tông bệnh nặng, lại theo lối Lưu Bị thử lòng Gia Cát Lượng, nói với Quý Ly rằng:
Ngày 15 tháng 12 năm 1394, ông mất, được táng vào Nguyên Lăng ở Yên Sinh, miếu hiệu là Nghệ Tông, tên thụy là Quang Nhiên Anh Triết Hoàng đế. Trần Nghệ Tông làm vua 3 năm, làm thượng hoàng 27 năm trong 3 vua đời kế tục, thọ 74 tuổi.
Sáu năm sau, Quý Ly giết con Nghệ Tông là Thuận Tông và phế cháu Nghệ Tông là Trần Thiếu Đế, cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ.
Sách "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" cũng có lời bàn về vua Trần Nghệ Tông:[1]
Trần Trọng Kim phê phán Nghệ Tông trong Việt Nam sử lược:
Nghệ Tông vốn tin tưởng và gửi gắm cơ nghiệp vào vua em Duệ Tông mạnh
mẽ, vậy mà khi vua em chết, những kẻ có trách nhiệm trực tiếp, trong đó
có Quy Ly, lại không hề hấn gì. Đáng ngạc nhiên hơn, chính Quý Ly bất
tài chống giặc lại được thay thế vai trò "rường cột" của vua em Duệ Tông
trong triều. Nghệ Tông từng thương Duệ Tông đến mức khi em chết bèn lập
cháu lên thay; nhưng sau chỉ vì lời xúi bẩy của Quý Ly mà giết cả cháu;
hẳn khi đó trong lòng Nghệ Tông không còn tưởng nhớ vua em nữa.
Những ông vua vì ham sắc đẹp, yêu vợ bé mà phế bỏ hoặc giết con lớn trong lịch sử không hiếm và hành động đó không có gì khó hiểu. Lê Quý Ly có thể gièm pha để giết tướng Nguyễn Đa Phương vì đố kỵ ganh ghét cũng không có gì là khó hiểu. Nhưng khi Nghệ Tông tin theo lời một đại thần họ ngoại mà giết tông thất, giết cháu ruột rồi giết cả con ruột thì lòng tin đã đến mức u mê[13].
Nhiều việc làm của Nghệ Tông không khác gì dọn đường cho Quý Ly cướp ngôi con cháu mình. Nghệ Tông, vừa có công khôi phục nhà Trần từ tay Dương Nhật Lễ trên danh nghĩa, lại vừa có tội làm mất nhà Trần trên thực tế. Chỉ 13 năm sau khi ông mất, Việt Nam sau gần 500 năm độc lập lại bị rơi vào tay phương Bắc. Dù nhà Minh từng có bụng xâm lược từ trước (xem bài Trần Duệ Tông) nhưng biến cố mất nhà Trần thúc đẩy lý do cho hành động xâm lược thực hiện sớm hơn. Nghệ Tông chỉ là ông vua có nét điềm đạm, không xa xỉ, còn tài năng đức độ tầm thường, không biết dùng người. Có ý kiến cho rằng lúc nhà Trần suy yếu, nếu Nghệ Tông không quá nghe Lê Quý Ly mà giết Nguyễn Đa Phương, trái lại biết dùng quyền thuật mà cùng lúc trọng dụng cả Đa Phương và Quý Ly khiến hai người kìm chế, dè chừng lẫn nhau, thì cơ nghiệp nhà Trần chưa đến nỗi suy vong[14].
Trần Nghệ Tông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Nghệ Tông | |
---|---|
Hoàng đế Đại Việt (chi tiết...) | |
Hoàng đế nhà Trần | |
Trị vì | 1370 - 1372 |
Tiền nhiệm | Trần Dụ Tông Hôn Đức Công |
Kế nhiệm | Trần Duệ Tông |
Thái thượng hoàng nhà Trần | |
Tại vị | 1372 - 1394 |
Thời vua | Trần Duệ Tông Trần Phế Đế Trần Thuận Tông |
Thông tin chung | |
Thê thiếp | Thục Từ hoàng hậu |
Tên húy | Trần Phủ (陳暊) |
Niên hiệu | Thiệu Khánh (紹慶; 1370 - 1372) |
Thụy hiệu | Quyang Nghiêu Anh Triết Hoàng Đế 光堯英哲皇帝 |
Miếu hiệu | Nghệ Tông (藝宗) |
Triều đại | Nhà Trần |
Thân phụ | Trần Minh Tông |
Thân mẫu | Minh Từ quý phi |
Sinh | tháng 12, 1321 |
Mất | 15 tháng 12, 1394 Thăng Long |
Tôn giáo | Phật giáo |
Ông là vị hoàng đế có công lật đổ Dương Nhật Lễ và khôi phục lại cơ đồ cho triều đại nhà Trần.[1] Tuy nhiên, sự thiếu quyết đoán của ông đã khiến quyền bính rơi vào tay của ngoại thích Lê Quý Ly, em họ bên ngoại của ông. Do đó, dẫu được ca ngợi là "công nghiệp lớn lao,[1] ông cũng bị sử sách phê phán là nhu nhược, "nối giáo cho giặc".[2] Ngoài ra, như một vị Hoàng đế không có bản lĩnh, ông không thể chống nổi sự xâm phạm của quân Chiêm Thành, khiến có lúc kinh đô Thăng Long bị thất thủ về tay giặc[1]. Và ông, cùng với vua em Trần Dụ Tông trước kia, trở thành hai vị hoàng đế gây ra sự suy vong cho triều đại nhà Trần.[2]
Ít lâu sau khi lên ngôi, ông lên làm Thái thượng hoàng vào năm 1372, nhường ngôi cho em là Trần Kính - tức Trần Duệ Tông. Duệ Tông hoàng đế tử trận trong cuộc tiến công Chiêm Thành vào năm 1377, và bất chấp Đỗ Tử Bình là kẻ tội đồ cho thảm bại này, ông lại nương tay với Tử Bình. Cho đến cuối đời, ông vẫn có thái độ mù quáng và tin dùng Quý Ly. Họa Chiêm Thành chỉ lắng xuống khi quân Đại Việt dưới quyền Trần Khát Chân thắng lớn vào năm 1390.[2]
Mục lục
Tiểu sử
Nghệ Tông tên thật là Trần Phủ (陳暊), sinh vào tháng 12, Mùa Đông năm 1321,[3], là con trai thứ ba của hoàng đế Trần Minh Tông, em ruột của hoàng đế Trần Hiến Tông, và còn là anh của hoàng đế Trần Dụ Tông. Mẹ ông là Minh Từ quý phi Lê thị, là em gái cùng mẹ với Hiến Từ Tuyên Thánh hoàng hậu.Vào năm 1332, tức là năm Khai Hựu thứ 4 đời Hiến Tông, một lần vị Hoàng tử 11 tuổi Trần Phủ theo hầu Thượng hoàng Minh Tông tại cung Trùng Quang. Hôm ấy, mưa to gió lớn, và ông đã chế tác một bài thơ, trong đó có đoạn:[1]
- "An đắc tráng sĩ lực cái thế,"
- "Khả ngự đại ốc chi đồi phong."
- "Sao được tráng sĩ sức hơn đời,"
- "Chống đỡ nhà to khi gió mạnh."
Dưới triều Trần Hiến Tông, ông được phong làm Phiêu Kỵ Thượng Tướng Quân, trấn thủ trấn Tuyên Quang vào năm Mậu Dần 1338, niên hiệu Khai Hựu năm thứ 10.[1]
Vào năm Quý Tỵ 1353, niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 13, dưới triều Trần Dụ Tông, ông lại được phong làm Hữu Tướng Quốc.[1]
Vào năm Đinh Mùi 1367, niên hiệu Đại Trị năm thứ 10 đời Trần Dụ Tông, ông được cử làm Tả Tướng Quốc.[1]
Khôi phục nhà Trần
Vào năm 1369, vua Trần Dụ Tông mất, truyền ngôi cho Dương Nhật Lễ. Theo sử sách, Nhật Lễ vốn không phải là tông thất nhà Trần mà mẹ Lễ là đào hát, vợ của kép hát Dương Khương, đã mang thai Lễ trước khi làm vợ Cung Túc vương Trần Nguyên Dục (anh của vua Dụ Tông, mất năm 1363[1]).Khi ấy, nhà Minh bên Trung Quốc cử hai sứ thần Ngưu Lượng, Trương Dĩ Ninh đến Đại Việt để trao ấn vàng và sắc rồng. Không ngờ, họ lại đến đúng lúc vua Dụ Tông qua đời. Trương Dĩ Ninh sau đó lâm bệnh mất, còn Ngưu Lượng thì khi trở về Trung Quốc, Cung Định Vương Trần Phủ có ngâm bài thơ tiễn khách như sau:[1]
- An Nam tể tướng bất năng thi,
- Không bá trà âu tống khách quỳ.
- Viên tản sơn thanh, Lô thủy bích,
- Tùy phong trực nhập ngũ vân phi.
- An Nam tể tướng chẳng thơ hay,
- Chỉ có bình trà tiễn khách đây.
- Viên tản non xanh, Lô nước biếc,
- Xin bay theo gió tới năm mây.
Nhật Lễ làm vua nhưng bỏ bễ công việc, ham chơi, rượu chè, lại giết bà nội là mẹ Dụ Tông vì bà hối hận việc lập Nhật Lễ. Dương Nhật Lễ cho đón Dương Khương, cha đẻ của Nhật Lễ, vào triều, song Nhật Lễ còn định đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình.
Đêm ngày 20 tháng 9 năm 1370, các tông thất là: cha con thái tể Trần Nguyên Trác, Nguyên Tiết và hai người con của công chúa Thiên Ninh[4] đem người tôn thất vào thành định giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và đều bị hại.
Vào Mùa Đông, tháng 10 năm 1370[1], Trần Phủ - vốn có tính khí hèn nhát[2] - vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại[5], phủ Thanh Hóa để dấy quân. Trần Kính giúp ông đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội.
Khi ấy, Nhật Lễ chuyên dùng thiếu úy Trần Ngô Lang mà không biết Ngô Lang đồng mưu với Trần Phủ. Mỗi khi sai quân tướng đi đánh bắt, Ngô Lang đều bí mật bảo họ theo Trần Phủ đừng về nữa. Rất nhiều lần sai các quân Nam, Bắc đi đánh, đều không một ai trở về. Do đó quân của Trần Phủ, Trần Kính mạnh thêm.
Trước kia, Cung Định Vương Trần Phủ vốn không muốn tranh giành[2], nên chẳng hề suy nghĩ đến chuyện lên ngôi đại thống, khiến Công chúa Thiên Ninh phải khuyên ông:[1]
- "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại vứt bỏ nước cho kẻ khác ? Anh phải đi đi, em sẽ đem bọn gia nô dẹp nó cho!".
- Vị cực sàm thâm tiện khứ quan,
- Trắc thân độ lĩnh nhập sơn man.
- Thất lăng hồi thủ thiên hàng lệ,
- Vạn lý môn tâm lưỡng mấn ban.
- Khử Võ đồ tồn Đường xã tắc,
- An Lưu phục đổ Hán y quan.
- Minh Tông sự nghiệp quân tu ký,
- Khôi phục Thần Kinh chỉ nhất hoàn.
- Ngôi cả gièm nhiều mới bỏ quan,
- Né thân, vượt núi, tới sơn man.
- Bảy lăng[6] ngoảnh lại châu tuôn chảy,
- Muôn dặm đau lòng, tóc bạc lan.
- Diệt Vũ, giữ gìn Đường xã tắc,
- Phò Lưu lại thấy Hán y quan.
- Minh Tông sự nghiệp em nên nhớ,
- Thu phục thần kinh sắp khải hoàn.
Vào tháng 11 năm 1370, tất cả anh em Trần Phủ, Trần Kính cùng với Thiên Ninh công chúa dẫn quân về Kinh thành. Vào ngày 13 tháng 11 (tức 1 tháng 12 DL) năm 1370, Trần Phủ tới phủ Kiến Hưng, trước còn gọi là phủ Hiển Khánh. Vua Nhật Lễ bị phế bỏ, giáng xuống làm Hôn Đức Công.[1]
Ngồi trên ngai cao
Vào ngày 15 tháng 11 năm 1370, vua Trần Nghệ Tông lên ngôi đại thống. Ông đặt niên hiệu và ra lệnh đại xá. Ngoài ra, ông còn xưng làm Nghĩa Hoàng. Bá quân dâng cho ông tôn hiệu là Thể khiên kiến cực thuần hiếu hoàng đế. [1]Cất nhắc gian thần
Nhật Lễ bị phế, lại lừa giết Trần Ngô Lang, vì vậy Trần Nghệ xuống lệnh cho quan quân đánh chết Hôn Đức Công cùng với người con của Hôn Đức Công tên là Liễu. Sau đó, xác họ được đem đi chôn ở núi Đại Mông.[1]Sau khi lên ngôi, thấy chính sự thời Dụ Tông suy sụp, Nghệ Tông muốn khôi phục nề nếp công việc đều theo lệ cũ đời Minh Tông. Ông nói:[1]
- Triều trước dựng nước, có luật pháp, chế độ riêng, không theo qui chế của nhà Tống, là vì nam Bắc, nước nào làm chủ đó, không phải bắt chước nhau. Khoảng năm Đại Trị, bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông đổi theo tục phương Bắc cả, như về y phục, âm nhạc... thật không kể xiết.
“ | Báo cho vua tai nạn là ơn riêng, ban tước cho người tai nạn giữa triều là việc công. Vua nhớ ơn của Nguyễn Nhiên, đền đáp bằng vàng, lụa thì được, cho làm hành khiển là chức quan trọng thì không được. Chức hành khiển đời bấy giờ cũng như "lục khanh" đời Chu, là các quan chức điều hành chính sự của đất nước, mà lại để cho người không biết chữ làm, thì không phải là lựa chọn vì việc công vậy. | ” |
—Ngô Sĩ Liên
|
Năm 1372, Nghệ Tông còn cất nhắc Đỗ Tử Bình làm Hành khiển, tham mưu quân sự. Hai người này về sau đều làm hại cơ nghiệp nhà Trần.
Noi gương đời trước của nhà Trần thường giữ chế độ vua và thái thượng hoàng cùng trị nước, tháng 11 năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho Trần Kính và lên làm thượng hoàng. Trần Kính lên ngôi, tức là Trần Duệ Tông. Vua Duệ Tông mạnh mẽ hơn ông, tuy nhiên Nghệ Tông vẫn nắm giữ đại quyền.[2]
Họa Chiêm Thành
Sau khi nhường ngôi cho Duệ Tông, ông phó thác việc đánh Chiêm cho vua em. Năm 1376, Duệ Tông hăng hái đi đánh Chiêm, nhưng vì chủ quan, bị mắc mưu vua Chiêm là Chế Bồng Nga nên bị tử trận ở thành Đồ Bàn (xem bài Trần Duệ Tông). Một hoàng thân là Ngự Câu vương Trần Húc đầu hàng Chiêm.
Nghệ Tông lập con của Duệ Tông là Trần Hiện lên ngôi, tức là Trần Phế Đế. Phế Đế ít tuổi nên mọi việc đều do thượng hoàng Nghệ Tông quyết định.
Ngày 5 tháng 5 năm 1378, người Chiêm đưa Trần Húc đã đầu hàng đến cướp phủ Nghệ An. Tháng 6, quân Chiêm đánh vào sông Đại Hoàng. Hành khiển Đỗ Tử Bình được sai đi chống giữ, bị thua trận. quân Chiêm liền đánh vào kinh sư, bắt người cướp của rồi rút về.
Kho tàng bị quân Chiêm cướp sạch. Nghệ Tông theo kế của Đỗ Tử Bình, bắt chước phép đánh thuế dung[7] của nhà Đường, thuế má lại nặng thêm. Hồi đầu đời nhà Trần, dẫu có thuế đinh nhưng chỉ người có ruộng mới phải đóng. Đến đây, không cứ có ruộng hay không, đều phải đóng cả, chỉ binh lính mới được miễn.
Tháng 2 năm 1380, người Chiêm xúi giục người Tân Bình, Thuận Hóa ra cướp Nghệ An, Diễn Châu, cướp của bắt người. Tháng 3, Chiêm Thành lại cướp Thanh Hóa. Thượng hoàng Nghệ Tông sai Lê Quý Ly chỉ huy quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi chống giữ. Tới tháng 5, quân Chiêm không đánh được phải rút lui.
Tháng 6 năm 1383, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga dẫn quân đánh Đại Việt. Kinh sư kinh động. Thượng hoàng sai Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ. Mật Ôn bị giặc bắt sống. Thượng hoàng Nghệ Tông chạy qua sông Đông Ngàn để lánh giặc. Khi ấy có người học trò là Nguyễn Mộng Hoa để cả áo mũ lội xuống nước kéo thuyền ngự lại, xin Nghệ Tông ở lại đánh giặc, nhưng ông không nghe. Quân Chiêm lại cướp phá một trận nữa.
Tháng 10 năm 1389, Chế Bồng Nga lại đánh lên Thanh Hoá. Nghệ Tông lại sai Quý Ly đi chống cự, bị quân Chiêm đánh thua to. Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về. Ngoài mặt trận nguy cấp, Nghệ Tông sai Trần Khát Chân ra cứu.
Năm 1390, Trần Khát Chân nhờ hàng tướng Chiêm chỉ cho chỗ thuyền của Chế Bồng Nga, tập trung hỏa pháo mà bắn. Chế Bồng Nga trúng đạn chết. Họa Chiêm Thành xâm lấn mới tạm chấm dứt. Quân Đại Việt thừa thắng liền cắt lấy đầu Chế Bồng Nga. Khi nhận được thủ cấp của vua Chiêm, Thượng hoàng Nghệ Tông ví von mình như Lưu Bang lúc nhận được thủ cấp của Hạng Vũ.[2]
Dung túng quyền thần
Đỗ Tử Bình
Đỗ Tử Bình là gian thần gây ra cái chết của vua em Duệ Tông. Khi trước Chế Bồng Nga đã dâng vàng xin tạ tội nhà Trần, Bình giấu đi làm của riêng, lại tâu bậy rằng vua Chiêm kiêu ngạo khiến Duệ Tông phải thân chinh. Khi Duệ Tông bị hãm ở thành Đồ Bàn, Bình đi hậu quân không đến cứu ứng, Lê Quý Ly cũng bỏ chạy luôn.Duệ Tông tử trận, Nghệ Tông không hề trách cứ Quý Ly, chỉ sai mang xe tù nhốt Tử Bình mang về, đồ làm lính. Tuy nhiên chỉ 1 năm sau lại phục chức cho Bình làm hành khiển, sai cùng Quý Ly đi chống Chiêm.
Rồi sau đó Bình còn được cất nhắc làm Nhập nội hành khiển tả tham tri chính sự, lĩnh chức Kinh lược sứ Lạng Giang. Năm 1382, Bình chết, lại được truy tặng là Thiếu bảo và được tòng tự ở Văn Miếu.
Hồ Quý Ly
Lê Quý Ly nhiều lần chống Chiêm bại trận vẫn được trọng dụng. Trần Phế Đế (Đế Hiện) thấy quyền bính của Quý Ly ngày một lớn, mưu trừ bỏ Quý Ly. Quý Ly bèn gièm với Nghệ Tông rằng không nên bỏ con mà lập cháu. Vì vậy, năm 1388, Nghệ Tông phế truất và giết Đế Hiện, lập con nhỏ của mình là Ngung lên ngôi, tức là Trần Thuận Tông. Một người con lớn của Nghệ Tông là Trang Định vương Trần Ngạc làm chức Thái úy cũng cùng các tướng dưới quyền mưu trừ Quý Ly nhưng bị lộ và bị Nghệ Tông giết chết.Năm 1389, Quý Ly đi đánh Chiêm lại bị thua, giao quân cho tỳ tướng là Phạm Khả Vĩnh, Nguyễn Đa Phương ở lại cầm cự với giặc, còn mình thì trốn về. Sau trận đó Nguyễn Đa Phương trở về, công khai chê Quý Ly là bất tài. Quý Ly căm tức, nói với Nghệ Tông rằng trận thua này là do nghe lời Đa Phương. Nghệ Tông bèn cách chức Phương. Quý Ly lại bảo Nghệ Tông nên giết Phương vì sợ Phương đi hàng giặc. Nghệ Tông bèn ép Phương tự vẫn.
Tháng 2 năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương mưu giết Quý Ly, nhưng Thượng hoàng Nghệ Tông cho là Nhật Chương có lòng khác, bèn giết Nhật Chương.
Quyền hành của Quý Ly quá lớn, nhiều người lo lắng cho cơ nghiệp nhà Trần. Tháng 4 năm 1392, Bùi Mộng Hoa dâng thư lên Nghệ Tông, đại ý nói:
- Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: "Thâm hiểm thay Thái sư họ Lê". Xem thế, Lê Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu.
Năm 1394, Nghệ Tông tuổi cao sức yếu, biết Quý Ly có ý lấy ngôi nhà Trần, mà ngăn lại thì không kịp, nên sai thợ vẽ tranh những đại thần nêu tấm gương phò vua nhỏ mà không mang lòng dạ cướp ngôi của đời trước, như Chu Công giúp Chu Thành Vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hán Hậu chúa, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông, gọi là tranh "Tứ phụ", ban cho Quý Ly, để giúp vua Thuận Tông cũng nên như thế.
Tới khi Nghệ Tông bệnh nặng, lại theo lối Lưu Bị thử lòng Gia Cát Lượng, nói với Quý Ly rằng:
- Bình chương[8] là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua.
- Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp Quan gia để truyền đến con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần.
Mộng thấy vua em
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tháng 3 năm 1394, ông chiêm bao thấy vua em Trần Duệ Tông đem quân đến và đọc bài thơ như sau:- Trung gian duy hữu xích chủy hầu,
- Ân cần tiếm thượng bạch kê lâu.
- Khẩu vương dĩ định hưng vong sự,
- Bất tại tiền đầu tại hậu đầu.
- Ở giữa chỉ có loài mỏ đỏ,
- Lăm le lấn lên lầu gà trắng.
- Khẩu vương đã định việc hưng vong,
- Không ở trước mà ở về sau.
Ngày 15 tháng 12 năm 1394, ông mất, được táng vào Nguyên Lăng ở Yên Sinh, miếu hiệu là Nghệ Tông, tên thụy là Quang Nhiên Anh Triết Hoàng đế. Trần Nghệ Tông làm vua 3 năm, làm thượng hoàng 27 năm trong 3 vua đời kế tục, thọ 74 tuổi.
Sáu năm sau, Quý Ly giết con Nghệ Tông là Thuận Tông và phế cháu Nghệ Tông là Trần Thiếu Đế, cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ.
Tác phẩm
Vua Trần Nghệ Tông hay thơ từ nhỏ. Sáng tác của ông có:- Hoàng huấn (Giáo huấn của hoàng gia) gồm 14 chương để dạy Cung Tuyên vương Trần Kính (về sau là Trần Duệ Tông) khi được lập làm Hoàng thái tử.
- Đế châm (Bài châm của người làm vua) gồm 150 câu ban cho Trần Duệ Tông khi mới lên ngôi.
- Bảo Hòa điện dư bút (Viết lúc rãnh rỗi ở điện Bảo Hòa), viết năm Quý Hợi (1388), sai Trạng nguyên Đào Sư Tích đề tựa, để dạy vua Trần Phế Đế.
- Trần Nghệ Tông thi tập
Nhận định
Trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngô Sĩ Liên nhận định về Trần Nghệ Tông như sau:“ | Nghệ Tông tính trời hòa nhã, giữ lòng kính cẩn, lo sợ. Nhưng uy vũ không đủ để đánh lui giặc ngoài[10], sáng suốt không đủ để phân biệt lời gièm, có một [Trần] Nguyên Đán mà không biết dùng, lại giao việc nước cho người họ ngoại[11], khiến xã tắc nhà Trần đi đến sụp đổ, thực là "đằng trước có kẻ siểm nịnh mà không thấy, đàng sau có giặc cướp mà không hay" | ” |
“ | Vua dẹp yên được tai nạn bên trong, khôi phục được cơ đồ to lớn. Công nghiệp lớn lao, sáng lòa vũ trụ. Song cung kính kiệm ước thì có thừa mà cương nghị, quyết đoán lại không đủ, bên ngoài thì quân giặc xâm phạm kinh kỳ, bên trong thì gian thần ngấp nghé ngôi báu. Xã tắc suy mòn, rồi đến diệt vong. | ” |
—Trần Nghệ Tông
|
“ | Cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua (Dụ Tông và) Nghệ Tông... Nghệ Tông thì không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình làm hại nhà mình vậy.[12] | ” |
Những ông vua vì ham sắc đẹp, yêu vợ bé mà phế bỏ hoặc giết con lớn trong lịch sử không hiếm và hành động đó không có gì khó hiểu. Lê Quý Ly có thể gièm pha để giết tướng Nguyễn Đa Phương vì đố kỵ ganh ghét cũng không có gì là khó hiểu. Nhưng khi Nghệ Tông tin theo lời một đại thần họ ngoại mà giết tông thất, giết cháu ruột rồi giết cả con ruột thì lòng tin đã đến mức u mê[13].
Nhiều việc làm của Nghệ Tông không khác gì dọn đường cho Quý Ly cướp ngôi con cháu mình. Nghệ Tông, vừa có công khôi phục nhà Trần từ tay Dương Nhật Lễ trên danh nghĩa, lại vừa có tội làm mất nhà Trần trên thực tế. Chỉ 13 năm sau khi ông mất, Việt Nam sau gần 500 năm độc lập lại bị rơi vào tay phương Bắc. Dù nhà Minh từng có bụng xâm lược từ trước (xem bài Trần Duệ Tông) nhưng biến cố mất nhà Trần thúc đẩy lý do cho hành động xâm lược thực hiện sớm hơn. Nghệ Tông chỉ là ông vua có nét điềm đạm, không xa xỉ, còn tài năng đức độ tầm thường, không biết dùng người. Có ý kiến cho rằng lúc nhà Trần suy yếu, nếu Nghệ Tông không quá nghe Lê Quý Ly mà giết Nguyễn Đa Phương, trái lại biết dùng quyền thuật mà cùng lúc trọng dụng cả Đa Phương và Quý Ly khiến hai người kìm chế, dè chừng lẫn nhau, thì cơ nghiệp nhà Trần chưa đến nỗi suy vong[14].
Gia đình
- Vợ:
- Huệ Ý phu nhân (?-1370), truy phong là Thục Đức hoàng hậu.
- Con:
- Ngự Câu đại vương Trần Húc (?-1381). Lấy công chúa Tuyên Huy. Bị Trần Phế Đế giết.
- Trần Thúc Ngạn
- Trang Định vương Trần Ngạc (?-6/1391), bị giáng làm Mẫn vương và bị Hồ Quý Ly sai Nguyễn Nhân Liệt giết. Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, giáng Ngạc làm Liệt hiệu phán hầu. Con là Trùng Quang Đế nhà Hậu Trần.
- Giản Định vương Trần Ngỗi (?-1409), tức Giản Định Đế của nhà Hậu Trần.
- Chiêu Định vương Trần Ngung (1378-1398), tức vua Trần Thuận Tông.
- Thiên Huy công chúa Thục Mỹ (hay công chúa Thái Dương), tức Quang Loan hoàng hậu của Trần Phế Đế. Tháng 10 năm 1393, do thông dâm với phủ quân ty Trần Nguyên Uyên, Trần Nghệ Tông tức giận lại gả cho thái bảo Trần Hãng (con Cung Tín vương Thiên Trạch, em Nguyên Uyên).
Xem thêm
Tham khảo
![]() |
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của:
|
- Đại Việt Sử ký Toàn thư
- Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
- Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, NXB Hải Phòng
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, bản điện tử
Chú thích
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t Nghệ Tông Hoàng Đế trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- ^ a ă â b c d đ e ê Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
- ^ Minh Tông Hoàng Đế
- ^ Công chúa Thiên Ninh là con gái Minh Tông do bà Hiến Từ hoàng hậu sinh ra
- ^ Một chi lưu của sông Mã, tỉnh Thanh Hóa
- ^ Bảy lăng ở đây bao gồm có Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông), Dụ Lăng (lăng vua Trần Thánh Tông), Đức Lăng (lăng vua Trần Nhân Tông), Thái Lăng (lăng vua Trần Anh Tông), Mục Lăng (lăng vua Trần Minh Tông), An Lăng (lăng vua Trần Hiến Tông), và Phụ Lăng (lăng vua Trần Dụ Tông).
- ^ Thuế thân
- ^ Tức Quý Ly
- ^ Trần Thị Băng Thanh, mục từ "Trần Phủ" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004, tr. 1797.
- ^ Tức Chiêm Thành
- ^ Tức Lê Quý Ly
- ^ Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 74
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 388
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 383
|
Kríti
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Crete)
Kríti Tên gốc: Κρήτη |
|
---|---|
![]() Cung điện Minoan tại Knossos. |
|
Địa lý
|
|
Vị trí | |
Tọa độ | 35°B 25°Đ |
Tổng số đảo | 80+ |
Diện tích | 8.336 km² |
Điểm cao nhất | Núi Psiloritis (2.456) |
Chính quyền | |
![]() |
|
![]() |
|
Thành phố lớn nhất | Heraklion |
Nhân khẩu học | |
Dân số | 623.666 (tính đến năm 2005) |
Mục lục
Tên gọi
Hòn đảo lần đầu tiên được đề cập đến với tên gọi Kaptara trong các văn bản từ thành phố Mari của Syria có niên đại từ thế kỷ 18 TCN,[2] được lặp lại sau đó trong các ghi chép của Tân Assyria và kinh thánh (Caphtor). Đảo được biết đến tại Ai Cập cổ đại là Keftiu, cả hai đều tương tự như tên Minoan của đảo.[3]Tên tiếng Hy Lạp Mycenaea của Kríti không được biết; nó không được nêu trong các văn bản văn tự tuyến hình B còn lại cho đến nay. Tên gọi Crete (Κρήτη) làn đầu tiên được đề cập tới là trong sử thi Odyssey của Homer.[4] Từ nguyên của nó không rõ. Một suy đoán cho rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Luwian *kursatta (kursawar "đảo", kursattar "cắt, miếng").[5] Trong tiếng Latinh, tên của đảo trở thành Creta.
Tên gốc tiếng Ả Rập của Kríti là Iqrīṭiš (tiếng Ả Rập: اقريطش < (της) Κρήτης), nhưng sau khi Tiểu vương quốc Kríti được thành lập với kinh đô mới đặt tại ربض الخندق Rabḍ al-ḫandaq (nay là Iraklion), cả thành phố và đảo đều được gọi là Χάνδαξ (Khandhax) hay Χάνδακας (Khandhakas). Dưới thời đế chế Ottoman, trong tiếng Thổ Ottoman, Kríti được gọi là Girit (كريت).
Địa lý
Hòn đảo có hình thon dài: kéo dài 260 km (160 mi) từ đông sang tây, điểm rộng nhất là 60 km (37 mi), và điểm hẹp nhất là 12 km (7,5 mi) (gần Ierapetra). Crete có diện tích 8.336 km2 (3.219 sq mi), với đường bờ biển dài 1.046 km (650 mi); ở phía bắc, nó giáp với biển Crete (tiếng Hy Lạp: Κρητικό Πέλαγος); và ở phía nam là biển Libya (tiếng Hy Lạp: Λιβυκό Πέλαγος); ở phía tây là biển Myrtoan, và ở phía đông là biển Karpathion. Đảo nằm cách xấp xỉ 160 km (99 mi) về phía nam của Hy Lạp đại lục.
Kríti có địa hình đồi núi, và có một dãy núi chạy từ đông sang tây, gồm ba nhóm núi khác nhau:
- Dãy Trắng hay Lefka Ori 2.452 m (8.045 ft)
- Dãy Idi (Psiloritis 35,18°B 24,82°Đ 2.456 m (8.058 ft)
- Dãy Dikti 2.148 m (7.047 ft)
Khí hậu
Kríti trải dài trên hai vùng khí hậu, chủ yếu là Địa Trung Hải và một phần là Bắc Phi. Do vậy, khí hậu Crete chủ yếu là ôn đới. Bầu không khí khá ẩm ướt, tùy thuộc vào vị trí gần hay xã biển, trong khi mùa đông khá êm dịu. Tuyết thường rơi trên các ngọn núi từ giữa tháng 11 và tháng 5, song hiếm khi thấy ở các vùng thấp. Trong khi các đỉnh núi cao bị tuyết bao phủ cả năm thì vùng gần biển tuyết chỉ có thể ở lại trên mặt đất một vài phút hoặc vài giờ. Tuy nhiên, một đợt lạnh vào tháng 2 năm 2004 đã khiến toàn bộ hòn đảo bị tuyết bao phủ. Vào mùa hè tại Kríti, nhiệt độ dao động từ 20 °C đến dưới 30 °C, và tối đa có thể lên tới trên 30 °C hay thậm chí 40 °C.Bờ biển phía nam, bao gồm đồng bằng Mesara và dãy núi Asterousia, nằm trong vùng khí hậu Bắc Phi, và do đó chịu ảnh hưởng đáng kể với các ngày nắng và nhiệt độ cao trong suốt năm. Tại đây, cọ chà là đâm hoa kết quả, và nhạn sinh sống quanh năm chứ không di cư sang châu Phi. Khu vực màu mỡ quanh Ierapetra, ở góc đông nam của đảo, có thể sản xuất nông nghiệp quanh năm, với tất cả các loại rau mùa hè và hoa quả được trồng trong nhà kính suốt mùa đông.
Hành chính
Kríti là đảo đông dân nhất của Hy Lạp với trên 600.000 người. Xấp xỉ 42% cư dân sống tại các thành phố và thị trấn chính của đảo trong khi 45% sống tại các khu vực nông thôn.[6]Kríti cùng với các đảo nhỏ lân cận tạo nên vùng Kríti (tiếng Hy Lạp: Περιφέρεια Κρήτης), một trong 13 vùng của Hy Lạp được thành lập theo đợt cải cách đơn vị hành chính vào năm 1987.[7] Theo kế hoạch Kallikratis năm 2010, quyền hạn của vùng được xác định lại và mở rộng. Thủ phủ của vùng đặt tại Heraklion và vùng được chia thành bốn đơn vị thuộc vùng (trước kế hoạch-Kallikratis là các quận). Từ tây sang đông là: Chania, Rethymno, Heraklion và Lasithi. Chúng được chia tiếp thành 24 khu tự quản.
Thành phố
- Heraklion (Iraklion hay Candia) (130.914 cư dân)[8]
- Chania (Haniá) (53.373 cư dân)[8]
- Rethymno (27.868 cư dân)[8]
- Ierapetra (23.707 cư dân)
- Agios Nikolaos (19.462 cư dân)
- Sitia (14.338 cư dân)
Văn hóa
Người dân trên đảo nói phương ngữ Kríti của tiếng Hy Lạp với nhiều từ vựng đặc trưng của đảo. Crete có thể loại thi ca Mantinada riêng biệt. Đảo được biết đến với nền âm nhạc dựa trên các tác phẩm thi ca Mantinada và nhiều điệu nhảy múa bản địa, đáng chú ý nhất trong đó là Pentozali.Các tác gia người Crete đã có đóng góp quan trọng cho văn học Hy Lạp trong suốt thời kỳ hiện đại; các tên tuổi chính gồm Vikentios Kornaros, tác giả của sử thi lãng mạn Erotokritos (tiếng Hy Lạp: Ερωτόκριτος) vào thế kỷ 17, và đến thế kỷ 20 có tác gia Nikos Kazantzakis. Vào thời Phục hưng, Crete có các trường Crete về hội họa tượng thánh, ảnh hưởng đến El Greco và thông qua ông là với nền hội họa châu Âu.
Xã hội Crete có các gia đình khét tiếng và các mối thù truyền kiếp giữa các gia tộc vẫn còn lại trên đảo cho đến này.[9][10] Người Crete cũng có truyền thống giữ súng ở nhà, một truyền thống có từ thời kỳ kháng chiến chống lại đế chế Ottoman. Gần như mọi hộ gia đình tại vùng nông thôn của Crete đều sở hữu một khẩu súng không đăng ký.[9] Việc sở hữu súng được chính phủ Hy Lạp quy định nghêm ngặt, song các cơ quản có thẩm quyền nhắm mắt làm ngơ, chấp nhận cho họ sở hữu súng theo truyền thống.
Kinh tế
Nền kinh tế của Crete chủ yếu dựa vào nông nghiệp và là một trong số ít các hòn đảo của Hy Lạp có nền kinh tế độc lập mà không cần phải dựa vào du lịch.[11] Nền kinh tế đã bắt đầu thay đổi rõ rệt vào thập niên 1970 khi du lịch đạt được tầm quan trọng nhất định. Trong khi trồng trọt và chăn nuôi vẫn có tầm quan trọng, song do khí hậu và thổ nhưỡng trên đảo, đã có sự sụt giảm trong sản xuất và cùng với đó là sự mở rộng đáng kể của các ngành dịch vụ. Tất cả ba lĩnh vực trong nền kinh tế Crete (nông nghiệp, chế biến-đóng gói, dịch vụ), đều kết nói trực tiếp và phụ thuộc lẫn nhau. Thu nhập bình quân của đảo cao hơn nhiều so với mức trung bình của Hy Lạp, trong khi tỉ lệ thất nghiệp cũng thấp hơn.Cũng như nhiều khu vực của Hy Lạp, nghề trồng nho và ô liu khá quan trọng; cam và thanh yên cũng được trồng. Cho đến gần đây, có những hạn chế về việc nhập khẩu chuối đến Hy Lạp, do đó chuối cũng được trồng trên đảo, chủ yếu là trong nhà kính. Các sản phẩm từ sữa có vai trò quan trọng trong kinh tế địa phương và có một số loại pho mát đặc sản như mizithra, anthotyros, và kefalotyri.
Hòn đảo có ba sân bay chính, Nikos Kazantzakis tại Heraklion, Daskalogiannis tại Chania và một sân bay nhỏ hơn tại Sitia. Hai sân bày đầu có các đường bay quốc tế, và là cửa ngõ khi các du khách đến với hòn đảo.
Hòn đảo có các tuyến phà chủ yếu là kết nối với Athens do một số công ty điều hành như Minoan Lines và ANEK Lines.
Lịch sử
Họ Người đã sống tại Crete ít nhất là từ 130.000 năm trước. Vào hậu kỳ đồ đá mới và thời kỳ đồ đồng, dưới nền văn minh Minoa, Crete đã có một trình độ phát triển cao, một nền văn minh có học thức. Đảo được cai trị bởi các thực thể Hy Lạp cổ đại, đế quốc Đông La Mã, đế quốc Đông La Mã, Tiểu vương quốc Crete, Cộng hòa Venezia và đế chế Ottoman. Sau một thời gian ngắn tự chủ (1897–1913) dưới sự quản lý của chính phủ lâm thời Crete, đảo gia nhập vương quốc Hy Lạp. Đảo bị Đức Quốc Xã xâm lược trong Chiến tranh Thế giới thứ 2.Thời tiền sử
Cá thể người đầu tiên đến định cư tại Crete là từ 130.000 năm trước, vào thời đại đồ đá cũ.[12][13][14] Các điểm định cư vào giai đoạn tiền đồ gồm của thời kỳ đồ đá mới vào thiên niên kỷ thứ 7 TCN, sử dụng gia súc, cừu, dê, lợn và chó cũng như các loại ngũ cốc và cây đậu đã được thuần hóa; Knossos cổ là một trong những địa điểm chính vào thời kỳ đồ đá mới (và sau này là Minoa).[15] Các điểm định cư vào thời đồ đá mới khác bao gồm Kephala, Magasa, và Trapeza.Văn minh Minoan
Văn minh Mycenea
Bắt đầu từ năm 1420 TCN, nền văn minh Minoan bị nền văn minh Mycenae từ Hy Lạp đại lục tàn phá. Các mẫu văn bản cổ nhất được viết bằng tiếng Hy Lạp, được Michael Ventris nhận dạng, là các tài liệu bằng văn tự tuyến hình B từ Knossos, có niên đại xấp xỉ 1425–1375 TCN.[16]La Mã cai trị
Crete đã tham gia vào các cuộc chiến tranh Mithridatic, ban đầu đã đẩy lùi được cuộc tấn công của tướng La Mã Marcus Antonius Creticus vào năm 71 TCN. Tuy thế, một chiến dịch ác liệt trong ba năm đã sớm xảy ra sau đó dưới sự chỉ huy của Quintus Caecilius Metellus Creticus, trang bị với ba quân đoàn và Crete cuối cùng bị La Mã chinh phục vào năm 69 TCN, Metellus được ban tước hiệu "Creticus". Gortyn trở thành thủ phủ của hòn đảo, và Crete trở thành một tỉnh của La Mã, cùng với Cyrenaica được gọi là Creta et Cyrenaica.Đông La Mã – thời kỳ thứ nhất
Crete được tách khỏi Cyrenaica khoảng năm 297. Đảo vẫn là một phần của đế quốc La Mã, và đế quốc Đông La Mã sau năm 600 SCN. Crete đã phải hứng chịu một cuộc tấn công từ người Vandal vào năm 467, các trận động đất lớn vào các năm 365 và 415, một cuộc tấn công của người Slav năm 623, các cuộc tấn công của người Ả Rập vào năm 654 và thập niên 670, và tiếp diễn vào thế kỷ thứ 8. Khoảng năm 732, Hoàng đế Leo III đã chuyển hòn đảo từ phạm vi quyền lực của Giáo hoàng sang Tổng chủ giáo thính Constantinopolis.[17]Tiểu vương quốc Kríti
Vào thập niên 820, khi Crete là một phần của Đế quốc Đông La Mã, đảo đã bị người Ả Rập do Abu Hafs cầm đầu xâm chiếm[18] và họ đã lập nên Tiểu vương quốc Crete. Đông La Mã đã phát động một chiến dịch để tái chiếm hòn đảo vào các năm 842 và 843 dưới quyền Theoktistos và đạt được một số thành công. Các chiến dịch của Đông La Mã tiếp tục vào các năm 911 và 949 song đã thất bại. Năm 960/1, chiến dịch của Nikephoros Phokas đã thu hồi thành công Crete về tay Đông La Mã.Đông La Mã - thời kỳ thứ hai
Năm 961, Nikephoros Phokas đã đưa hòn đảo trở về với quyền cai quản của Đông La Mã sau khi trục xuất những người Ả Rập.[19] Năm 1204, cuộc Thập tự chinh lần thứ 4 đã khiến kinh đô Constantinopolis bị chiếm và cướp phá. Crete bước đầu nằm dưới quyền lãnh đạo của Boniface của Montferrat[19] trong việc phân vùng các chiến lợi phẩm sau đó. Tuy nhiên, Boniface đã bán chủ quyền của mình cho Cộng hòa Venezia,[19] thế lực chiếm đa số trong cuộc Thập tự chinh. Đối thủ của Venezia, Cộng hòa Genova đã ngay lập tức chiếm giữa hòn đảo và cho đến tận năm 1212, đảo mới trở thành một thuộc địa của Venezia.Venezia cai trị
Dưới sự cai trị của Venezia, một thế lực Công giáo, Candia được coi là thành phố vững chắc nhất tại phía đông của Địa Trung Hải.[23] Ba pháo đài chính được đặt tại Gramvousa, Spinalonga, và Fortezza. Các công sự khác bao gồm pháo đài Kazarma. Năm 1492, những người Do Thái bị trục xuất từ Tây Ban Nha đã đến định cư trên đảo.[24] Năm 1574–77, Crete nằm dưới quyền quản lý của Giacomo Foscarini. Theo Starr (1942), thời kỳ quản lý của Giacomo Foscarini là những năm đen tối đối với người Do Thái và Hy Lạp. Khi đó, những người không theo Công giáo phải nộp thuế cao và không có chiết khấu. Năm 1627, có 800 người Do Thái tại Candia, tức 7% dân số của thành phố.[25]
Ottoman cai trị
Người Ottomans đã chinh phục Crete vào năm 1669, sau cuộc bao vây Candia. Nhiều người Hy Lạp tại Crete đã đào thoát đến các khu vực khác của Cộng hòa Venezia sau các cộc chiến tranh Ottoman–Venezia, một số thậm chí còn trở nên thịnh vượng như gia đình Simone Stratigo (1733 – 1824), họ đã nhập cư đến Dalamatia từ Crete vào năm 1669.[26]. Hầu hết người Hồi giáo Crete là những người Hy Lạp bản địa cải đạo, họ nói tiếng Hy Lạp Crete, song trong bối cảnh chính trị vào thế kỷ 19 tại đảo, họ được người Thổ nhìn nhận là người Thiên Chúa giáo.[27] Các ước tính đương thời có sự khác biệt, song vài đêm trước của Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp, có thể 45% dân cư của đảo là người Hồi giáo.[28] Số người theo phái Sufi phân bổ rộng khắp hòn đảo, Bektashi là phổ biến nhất, có ít nhất năm tekkes. Nhiều người trong số họ nguyên là Ki-tô hữu và đã cải đạo trở lại trong những năm tiếp sau, trong khi nhiều người khác rời khỏi Crete vì tình trạng bất ổn, định cư tại Thổ Nhĩ Kỳ, Rhodes, Syria và các nơi khác. Đến năm 1900, 11% dân cư của đảo là người Hồi giáo. Số còn lại này được tái định cư theo thỏa thuận Trao đổi dân cư giữa Hy Lạp và Thổ nhĩ Kỳ vào năm 1924.Nhà nước Kríti
Crete được một lực lượng quốc tế đồn trú, với một Cao Ủy (Armostis) do chinh phủ Hy Lạp lựa chọn là Alexandros Zaimis. Hòn đảo bị phân chia thành bốn phần cho bốn thế lực chính vào thời gian đó là Ý, Nga, Anh và Pháp, các khu vực chiếm đóng tương ứng là Chania, Rethymnon, Heraklion và Lasithi. Crete thống nhất với Hy Lạp vào ngày 1 tháng 12 năm 1913.Thế chiến II
Trong Thế chiến II, đảo là nơi đã diễn ra trận Crete nổi tiếng vào tháng 5 năm 1941. Các lính nhảy dù người Đức đã có 7.000 thương vong, gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ Khối Thịnh vượng chung Anh và người dân địa phương, do tướng Bernard Freyberg chỉ huy. Kết quả là, Adolf Hitler đã ngăn cấm các hoạt động bằng đường không có quy mô lớn hơn. Trong thời gian chiếm đóng, quân Đức thường hành quyết các thường dân là nam giới khi họ ngẫu nhiên tụ tập tại các ngôi làng nhằm trả thù cho các binh lính Đức, như tại Kondomari.Tham khảo
- ^ a ă Ancient Crete Oxford Bibliographies Online: Classics
- ^ Stephanie Lynn Budin, The Ancient Greeks: An Introduction (New York: Oxford UP, 2004), 42.
- ^ O. Dickinson, The Aegean Bronze Age (Cambridge, UK: Cambridge UP, 1994), 241-244.
- ^ Book 14, line 199; Henry George Liddell, Robert Scott, A Greek-English Lexicon
- ^ Edwin L. Brown, "Linear A on Trojan Spindlewhorls, Luvian-Based ϜΑΝΑΞ at Cnossus", in Qui miscuit utile dulci: Festschrift Essays for Paul Lachlan MacKendrick, eds., Gareth Schmeling, Jon D. Mikalson, 1998, p. 62.
- ^ Crete, p.44, by Victoria Kyriakopoulos.
- ^ Π.Δ. 51/87 "Καθορισμός των Περιφερειών της Χώρας για το σχεδιασμό κ.λ.π. της Περιφερειακής Ανάπτυξης" (Determination of the Regions of the Country for the planning etc. of the development of the Region, ΦΕΚ A 26/06.03.1987
- ^ a ă â 2001 Census
- ^ a ă Brian Murphy: Vendetta Victims: People, A Village -- Crete's `Cycle Of Blood' Survives The Centuries at The Seattle Times, 14 January 1999.
- ^ Aris Tsantiropoulos: Collective Memory and Blood Feud: The Case of Mountainous CretePDF (254 KB), Crimes and Misdemeanours 2/1 (2008), University of Crete.
- ^ The rough guide to Crete, Introduction, p. ix by J. Fisher and G. Garvey.
- ^ Strasser F. Thomas et al. (2010) Stone Age seafaring in the Mediterranean, Hesperia (The Journal of the American School of Classical Studies at Athens), vol. 79, pp. 145-190.
- ^ Wilford, J.N., On Crete, New Evidence of Very Ancient Mariners The New York Times, 15 Feb 2010.
- ^ Bowner, B., Hominids Went Out of Africa on Rafts Wired, 8 Jan 2010.
- ^ C. Michael Hogan. 2007 Knossos fieldnotes The Modern Antiquarian
- ^ Shelmerdine, Cynthia. “Where Do We Go From Here? And How Can the Linear B Tablets Help Us Get There?” (PDF). Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2008.
- ^ Kazhdan (1991), p. 546
- ^ Reinhart Dozy, Histoire des Musulmans d'Espagne: jusqu'à la conquête de l'Andalousie par les Almoravides (tiếng Pháp) pg. 711–1110, Leiden, 1861 & 1881, 2nd edition
- ^ a ă â Panagiotakis, Introduction, p. XVI.
- ^ Tiepolo, Maria Francesca; Tonetti, Eurigio (2002). I greci a Venezia. Istituto veneto di scienze. tr. 201. ISBN 8888143076, 9788888143071 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp). “Cretese Nikolaos Kalliakis” - ^ Boehm, Eric H. (1995). Historical abstracts: Modern history abstracts, 1450-1914, Volume 46, Issues 3-4. American Bibliographical Center of ABC-Clio. tr. 755. OCLC 701679973. “Between the 15th and 19th centuries the University of Padua attracted a great number of Greek students who wanted to study medicine. They came not only from Venetian dominions (where the percentage reaches 97% of the students of Italian universities) but also from Turkish-occupied territories of Greece. Several professors of the School of Medicine and Philosophy were Greeks, including Giovanni Cottunio, Niccolò Calliachi, Giorgio Calafatti...”
- ^ Convegno internazionale nuove idee e nuova arte nell '700 italiano, Roma, 19-23 maggio 1975. Accademia nazionale dei Lincei. 1977. tr. 429. OCLC 4666566. “Nicolò Duodo riuniva alcuni pensatori ai quali Andrea Musalo, oriundo greco, professore di matematica e dilettante di architettura chiariva le nuove idée nella storia dell’arte.”
- ^ M. Greene. 2001. Ruling an island without a navy. A comparative view of Venetian and Ottoman Crete. Oriente moderno, 20(81), 193–207
- ^ A.J. Schoenfeld. 2007. Immigration and Assimilation in the Jewish Community of Late Venetian Crete (15th–17th Centuries). Journal of Modern Greek Studies, 25(1), 1–15
- ^ Starr,J. (1942), Jewish Life in Crete Under The Rule Of Venice, Proceedings of the American Academy for Jewish Research, Vol. 12, pp. 59–114.
- ^ Carlo Capra, Franco Della Peruta, Fernando Mazzocca (2002). Napoleone e la repubblica italiana: 1802-1805. Skira. tr. 200. ISBN 8884914159 9788884914156 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp). “Simone Stratico, nato a Zara nel 1733 da famiglia originaria di Creta (abbandonata a seguito della conquista turca del 1669)” - ^ Demetres Tziovas, Greece and the Balkans: Identities, Perceptions and Cultural Encounters Since the Enlightenment; William Yale, The Near East: A modern history Ann Arbor: The University of Michigan Press, 1958)
- ^ William Yale, The Near East: A modern history by (Ann Arbor, The University of Michigan Press, 1958)
Nguồn
- Panagiotakis, Nikolaos M. (1987). “Εισαγωγικό Σημείωμα ("Introduction")”. Trong Panagiotakis, Nikolaos M. Crete, History and Civilization (bằng Greek) I. Vikelea Library, Association of Regional Associations of Regional Municipalities. tr. XI–XX.
Liên kết ngoài
Tìm hiểu thêm về Crete ở các dự án khác của Wikipedia: | |
![]() |
Định nghĩa ở Wiktionary |
![]() |
Nội dung đa phương tiện ở Commons |
![]() |
Tư liệu học tập ở Wikiversity |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Câu nói nổi tiếng ở Wikiquote |
![]() |
Văn bản ở Wikisource |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
- Natural History Museum of Crete at the University of Crete.
- Cretaquarium Thalassocosmos, Heraklion, Crete.
- Aquaworld Aquarium, Hersonissos, Crete.
- "Ancient Crete." Oxford Bibliographies Online: Classics.
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Crete |
- Crete The Official website of the Greek National Tourism Organisation
- Interactive Virtual Tour of Crete
- What happened on July 21, 365 A.D.? A mega-tsunami of the ancient world
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment