CNM365 Chào ngày mới 28 tháng 4 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày liệt sĩ của Người lao động Quốc tế; ngày Anh hùng Dân tộc tại Barbados. Năm 1945 – Benito Mussolini cùng phu nhân bị đội du kích Ý hành quyết khi đang tìm cách trốn khỏi đất nước này. Năm 1952 - Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc ký Hiệp ước Đài Bắc, chính thức chấm dứt Chiến tranh Trung-Nhật. Năm 1978 - Cách mạng Saur: Quân đội Cách mạng Afghanistan kiểm soát hoàn toàn thủ đô Kabul, sát hại Tổng thống Mohammed Daoud Khan. Năm 1984 - Bắt đầu trận Lão Sơn giữa Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Quân đội Nhân dân Việt Nam ở khu vực biên giới Văn Sơn-Hà Giang. Năm 2004 - Đại lộ Ngôi sao (hình) tại Hồng Kông được mở cửa cho công chúng, nhằm vinh danh các nhân vật nổi tiếng của điện ảnh Hồng Kông.
Đại lộ Ngôi sao (Hồng Kông)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đại lộ Ngôi sao (chữ Hán: 星光大道, Hán Việt: Tinh quang đại đạo, tiếng Anh: Avenue of Stars) là một con đường chạy dọc cảng Victoria thuộc khu Tiêm Sa Chủy, Hồng Kông. Được xây dựng từ năm 1982, đến năm 2003 đại lộ Ngôi sao được cải tạo phỏng theo Đại lộ Danh vọng Hollywood để vinh danh các nhân vật nổi tiếng của điện ảnh Hồng Kông.
Con đường mới được chính thức khánh thành ngày 28 tháng 4 năm 2004 với sự có mặt của nhiều quan chức trong chính quyền Hồng Kông cũng như các nhân vật có tên tuổi trong ngành giải trí Hồng Kông. Trong buổi lễ này người ta cũng tuyên bố danh sách 73 "ngôi sao" đầu tiên được khắc tên trên đại lộ.
Tại điểm bắt đầu của con đường ở vườn Salisbury, người ta dựng một phiên bảo của bức tượng Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (Kim tượng) cao 4,5 m. Trong suốt chiều dài 440 m của đại lộ Ngôi sao, người ta cũng cho dựng một số bức tượng khác miêu tả quá trình làm phim như tượng đạo diễn, nhà quay phim, xe chiếu phim lưu động. Ngoài ra lịch sử của điện ảnh Hồng Kông cũng được tóm tắt trên 9 cột sơn đỏ dọc Đại lộ. Điểm thu hút nhất của con đường là các viên gạch có hình ngôi sao khắc tên (bằng Hán tự và tiếng Anh) của các "ngôi sao" trong nền điện ảnh Hồng Kông, kèm theo dấu tay và chữ ký của những nhân vật còn sống. Ngày 27 tháng 11 năm 2005, nhân kỉ niệm ngày sinh lần thứ 65 của ngôi sao võ thuật Lý Tiểu Long, một bức tượng mô tả nhân vật của Lý Tiểu Long trong Long tranh hổ đấu (龍爭虎鬪, 1973) đã được khánh thành trên đại lộ.
Lịch sử
Năm 1982, tập đoàn New World cho đầu tư xây dựng một con đường dạo mát bên bờ cảng Victoria cạnh trung tâm mua sắm New World Centre (thuộc Tiêm Sa Chủy, Cửu Long, Hồng Kông). Đến năm 2003 tập đoàn này tuyên bố đầu tư 40 triệu HKD để cải tạo con đường dạo mát trở thành "Đại lộ Ngôi sao", một điểm thu hút khách du lịch với đề tài là nền điện ảnh Hồng Kông, đây là dự án lấy hình mẫu từ Đại lộ Danh vọng Hollywood, Hoa Kỳ. Ý tưởng này của tập đoàn New World đã được chính quyền Hồng Kông, Cục Du lịch Hồng Kông (Hong Kong Tourism Commission), Ủy ban Văn hóa và Giải trí Hồng Kông (Hong Kong Leisure and Cultural Services Department) và Hiệp hội Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông ủng hộ.Con đường mới được chính thức khánh thành ngày 28 tháng 4 năm 2004 với sự có mặt của nhiều quan chức trong chính quyền Hồng Kông cũng như các nhân vật có tên tuổi trong ngành giải trí Hồng Kông. Trong buổi lễ này người ta cũng tuyên bố danh sách 73 "ngôi sao" đầu tiên được khắc tên trên đại lộ.
Mô tả
Đại lộ Ngôi sao thuộc khu vực tập trung rất nhiều điểm thăm quan du lịch ở khu Tiêm Sa Chủy dọc cảng Victoria, ngoài New World Centre còn có Bảo tàng Nghệ thuật Hồng Kông, Bảo tàng Không gian Hồng Kông, Trung tâm Văn hóa Hồng Kông và Tháp đồng hồ Tiêm Sa Chủy (Clock Tower). Vào buổi tối đứng từ con đường này người ta có thể quan sát toàn cảnh vịnh Hồng Kông, vì vậy đây là địa điểm rất thuận lợi để theo dõi các buổi trình diễn ánh sáng Huyền thoại vịnh Hương Giang (幻彩詠香江).Tại điểm bắt đầu của con đường ở vườn Salisbury, người ta dựng một phiên bảo của bức tượng Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (Kim tượng) cao 4,5 m. Trong suốt chiều dài 440 m của đại lộ Ngôi sao, người ta cũng cho dựng một số bức tượng khác miêu tả quá trình làm phim như tượng đạo diễn, nhà quay phim, xe chiếu phim lưu động. Ngoài ra lịch sử của điện ảnh Hồng Kông cũng được tóm tắt trên 9 cột sơn đỏ dọc Đại lộ. Điểm thu hút nhất của con đường là các viên gạch có hình ngôi sao khắc tên (bằng Hán tự và tiếng Anh) của các "ngôi sao" trong nền điện ảnh Hồng Kông, kèm theo dấu tay và chữ ký của những nhân vật còn sống. Ngày 27 tháng 11 năm 2005, nhân kỉ niệm ngày sinh lần thứ 65 của ngôi sao võ thuật Lý Tiểu Long, một bức tượng mô tả nhân vật của Lý Tiểu Long trong Long tranh hổ đấu (龍爭虎鬪, 1973) đã được khánh thành trên đại lộ.
Đại lộ Ngôi sao | Kim tượng | Tượng Lý Tiểu Long | Người quay phim và đạo diễn | |
Ngôi sao của diễn viên Lý Tiểu Long, chỉ khắc tên | Ngôi sao của diễn viên Trương Mạn Ngọc, có tên và dấu tay, chữ ký | Ngôi sao của đạo diễn Ngô Vũ Sâm | Ngôi sao của diễn viên Thành Long |
Danh sách nhân vật
Dưới đây là danh sách các nhân vật được vinh danh tại đại lộ Ngôi sao trong 5 đợt: tháng 4 năm 2004 (73 người), tháng 11 năm 2005 (10 người), tháng 11 năm 2006 (10 người),tháng 6 năm 2007 (8 người)và tháng 12 năm 2012 (6 người), các nhân vật được vinh danh sẽ có một ngôi sao gắn trên con đường, bên cạnh ngôi sao là chữ ký, dấu tay của người đó. Với các nhân vật đã qua đời, sẽ chỉ có ngôi sao khắc tên của họ (cả bằng Hán tự và tiếng Anh) được gắn trên đường.Nhân vật | Vai trò | |
---|---|---|
Tháng 4 năm 2004 | ||
01 | Lê Dân Vĩ (黎民伟) |
Cha đẻ của điện ảnh Hồng Kông Đạo diễn Trang Tử thí thê, bộ phim đầu tiên của Hồng Kông |
02 | Lâm Sở Sở (林楚楚) |
|
03 | Hồ Điệp (胡蝶) |
|
04 | Thiệu Dật Phu (邵逸夫) |
Người sáng lập hãng phim Thiệu Thị |
05 | Hoàng Mạn Lê (黄曼梨) |
|
06 | Châu Thạch Lân (朱石麟) |
|
07 | Tào Đạt Hoa (曹达华) |
Diễn viên tiên phong của thể loại kiếm hiệp |
08 | Lư Đôn (盧敦) |
|
09 | Nhạc Phong (岳枫) |
|
10 | Quan Đức Hưng (关德兴) |
|
11 | Trương Hoạt Du (张活游) |
|
12 | Ngô Sở Phàm (吴楚帆) |
|
13 | Tư Mã Sư Tằng (新马师曾) |
|
14 | Bạch Yến (白燕) |
|
15 | Chu Tuyền (周璇) |
Diễn viên, vai nữ chính trong Mã Lộ thiên sử |
16 | Trương Anh (张瑛) |
|
17 | Lý Thiết (李铁) |
|
18 | Hồ Bằng (胡鹏) |
|
19 | Nhậm Kiến Huy (任剑辉) |
Diễn viên phim kiếm hiệp |
20 | Thạch Kiên (石坚) |
Diễn viên tiên phong của thể loại kiếm hiệp |
21 | Lý Lệ Hoa (李丽华) |
|
22 | Bạch Quang (白光) |
Diễn viên |
23 | Ngô Hồi (吴回) |
|
24 | Bạch Tuyết Liên (白雪仙) |
|
25 | Hồng Tuyến Nữ (红线女) |
|
26 | Tần Kiếm (秦剑) |
|
27 | Vu Tố Thu (于素秋) |
Nữ diễn viên phim kiếm hiệp |
28 | Lương Tỉnh Ba (梁醒波) |
|
29 | Đặng Kí Trần (邓寄尘) |
|
30 | Đặng Bích Vân (邓碧云) |
|
31 | Phương Diễm Phân (芳艳芬) |
|
32 | Hạ Mộng (夏梦) |
Diễn viên |
33 | Lâm Đại (林黛) |
|
34 | Hồ Phong (胡枫) |
|
35 | Vưu Mẫn (尤敏) |
|
36 | Tạ Hiền (谢贤) |
Diễn viên, đạo diễn (cha của Tạ Đình Phong) |
37 | Lý Hàn Tường (李翰祥) |
Người sáng lập hãng Cathay Organisation |
38 | Lục Vận Đào (陆运涛) |
|
39 | Kiều Hoành (乔宏) |
|
40 | Lâm Phượng (林凤) |
|
41 | Trương Triệt (张彻) |
Diễn viên, đạo diễn Đạo diễn, biên kịch của Độc thủ đại hiệp |
42 | Sở Nguyên (楚原) |
|
43 | Hồ Kim Thuyên (胡金铨) |
Đạo diễn, đạo diễn của Long Môn khách sạn |
44 | Lăng Ba (凌波) |
|
45 | Trần Bảo Châu (陈宝珠) |
Ngôi sao thiếu nhi của điện ảnh Hồng Kông thập niên 1960 |
46 | Tiêu Phương Phương (萧芳芳) |
Diễn viên |
47 | Phùng Bảo Bảo (冯宝宝) |
Diễn viên |
48 | Vương Vũ (王羽) |
Diễn viên, vai chính trong Độc thủ đại hiệp |
49 | Địch Long (狄龙) |
Diễn viên phim kiếm hiệp |
50 | Khương Đại Vệ (姜大卫) |
|
51 | Hà Quan Xương (何冠昌) |
|
52 | Trâu Văn Hoài (邹文怀) |
Người sáng lập hãng Golden Harvest |
53 | Lý Tiểu Long (李小龙) |
Diễn viên |
54 | Ngô Tư Viễn (吴思远) |
Đạo diễn, nhà sản xuất |
55 | Hứa Quan Văn (许冠文) |
Diễn viên, đạo diễn |
56 | Hứa Quan Kiệt (许冠杰) |
Diễn viên (em trai của Hứa Quan Văn) |
57 | Lâm Thanh Hà (林青霞) |
Diễn viên |
58 | Hồng Kim Bảo (洪金宝) |
Diễn viên, đạo diễn |
59 | Thành Long (成龙) |
Diễn viên, đạo diễn |
60 | Ngô Vũ Sâm (吴宇森) |
Đạo diễn, nhà sản xuất |
61 | Viên Hòa Bình (袁和平) |
Đạo diễn, chỉ đạo võ thuật |
62 | Hứa An Hoa (许鞍华) |
Đạo diễn |
63 | Từ Khắc (徐克) |
Đạo diễn, nhà sản xuất |
64 | Chu Nhuận Phát (周润发) |
Diễn viên |
65 | Trương Quốc Vinh (张国荣) |
Diễn viên |
66 | Lưu Đức Hoa (刘德华) |
Diễn viên |
67 | Lý Liên Kiệt (李连杰) |
Diễn viên |
68 | Trương Mạn Ngọc (张曼玉) |
Diễn viên |
69 | Mai Diễm Phương (梅艳芳) |
Diễn viên |
70 | Lương Triều Vĩ (梁朝伟) |
Diễn viên |
71 | Dương Tử Quỳnh (杨紫琼) |
Diễn viên |
72 | Vương Gia Vệ (王家卫) |
Đạo diễn |
73 | Chu Tinh Trì (周星驰) |
Diễn viên, đạo diễn |
Tháng 11 năm 2005 | ||
01 | Tử La Liên (紫罗莲) |
|
02 | Vương Thiên Lâm (王天林) |
|
03 | Lâm Gia Thanh (林家声) |
|
04 | Bảo Phương (鲍方) |
|
05 | Lưu Gia Lương (刘家良) |
|
06 | Thạch Tuệ (石慧) |
|
07 | Phó Kì (傅奇) |
|
08 | Cát Lan (葛兰) |
|
09 | Gia Linh (嘉玲) |
|
10 | Quan Sơn (关山) |
|
Tháng 11 năm 2006 | ||
01 | Nghê Khuông (倪匡) |
|
02 | La Duy (羅維) |
|
03 | Đường Giai (唐佳) |
|
04 | Hoàng Triêm (黃霑) |
|
05 | Mạch Gia (麥嘉) |
|
06 | Tằng Chí Vĩ (曾志偉) |
Diễn viên |
07 | Trương Thúc Bình (張叔平) |
|
08 | Lương Gia Huy (梁家輝) |
Diễn viên |
09 | Hoàng Thu Sinh (黃秋生) |
Diễn viên |
10 | Trương Bá Chi (張栢芝) |
Diễn viên |
Tháng 6 năm 2007 | ||
01 | Trương Học Hữu (张学友) |
Diễn viên |
02 | Trương Ngải Gia (张艾嘉) |
Diễn viên |
03 | Củng Lợi (巩俐) |
Diễn viên |
04 | Lưu Thanh Vân (刘青云) |
Diễn viên |
05 | Tằng Giang (曾江) |
|
06 | Quách Phú Thành (郭富城) |
Diễn viên |
07 | Lê Minh (黎明) |
Diễn viên |
08 | Lê Bắc Hải (黎北海) |
|
Tháng 12 năm 2012 | ||
01 | Diệp Đức Nhàn (葉德嫻) |
Diễn viên |
02 | Lưu Gia Linh (劉嘉玲) |
Diễn viên |
03 | Nhậm Đạt Hoa (任達華) |
Diễn viên |
04 | Tạ Đình Phong (謝霆鋒) |
Diễn viên, ca sĩ (con của Tạ Hiền) |
05 | Cổ Thiên Lạc (古天樂) |
Diễn viên |
06 | Huệ Anh Hồng (惠英紅) |
Diễn viên |
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Đại lộ Ngôi sao |
- Trang web chính thức của Đại lộ Ngôi sao
- Mô tả trên trang web của Ủy ban Du lịch Hồng Kông
Xung đột biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
|
Khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979 sau cuộc chiến tranh biên giới, Trung Quốc tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam".[1] Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60 km2 lãnh thổ[2] có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn, quân Trung Quốc chiếm đóng các mảnh đất không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam.[3]
Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, đỉnh điểm là các năm 1984-1985.[4] Tới đầu những năm 1990, cùng với việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Liên Xô sụp đổ, quan hệ giữa hai nước dần trở lại bình thường. Với việc ký Hiệp định phân mốc lãnh thổ năm 2009, Trung Quốc dần thực hiện việc rút quân khỏi các vị trí đã chiếm đóng của Việt Nam trong thời gian trước.
Mục lục
Bối cảnh
Kể từ năm 1979, có ít nhất sáu đợt giao tranh lớn diễn ra tại một số điểm trên biên giới Việt-Trung, là các đợt tháng 6 năm 1980, tháng 5 năm 1981, tháng 4 năm 1983, tháng 4 năm 1984, tháng 6 năm 1985 và đợt từ tháng 10 năm 1986 đến tháng 1 năm 1987. Tất cả các cuộc giao tranh trên đều do Trung Quốc khiêu khích hay gây hấn trước, nhằm phục vụ cho các mục tiêu chính trị của họ.[5]Mặt trận Vị Xuyên là mặt trận diễn ra các cuộc chạm trán ác liệt nhất. Tại mặt trận này có gồm nhiều đơn vị quân của cả hai phía luân phiên tham chiến. Về phía Việt Nam có các Trung đoàn bộ binh 981, 982, 983 và các Sư đoàn 313, 314, 316, 356 thuộc Quân khu 1, và một số các đơn vị pháo binh, công binh, vận tải, đặc công, trinh sát khác. Các Sư đoàn bộ binh 312, 325, 31 cũng từng tham chiến tại mặt trận này. Về phía Trung Quốc, các lực lượng bao gồm nhiều quân đoàn thuộc 7 đại quân khu cũng được luân chuyển qua mặt trận này để "vuốt đuôi hổ", tức huấn luyện trận mạc, theo chủ trương của Đặng Tiểu Bình.
Bên cạnh sử dụng quân chính quy, Trung Quốc còn trang bị và huấn luyện các lực lượng vũ trang người thiểu số chống lại chính phủ Việt Nam và Lào hoạt động tại các vùng biên giới phía Bắc. Các hoạt động này kéo dài tới năm 1988 mới kết thúc khi Trung Quốc chấm dứt sự hỗ trợ của họ cho các lực lượng nổi dậy thiểu số này (đặc biệt là của người H'Mông).[6][7]
Năm 1980: Pháo kích Cao Bằng
Từ đầu năm 1980, Việt Nam tiến hành các chiến dịch tấn công mùa khô quy mô nhỏ nhằm càn quét các lực lượng Khmer Đỏ còn nằm rải rác trên biên giới Campuchia - Thái Lan. Để gây sức ép lên Việt Nam nhằm buộc Việt Nam phải rút quân từ Campuchia về, Trung Quốc tăng áp lực lên khu vực biên giới bằng cách triển khai nhiều quân đoàn đối diện với biên giới Việt Nam. Trung Quốc cũng tiến hành huấn luyện quân sự cho khoảng 5.000 quân thuộc các lực lượng người H'Mông chống đối Lào tại tỉnh Vân Nam và sử dụng lực lượng này đánh phá khu vực Muong Sing ở Tây Bắc Lào gần biên giới Trung Quốc.[8] Tuy nhiên Việt Nam cũng đã tăng cường lực lượng đồn trú tại biên giới, và Trung Quốc không còn có được ưu thế về người như khi họ tiến hành chiến dịch tháng 2 năm 1979.Tháng 6 năm 1980, Quân đội Nhân dân Việt Nam vượt biên giới Thái Lan trong khi truy kích quân Khmer Đỏ tháo chạy.[5] Dù quân Việt Nam nhanh chóng rút khỏi lãnh thổ Thái Lan sau đó, thì việc này cũng khiến Trung Quốc cảm thấy họ phải hành động để ứng cứu đồng minh Thái Lan và Khmer Đỏ. Trong các ngày từ 28 tháng 6 cho tới 6 tháng 7, bên cạnh lớn tiếng chỉ trích Việt Nam trên mặt ngoại giao, quân Trung Quốc liên tục bắn pháo vào lãnh thổ Việt Nam tại tỉnh Cao Bằng. Các cuộc bắn phá của Trung Quốc không nhằm vào một mục tiêu quân sự chiến lược nào cả, không có ảnh hưởng lớn lên Việt Nam và chỉ mang tính tượng trưng. Việt Nam cảm thấy việc tiến hành các hoạt động quân sự quy mô lớn trên biên giới nằm ngoài khả năng của Trung Quốc, nên Việt Nam có thể rảnh tay tiến hành các hoạt động quân sự tại Campuchia. Tuy nhiên, các cuộc nã pháo của Trung Quốc cũng định hình kiểu xung đột trên biên giới với Việt Nam trong suốt 10 năm sắp tới.
Năm 1981: Tấn công các cao điểm ở Lạng Sơn và Hà Giang
Ngày 2 tháng 1 năm 1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam đề nghị ngưng bắn để đón năm mới. Đề nghị này bị phía Trung Quốc bác bỏ ngày 20 tháng 1.[5] Tuy vậy, hai phía vẫn tiến hành trao đổi tù binh. Tình hình mặt trận tương đối yên tĩnh trong mấy tháng tiếp theo.Tới tháng 5, giao tranh ác liệt đột ngột bùng lên với việc quân Trung Quốc ở cấp trung đoàn tiến công đánh chiếm một dải đất hẹp ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn được phía Việt Nam gọi là Cao điểm 400 (mà Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn - 法卡山 hay Fakashan). Trung Quốc cũng tấn công và đánh chiếm các điểm cao chiến lược (có số hiệu 1800a, 1800b, 1688 và 1509) tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên. Giao tranh diễn ra hết sức đẫm máu với hàng trăm người thuộc cả hai bên thiệt mạng. Để biện minh cho các hoạt động quân sự này, Trung Quốc tuyên bố họ tấn công để trả đũa các hành vi gây gấn của Việt Nam trong thời gian quý 1 năm đó.[5]
Để trả đũa, bộ binh Việt Nam đột kích vào Trung Quốc ở hướng tỉnh Quảng Tây trong các ngày 5 và 6 tháng 5. Một đại đội quân Việt Nam cũng đánh vào khu vực hợp tác xã Mengdong, huyện Malipo, tỉnh Vân Nam. Trung Quốc tuyên bố đã đánh lui năm đợt tấn công xuất phát từ Việt Nam và tiêu hao hàng trăm quân Việt Nam tấn công vào Quảng Tây. Tới ngày 22 tháng 5, họ lại tuyên bố tiêu diệt 85 quân Việt Nam đánh vào khu vực Koulin thuộc Vân Nam. Tổng cộng Trung Quốc tuyên bố đã tiêu diệt khoảng 300 quân Việt Nam trong các cuộc giao chiến qua lại trên biên giới.[5]
Dù chiến cuộc bùng phát dữ dội, Trung Quốc thực sự không muốn leo thang[5] và chỉ dùng các lực lượng biên phòng chứ không huy động quân chủ lực cho các trận đánh. Các quan sát viên phương Tây nhận định: "Dù tình hình căng thẳng tại biên giới gia tăng, khó có khả năng diễn ra một 'bài học' của Trung Quốc cho Việt Nam. Cái giá sẽ phải trả bằng nhân mạng, tiền của và uy tín chính trị (của Trung Quốc) là quá đắt, đặc biệt là khi Việt Nam đã tăng cường lực lượng quân chính quy tại biên giới và giành được ưu thế rõ rệt về trang thiết bị".[9] Các nhà phân tích khác chỉ ra rằng mùa mưa sắp tới, và việc Trung Quốc mới cắt giảm ngân sách quốc phòng không cho phép họ tiến hành một cuộc xâm lược quy mô lớn.[10]
Năm 1984: Xâm lấn biên giới ở Vị Xuyên
Tới năm 1984, quân Trung Quốc lại mở các đợt tấn công lớn vào Lạng Sơn. Ngày 6 tháng 4, để hỗ trợ cho các lực lượng Khmer Đỏ tại Campuchia, Trung Quốc mở cuộc tấn công ở cấp trung đoàn vào các vị trí của Việt Nam. Cuộc tấn công lớn nhất diễn ra tại huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, với nhiều tiểu đoàn quân Trung Quốc đánh vào các cao điểm 820 và 636 gần đường tiến quân năm 1979 tại Hữu Nghị Quan. Dù lực lượng hùng hậu, nhưng tới ngày hôm sau, các đợt tấn công của họ đều bị đánh lui hoặc phải bỏ các vị trí đã chiếm được.[11]Tại Hà Tuyên, trong tháng 4 đến tháng 7 năm 1984, quân Trung Quốc đánh vào dải đồi thuộc huyện Vị Xuyên, mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn (老山 hay Laoshan) , gần cột mốc biên giới số 13. Lão Sơn thực ra là một dãy đồi chạy từ tây sang đông, từ ngọn đồi ở bình độ 1800 ở phía tây tới đồi bình độ 1200 ở phía đông. Ngọn đồi 1200 này phía Trung Quốc gọi là Giả Âm Sơn (者阴山 hay Zheyinshan), và đây cũng là ngọn đồi duy nhất nơi chiến sự xảy ra ở phía đông sông Lô. Tất cả các cuộc giao tranh khác tại Vị Xuyên đều diễn ra ở phía tây của sông Lô chảy vào Việt Nam.
Trung Quốc mở màn cuộc tấn công lúc 5 giờ sáng ngày 28 tháng 4 năm 1984 sau một đợt pháo kích ác liệt. Sư đoàn 40 thuộc Quân đoàn 14 của Trung Quốc vượt biên giới theo bờ tây sông Lô, còn Sư đoàn 49 (có lẽ thuộc Quân đoàn 16 từ Quân khu Nam Kinh), tấn công và đánh chiếm Cao điểm 1200.[12] Lực lượng phòng ngự Việt Nam bao gồm bộ binh từ Sư đoàn 313 và khẩu đội pháo binh từ Lữ đoàn pháo binh 168 đành rút lui khỏi các ngọn đồi này.[13]
Quân Trung Quốc chiếm được ấp Na La và các cao điểm 226, 685, và 468,[14] tạo nên một vùng lồi kéo dài khoảng 2,5 km tại Cao điểm 468 hướng về phía Việt Nam. Vị trí này được bảo vệ bởi vách đá dựng đứng có rừng bao phủ và dòng suối Thanh Thủy ở phía nam, chỉ có thể tiếp cận được bằng cách băng qua khoảng đất trống thung lũng sông Lô ở phía đông, và như vậy rất thuận lợi cho phòng ngự.[15] Tuy nhiên tại các nơi khác, chiến sự diễn ra giằng co từ ngày 28 tháng 4 cho tới 15 tháng 5, và các cao điểm 1509 (tức Núi Đất, Trung Quốc gọi là Lão Sơn[16]), 772, 233, 1200 (tức Giả Âm Sơn), 1030 (tức Đông Sơn) liên tục đổi chủ. Sau ngày 15 tháng 5, chiến sự tạm dừng sau khi phía Trung Quốc bước đầu làm chủ được các ngọn đồi này; đến ngày 12 tháng 7, giao tranh lại bùng lên khi quân Việt Nam tổ chức phản công tái chiếm các vị trí đã mất nhưng không thành. Sau đó chiến sự dừng hẳn, chỉ có các cuộc chạm trán hoặc đọ pháo lẻ tẻ.
Để phòng ngự các khu vực chiếm được, Trung Quốc duy trì hai quân đoàn tại khu vực Vị Xuyên, bao gồm bốn sư đoàn bộ binh, hai sư đoàn pháo binh và vài trung đoàn xe tăng. Sư đoàn pháo binh Trung Quốc bố trí tại khu vực này gồm pháo 130 mm và bích kích pháo (lựu pháo) 155 mm, cũng như hỏa tiễn 40 nòng. Các trung đoàn bộ binh có pháo 85 mm và cối 100 mm. Các cuộc giao tranh ở đây diễn ra chủ yếu là đấu pháo, với các đơn vị quân Việt Nam ở mức đại đội xâm nhập tìm cách đánh chiếm lại các cao điểm.[17] Trong một số trận đụng độ, Trung Quốc đưa cả xe tăng vào giao chiến.
Kết quả, quân Trung Quốc chiếm được một số ngọn đồi thuộc dải đồi này, gồm 29 điểm trong lãnh thổ Việt Nam. Trong số các vị trí mà quân Trung Quốc chiếm được có các cao điểm 1509, 772 ở phía tây sông Lô và các cao điểm 1250 (Núi Bạc[16]), 1030 và đỉnh Si Cà Lá ở phía đông sông Lô.[5] Chiến sự diễn ra dọc tuyến biên giới dài khoảng 11 km, và nơi quân Trung Quốc chiếm được sâu nhất trong lãnh thổ Việt Nam là Cao điểm 685 và Cao điểm 468, nằm cách biên giới khoảng 2 km.
Giao tranh kéo dài dai dẳng, nhưng không có nơi nào quân Trung Quốc tiến sâu được hơn vào lãnh thổ Việt Nam quá 5 km, dù quân đông hơn nhiều.[18] Theo tin tình báo Hoa Kỳ, Việt Nam không thành công trong nỗ lực tái chiếm 8 mỏm núi, và Trung Quốc đã cho quân đóng giữ ở các mỏm núi này.[19] Theo công bố chính thức của Việt Nam, họ đã tiêu diệt một trung đoàn và 8 tiểu đoàn quân Trung Quốc, "loại khỏi vòng chiến đấu" 5.500 quân Trung Quốc.[20] Tới tháng 8, Việt Nam tuyên bố nâng tổng số quân Trung Quốc bị loại ra khỏi vòng chiến đấu lên đến 7.500 quân trong vòng 4 tháng.[21] Trung Quốc tuyên bố loại khỏi vòng chiến khoảng 2.000-4.000 quân Việt Nam, còn về phía mình Trung Quốc có 939 lính và 64 dân công chết.[16][17] Phía Việt Nam xác nhận trong trận đánh ngày 12 tháng 7, chỉ riêng Sư đoàn 356 của họ đã có khoảng 600 binh sĩ thiệt mạng.[22]
Tháng 10 năm 1986 - tháng 1 năm 1987: "Chiến tranh giả"
Nếu như trong năm 1985, Trung Quốc bắn khoảng 800.000 phát đạn pháo vào Vị Xuyên, trong tổng số khoảng 1 triệu phát đạn pháo trên toàn biên giới, thì số vụ bắn phá trong năm 1986 cho tới đầu năm 1987 giảm hẳn, chỉ còn chừng vài chục ngàn viên đạn pháo một tháng. Đây có lẽ là kết quả của việc Liên Xô, mà cụ thể là Tổng bí thư Gorbachev kêu gọi bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong bài diễn văn tại Vladivostok. Tới tháng 10 năm 1986, Trung Quốc cũng thành công trong việc thuyết phục Liên Xô tiến hành đàm phán về vấn đề Campuchia trong vòng đàm phán thứ 9 giữa Liên Xô và Trung Quốc.[23]Tuy nhiên, giữa lúc các tín hiệu ngoại giao đang có xu thế trở nên tích cực, thì tình hình biên giới đột nhiên trở lại căng thẳng. Ngày 14 tháng 10 năm 1986, Việt Nam tố cáo Trung Quốc bắn 35.000 phát đạn pháo vào Vị Xuyên, và có những hành động lấn chiếm lãnh thổ. Việt Nam cho biết đã đẩy lui ba đợt tấn công của quân Trung Quốc tại Cao điểm 1100 và cầu Thanh Thủy. Đây có thể là phản ứng của Trung Quốc trước việc Liên Xô từ chối gây sức ép đòi Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia,[24] hoặc để đáp lại các hoạt động quân sự mùa khô mà Việt Nam đang chuẩn bị tại Campuchia. Trong các ngày 5 đến 7 tháng 1 năm 1987, Việt Nam cho biết Trung Quốc tăng cường bắn phá và đưa quân xâm lấn lãnh thổ. Quân Trung Quốc đã bắn hàng chục ngàn phát đạn pháo và mở 15 đợt tấn công với lực lượng tham gia cỡ sư đoàn đánh vào các vị trí quân Việt Nam tại các mỏm 233, 685, 1100 và 1509.[5] Phía Việt Nam cho biết đã gây 1.500 thương vong vào quân Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc cũng tuyên bố đã gây 500 thương vong vào quân Việt Nam, và cho rằng tuyên bố của Việt Nam là phóng đại. Trung Quốc cho biết tổng số thương vong của họ thấp hơn 500.
Theo Carlyle A. Thayer nhận định, giao tranh lần này chỉ mang tính một cuộc "chiến tranh giả".[5] Dù chiến sự diễn ra kịch liệt tại Vị Xuyên, tình hình tại các tỉnh biên giới khác của Việt Nam khá yên tĩnh, và quân Trung Quốc không huy động các đơn vị quân chủ lực trong suốt thời gian xung đột bùng nổ. Tương quan quân sự của hai nước tại vùng biên giới không thay đổi trong thời gian này.
Năm 1988: Hải chiến Trường Sa
Kết quả
Kể từ tháng 4 năm 1987, quân Trung Quốc giảm quy mô các hoạt động quân sự tại Việt Nam, dù quân của họ tiếp tục tuần tra tại Lão Sơn và Giả Âm Sơn. Từ tháng 4 năm 1987 tới tháng 10 năm 1989 họ chỉ tiến hành 11 cuộc tấn công, chủ yếu là pháo kích. Tới năm 1992, quân chính quy Trung Quốc rút khỏi Lão Sơn và Giả Âm Sơn.[25]Hàng ngàn người thuộc cả hai phía thiệt mạng trong cuộc chiến. Tại nghĩa trang quân đội Vị Xuyên ở tỉnh Hà Giang, có hơn 1.600 nấm mộ liệt sỹ Việt Nam hy sinh trong suốt các giai đoạn cuộc chiến cho tới tận năm 1990.[26]
Trung Quốc dần thực hiện việc rút quân khỏi các vị trí đã chiếm đóng của Việt Nam trong thời gian trước. Từ năm 1989, Trung Quốc rút khỏi một số điểm ở phía bắc suối Thanh Thủy. Ngày 13 tháng 3 năm 1989, họ rút khỏi 20 vị trí và đến tháng 9 năm 1989, họ rút khỏi 9 điểm còn lại. Tại Cao điểm 1509 mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn (lưu ý có 2 cao điểm cùng tên là 1509, 1 mỏm thuộc Việt Nam và 1 thuộc Trung Quốc theo Hiệp ước Pháp - Thanh), họ cho tiến hành xây cất công sự bê tông tại các vị trí thuộc phần lãnh thổ của mình sau khi chiến sự kết thúc, chỉ để lại các công sự đất tại phần thuộc Việt Nam, được trao trả theo hiệp định biên giới năm 2009 giữa hai nước.
Chú thích
- ^ Nayan Chanda, "End of the Battle but Not of the War", Far Eastern Economic Review, 16 tháng 3 năm 1979, tr. 10. Chanda trích lời quan chức Trung Quốc tuyên bố rút lui ngày 5 tháng 3 năm 1979
- ^ Edward C. O’Dowd, tr. 91
- ^ Nayan Chanda, "End of the Battle but Not of the War", tr. 10. Khu vực có giá trị tượng trưng tinh thần nhất là khoảng 300m đường xe lửa giữa Hữu Nghị Quan và trạm kiểm soát biên giới Việt Nam.
- ^ François Joyaux, tr. 242
- ^ a ă â b c d đ e ê Carlyle A. Thayer, Security Issues in Southeast Asia: The Third Indochina War
- ^ Alex Peter Schmid, Political terrorism, 2nd edition (March 8, 2005)
- ^ "Gặp người bị phỉ treo giải chặt đầu", báo Gia đình & Xã hội, cập nhật 19 tháng 07 năm 2009
- ^ John McBeth, "Squeezing the Vietnamese", Far Eastern Economic Review, 19 tháng 12 năm 1980, tr. 9
- ^ Michael Weisskopf và Howard Simmons, "A Slow Burn on the Sino-Vietnam Border", Asiaweek (22 tháng 5 năm 1981), tr. 24.
- ^ Michael Weisskopf điện về từ Bắc Kinh, International Herald Tribune, 25 tháng 5 năm 1981.
- ^ Edward C. O’Dowd, tr. 98
- ^ Ziwei Huanji, Counterattack in Self-Defense Against Vietnam, B.P. Mahony, làm việc cho Phân cục Tình báo của Cảnh sát Liên bang Úc được tiếp cận các tài liệu mật, cho biết có ít nhất 3 sư đoàn quân Trung Quốc tham gia tấn công (B.P. Mahony, Sino-Vietnamese Security Issues: Second Lesson Versus Stalemate, trình bày tại cuộc họp 'Asian Studies Association of Australia' tại University of Sydney, 12–16 tháng 5, 1986). Các nguồn khác xác định Sư đoàn 31 thuộc Quân đoàn 11 là đơn vị đánh Cao điểm 1200. Không ngoại trừ trường hợp cả hai đơn vị này đều tham gia tấn công. Thậm chí nếu họ chỉ dùng hai sư đoàn để tấn công, quân Trung Quốc cũng có lợi thế về số lượng, với 24.000 quân chống lại chừng 10.000 quân của Sư đoàn 313 của Việt Nam.
- ^ Ziwei Huanji. Phía Trung Quốc cho biết các trung đoàn đơn lẻ thuộc các Sư đoàn 316, 312, và 345 của Việt Nam tham gia trong trận phòng ngự này.
- ^ Lịch sử Lữ đoàn pháo binh 168, 1978–1998 trang 32–43.
- ^ B.P. Mahony, Sino-Vietnamese Security Issues: Second Lesson Versus Stalemate, tr. 14
- ^ a ă â "Trận Núi Đất" theo BBC
- ^ a ă Xiaobing Li, tr. 260
- ^ Edward C. O’Dowd, trang 100
- ^ "Intelligence", Far Eastern Economic Review, 2 tháng 8 năm 1984
- ^ Paul Quinn-Judge, "Borderline Cases", Far Eastern Economic Review, 21 tháng 6 năm 1984, tr. 26
- ^ Đài phát thanh Hà Nội, trích bởi The Nation Review [Bangkok], 7 tháng 8 năm 1984
- ^ "Tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Truông Bồn, biên giới phía Bắc", báo Đất Việt, cập nhật 15 tháng 7 năm 2013.
- ^ AFP điện từ Bắc Kinh, The Canberra Times, 6 tháng 10 năm 1986.
- ^ "A Crescendo for Withdrawal", Asiaweek, 2 tháng 11 năm 1986, tr. 11.
- ^ Xiaobing Li, tr. 263
- ^ Edward C. O’Dowd, tr. 101
Tài liệu tham khảo
- Nayan Chanda (1986). Brother Enemy. The War after the War.. Harcourt Brace Jovanovich. ISBN 0-15-114420-6.
- François Joyaux (1994). La Tentation impériale - Politique extérieure de la Chine depuis 1949. Paris: Imprimerie nationale. ISBN 2-11-081331-8.
- Xiaobing Li (2007). A History of Modern Chinese Army. University Press of Kentucky. ISBN 9780813124384.
- Edward C. O'dowd (2007). Chinese Military Strategy in the Third Indochina War. Routledge. ISBN 9780415414272.
- Carlyle A. Thayer, Security Issues in Southeast Asia: The Third Indochina War, Conference on Security and Arms Control in the North Pacific, Australian National University, Canberra, August 1987.
Thể loại:
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
- Lịch sử Việt Nam thời kỳ từ 1976
- Chiến tranh liên quan tới Trung Quốc
- Chiến tranh liên quan tới Việt Nam
- Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc
- Chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc
- Xung đột thế kỷ 20
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment