CNM365 Chào ngày mới 24 tháng 4 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Hòa hợp tại Niger, ngày Kí ức diệt chủng tại Armenia, ngày Cộng hòa tại Gambia. Năm 1479 TCN – Pharaon Thutmosis III (hình) được cho là bắt đầu trị vì. Năm 1184 TCN – Theo truyền thống, Thành Troia thất thủ trước người Hy Lạp. Năm 1192 – Việc xây dựng cầu Lư Câu tại Trung Đô của Đại Kim được hoàn thành. Năm 1800 - Tổng thống Mỹ John Adams ký sắc lệnh Act of Congress, trong đó có kèm một điều khoản thành lập Thư viện Quốc hội Mỹ. Năm 1914 - James Franck và Gustav Ludwig Hertz trình bày bằng văn bản Thí nghiệm Franck - Hertz cho Hội Vật lý học Đức. Năm 1990 - Kính viễn vọng không gian Hubble của NASA được phóng lên không gian.
Thutmosis III
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thutmose III Tuthmosis III, “Manahpi(r)ya” trong các thư Amarna |
|||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Pharaông của Ai Cập (chi tiết...) | |||||||||||||||
Tượng Thutmosis III tại Luxor |
|||||||||||||||
Trị vì | 1479 TCN - 1425 TCN | ||||||||||||||
Tiền nhiệm | Hatshepsut | ||||||||||||||
Kế nhiệm | Amenhotep II | ||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||
Vợ |
|
||||||||||||||
Hậu duệ |
|
||||||||||||||
Tên riêng |
Thutmose Neferkheperu Thoth is born, beautiful of forms |
||||||||||||||
Tên ngai |
Menkheperre Lasting is the Manifestation of Re[3] |
||||||||||||||
Tên Horus | Kanakht Khaemwaset
Mighty Bull, Arising in Thebes |
||||||||||||||
Tên Nebty hai quý bà | Wahnesytmireempet
Enduring in kingship like Re in heaven |
||||||||||||||
Horus Vàng | Sekhempahtydsejerkhaw
Powerful of strength, holy of diadems |
||||||||||||||
Hoàng tộc | Triều đại thứ 18 | ||||||||||||||
Thân phụ | Thutmosis II | ||||||||||||||
Thân mẫu | Iset | ||||||||||||||
Mất | 1425 TCN Ai Cập |
||||||||||||||
An táng | KV34, Thung lũng các vị vua |
Sau khi Hatshepsut qua đời và Thutmosis trở thành pharaông duy nhất của vương quốc, ông đã gầy dựng một đế quốc Ai Cập rộng lớn chưa từng thấy; hơn 17 cuộc chinh phạt lẫy lừng được khởi xướng, và ông xâm chiếm Niy ở Syria tới ghềnh thứ tư của sông Nil ở Nubia. Ông thân chinh đi đánh đông dẹp bắc lâu dài hơn và đạt được nhiều thắng lợi hơn cả những danh tướng xuất sắc vào thời kỳ cổ đại như Alexandros Đại Đế và Julius Caesar[5]. Phần lớn tư liệu cho là Thutmosis III ở ngôi 54 năm, từ 24 tháng 4 năm 1479 tới 11 tháng 3 năm 1425 TCN, và đồng trị vì với Hatsheput trong 22 năm đầu. Trong hai năm cuối đời, ông đồng cai trị với vua con Amenhotep II. Khi qua đời, ông được chôn cất ở Thung lũng các vị vua.
Là một thiên tài chiến thuật và chiến lược, ông được xem là vị vua - chiến binh vĩ đại nhất, là thống soái kiệt xuất nhất trong lịch sử Ai Cập, là một trong những vị Đại Danh tướng (Great Captain) đầu tiên trong lịch sử thế giới. Ông là người có công gầy dựng nên lực lượng Hải quân chinh chiến đầu tiên trong thế giới cổ đại, và tiến hành cải cách lực lượng Quân đội Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông được coi là một bước ngoặt trong lịch sử quân sự và chủ nghĩa đế quốc của toàn bộ vùng Đông Địa Trung Hải.[5]
Mục lục
Gia đình
Thutmosis III là con trai của Pharaong Thutmosis II và Iset (cũng được gọi là Isis). Bởi cậu bé là con trai duy nhất của Pharaong, nên cậu sẽ trở thành người kế vị trực tiếp sau khi vua cha; dù vậy, cậu không phải là con của chính cung hoàng hậu nên câu khó thể nối ngôi[6]. Tới giúp đỡ chức vụ của cậu, cậu phải cưới con gái của Thutmosis II[7]. Nó có tồn tại những giả thuyết là người mà Thutmosis cưới là Neferure hay Merytre-Hatshepsut II, nhưng trong bằng chứng xưa đó thì không chắc chắn bằng chứng họ cưới và trong bằng chứng của Merytre-Hatshepsut nó thì nghi ngờ cô ta không phải là con gái của Hatshepsut.Bất chấp việc đó, vì Thutmosis III lên kế vị khi cậu còn quá nhỏ, nên Hatshepsut trở thành nhiếp chính, rồi lại đồng cai trị với cậu, và một thời gian ngắn sau đó, bà xưng danh hiệu vua pharaong. Vào khoảng 22 năm cai trị đầu, Thutmosis nắm quyền hành rất ít ở đế chế, Hatshepsut nắm vương quyền và lấy prenomen là Maatkare. Theo luật lệ Ai Cập cổ đại, chỉ duy nhất một vị pharaong có được các loại tên hiệu. Triều đại bà khá thành công và rõ rệt bởi sự tiến bộ. Khi cậu đến tuổi trưởng thành, cậu được bà trao chức vụ Tổng tư lệnh quân đội. Sau cái chết của Hatshepsut, Thutmosis III cai trị nước Ai Cập trong khoảng hơn 30 năm, đến hai năm trị vì cuối, ông đồng cai trị với con trai. Ông qua đời sau khi trị vì được 54 năm[8].
Thutmosis đã cưới Neferure và hai bà vợ khác. Sat-jah sinh hạ cho ông cậu con trai đầu, Amenemhet, nhưng cậu mất trước vua cha[9]. Người kế vị ông, Amenhotep II là con trai của Metryre-Hatshepsut II, người mà một số nhà sử học hiện đại không cho là con gái của Hatshepsut[9].
Liên tục mở rộng bờ cõi
Thutmosis III là một trong những vị Đại Danh tướng của thế giới cổ đại. Ông quả là một Alexandros Đại Đế của nền văn minh Ai Cập. Là một vị vua trí thức đồng thời là một danh tướng, ông là vị thống soái vĩ đại nhất trong suốt chiều dài lịch sử Ai Cập từ cổ chí kim.[10] Theo văn kiện cổ, ông đã xua quân đánh chiếm 350 thành phố trong triều đại ông và ông nhiều lần chinh phạt vùng Cận đông cổ đại từ Euphrates tới Nubia trong 17 chiến dịch được biết đến của ông. Ông là Pharaông đầu tiên sau Thutmosis I băng qua sông Euphrates, trong chiến dịch của ông tới Mitanni. Các chiến dịch của ông được tin là được ghi nhận trên bức tường tại đền Amun ở Karnak, và được ghi nhận trong bộ thư tịch Urkunden IV. Với những chiến tích hiển hách của ông, không có vị danh tướng nào ở thời cổ đại (kể cả Alexandros Đại Đế và Julius Caesar[5]) đánh nhiều trận hơn ông. Là một nhà chiến lược tài tình, sáng suốt, ông khát vọng được dân tộc Ai Cập trở thành bá chủ của thế giới. Có người nói vị vua - chiến binh thành Thebes này là "Napoléon của Ai Cập", nhưng quan điểm này thực sự là không đúng và nói thẳng ra thì ông tài ba hơn Napoléon, với những chiến tích lẫy lừng của ông.[10] Và, nhờ có những chiến thắng vang dội của ông, gầy dựng nên một Đế quốc Ai Cập rộng lớn, kéo dài từ miền Nam Syria tới Nubia và Canaan. Pharaông Thutmosis III đã nhiều lần thu phục được kẻ thù.Ngay từ khi mới lên đích thân chấp chính ở ngoài đôi mươi, ông đã là một vị thống soái giàu kinh nghiệm. Thật không lạ gì khi năm cái tên hiệu của người chiến binh xuất sắc này (trong truyền thống, mọi pharaon đều phải có năm cái tên hiệu này) đều thể hiện sức mạnh quân sự.[10] Người ta biết nhiêừ về tài điều binh khiển tướng của ông không chỉ vì những chiến công vang lừng của ông, nhưng cũng nhờ viên tướng lĩnh Quân đội Ai Cập khi đó là Thanuny - ông này đã ghi chép về triều đại của ông và những cuộc chinh phạt của ông. Lý do chính để pharaông Thutmosis III có thể chinh phạt vô số vùng đất như thế, là nhờ vào việc cải tiến và thay đổi lớn lao những loại vũ khí quân đội. Ông chỉ phải chạm trán với một vài sự chống đối không đáng kể ở các vương quốc láng giềng, do đó ông dễ dàng mở mang bờ cõi Vương quốc. Quân đội ông cũng có mang các tàu thuyền trên vùng đất khô.
Kiến trúc thời Thutmosis III
Kết thúc chiến tranh, Thutmosis III cho xây nhiều công trình kiến trúc. Tiêu biểu là ông đã cho xây dựng trên 50 ngôi đền Karnak, mặc dù vài ngôi đền trong số đó giờ đã mất và chỉ được biết thông qua ghi chép. Ông cũng cho xây dựng rất nhiều mộ quý tộc, và các ngôi mộ này được xây dựng khéo léo hơn trước. Triều đại Thutmosis tro thấy sự phát triển thịnh vương của nền điêu khắc, tranh vẽ, và hình khắc kết hợp xây dựng, nhiều trong số đó đã phát triển từ thời Hatshepsut.Chú thích
- ^ Dodson, Aidan. Hilton, Dyan. The Complete Royal Families of Ancient Egypt, Thames and Hudson. p132. 2004. ISBN 0-500-05128-3
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênRoyalFamilies_p132.
- ^ Clayton, Peter. Chronicle of the Pharaohs, Thames & Hudson Ltd., 1994. p.104
- ^ Partridge, R., 2002. Fighting Pharaohs: Weapons and warfare in ancient Egypt. Manchester: Peartree. Pages:202/203
- ^ a ă â Egypt's most brilliant commander
- ^ Joyce Tyldesley, Hatschepsut: The Female Pharaoh,p. 75, Viking, 1996
- ^ Steindorff, George; and Seele, Keith. When Egypt Rulers The East. p.40. University of Chicago, 1942
- ^ Tyldesley, op. cit., p.95
- ^ a ă Lipińska, Jadwiga. "Thutmose III," p.403. The Oxford Encyclopedia of Ancient Egypt. Ed. Donald Redford. Vol. 3, pp.401-403. Oxford University Press, 2001.
- ^ a ă â Richard A. Gabriel, Thutmose III: The Military Biography of Egypt's Greatest Warrior King, các trang 3-4.
Xem thêm
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Thutmosis III |
|
Thể loại:
Chiến tranh thành Troia là một cuộc chiến quan trọng trong thần thoại Hy Lạp và được nhắc đến trong hai trường thi của Homer: Iliad và Odyssey. Cuộc chiến xảy ra khoảng 1184 TCN.
Kính thiên văn vũ trụ Hubble (tiếng Anh: Hubble Space Telescope, viết tắt HST) là một kính thiên văn của NASA, mang tên của nhà thiên văn học Mỹ Edwin Powell Hubble (1889-1953), được đặt trong một quỹ đạo cách Trái Đất khoảng 610 km. Đây là kính thiên văn phản xạ được trang bị hệ thống máy tính và một gương thu ánh sáng có đường kính 240 cm.
Kính thiên văn Hubble được nghiên cứu từ thập niên 1970 và phóng lên không gian năm 1990, đã tạo ra một bước đột phá quan trọng trong quan sát thiên văn trong phổ quang học, tử ngoại và hồng ngoại cho thời kỳ này, nhờ vào ưu điểm là quan sát các thiên thể mà không bị ảnh hưởng bởi khí quyển Trái Đất.
Nó có thể thu nhận ánh sáng từ vật thể cách xa 12 tỉ năm ánh sáng. Nó lần đầu tiên sử dụng công nghệ Multi-Anode Microchannel Array (MAMA) để ghi nhận tia tử ngoại nhưng loại trừ ánh sáng. Nó có sai số trong định hướng nhỏ tương đương với việc chiếu một tia laser đến đúng vào một đồng xu cách đó 320 km và giữ yên như thế.
Việc thiết kế kính này theo dạng mô-đun cho phép các phi hành gia tháo gỡ, thay thế hoặc sửa chữa từng mảng bộ phận dù họ không có chuyên môn sâu về các thiết bị. Trong một lần sửa, độ phân giải của Hubble đã được tăng lên gấp 10.
Hubble cung cấp khoảng 5-10 GB dữ liệu một ngày. Vài khám phá quan trọng do Hubble mang lại gồm có:
Phương tiện liên quan tới Hubble Space Telescope tại Wikimedia Commons Phương tiện liên quan tới Ảnh chụp từ Hubble tại Wikimedia Commons
Chiến tranh thành Troia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thần thoại Hy Lạp |
---|
Các vị thần |
|
Các anh hùng |
Chủ đề liên quan |
Mục lục
Nguyên nhân
Chuyện bắt đầu bằng tiệc cưới của vua Hy Lạp Peleus và nữ thần biển Thetis. Tất cả các thần được mời tới dự tiệc, trừ ra Eris (Thần Bất hòa, Xung đột, Lừa dối, Già nua, Buồn phiền), một nữ thần có tính nóng nảy, thường gây ra những tranh cãi giữa các thần. Tức giận, Eris bèn thả một quả táo giữa bàn tiệc, có khắc chữ: "Cho người đẹp nhất!" Ba nữ thần Athena, Aphrodite và Hera tranh nhau quả táo. Người có bổn phận phải phán quyết ai được quyền giữ quả táo là Paris, hoàng tử thành Troia. Cuối cùng Paris đã chọn Aphrodite, vì Aphrodite hứa sẽ ban cho Paris người phụ nữ đẹp nhất thế giới. Một thời gian sau đó, Paris tới viếng thành Sparta, được vua Sparta là Menelaus trọng đãi, và đã gặp Helen, vợ của Menelaus, một người quả có sắc đẹp tuyệt vời. Được nữ thần Aphrodite giúp đỡ, Paris đã chiếm được trái tim của Helen, và khi Paris rời Sparta, Helen đã bỏ Menelaus trốn theo Paris.-
Athena và Maryas, Copenhagen
-
Chuẩn bị
Menelaus tới cầu cứu anh là Agamemnon, vua của Mycenae, nhờ anh giúp trong công cuộc đoạt lại vợ. Đánh chiếm thành Troia không phải dễ, vì phải chuyển quân qua biển, và thành Troia nổi tiếng kiên cố với một đoàn quân thiện chiến, cầm đầu là Hector, anh của Paris. Agamemnon nhờ Odysseus, vua của Ithaca, tới thuyết phục Achilles, một chiến sĩ nổi tiếng bách chiến bách thắng. Odysseus còn tin rằng không có Achilles thì không bao giờ có thể chiếm được thành Troia.Diễn biến
Cuộc chiến này không chỉ xuất phát từ giới thần linh mà còn lôi kéo chính thần linh can dự vào và phân hóa họ thành hai phe. Phe ủng hộ thành Troia gồm thần chiến tranh Ares, thần sắc đẹp và tình yêu Aphrodite, cùng thần ánh sáng Apollo. Phe kia thì nổi lên là nữ thần trí tuệ Athena, người ủng hộ nhiệt thành cho Odysseus và nữ thần hôn nhân Hera.Hậu quả
Tuy nhiên dư âm cuộc chiến thì vẫn còn. Trong lúc tàn phá thành Troia, quân Hy Lạp đã giết một nữ tiên tri lúc đang cầu khẩn nữ thần Athena. Thêm vào đó thần biển Poseidon có công khi giết chết vị tu sĩ già trong khi ông ngăn người thành Troia mang con ngựa gỗ vào thành, tuy nhiên vị thần này lại chẳng được nhớ tới khi cuộc chiến kết thúc. Việc làm này khiến cho gần như toàn bộ quân Hy Lạp bị chết trên biển khi trở về quê hương. Odysseus có lẽ là vị tướng may mắn nhất khi thoát được về Ithaca sau nhiều năm lênh đênh trên đại dương nhờ sự giúp đỡ từ Athena. Agamemnon thì bị giết khi trở về nhà bởi chính người vợ của mình, tương truyền là do cô ta đã ngoại tình khi vị tướng này ra đi.-
-
Odysseus trùng phùng Penelope
Văn học
Thành ngữ
Xem thêm
Liên kết ngoài
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về: |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Chiến tranh thành Troia |
Thể loại:
Thư viện Quốc hội (tên tiếng Anh: Library of Congress), trên thực tế là thư viện quốc gia của Hoa Kỳ, là đơn vị nghiên cứu của Quốc hội Hoa Kỳ. Với trụ sở gồm ba tòa nhà đóng tại Washington, D.C.,
đây là thư viện lớn nhất theo diện tích để sách và một trong những thư
viện quan trọng nhất trên thế giới. Kho tư liệu của nó bao gồm hơn 30
triệu cuốn sách được phân loại và các tài liệu in ấn khác được viết bằng 470 thứ tiếng; hơn 61 triệu bản thảo viết tay; bộ sưu tập các cuốn sách hiếm lớn nhất Bắc Mỹ, bao gồm bản sơ thảo Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Kinh Thánh Gutenberg (một trong bốn bản in trên giấy da còn tồn tại nguyên vẹn được biết đến[3]); hơn 1 triệu ấn bản các văn kiện của Chính phủ Hoa Kỳ; 1 triệu ấn bản báo chí thế giới trong suốt 3 thế kỉ qua; 33.000 bộ nhật báo đóng tập; 500.000 cuộn microfilm; hơn 6.000 tựa truyện tranh;[4] cơ sở dữ liệu luật lớn nhất thế giới; các bộ phim; hơn 4,8 triệu bản đồ, bản nhạc; 2,7 triệu bản ghi âm;
hơn 13,7 triệu hình in và chụp bao gồm các tác phẩm nghệ thuật chuyên
nghiệp và nghệ thuật quần chúng, các bản vẽ kiến trúc; cây vĩ cầm cổ Betts Stradivarius;[5] và cây viola Cassavetti Stradivarius;[6]
Chức năng chính của Thư viện, thông qua Vụ Khảo cứu Quốc hội, là sưu khảo và phân tích thông tin và tư liệu nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu của các nghị sĩ Quốc hội. Dịch vụ này không được mở rộng cho công chúng, mà chỉ dành riêng cho những nhà lập pháp, các thẩm phán Tối cao Pháp viện, và các viên chức cao cấp của chính phủ. Thư viện Quốc hội cũng tiếp nhận từ Cục Bản quyền Hoa Kỳ bản sao của tất cả sách, tiểu luận, ấn phẩm, nhạc phẩm đã đăng ký tại Hoa Kỳ. Trong thực tế là thư viện quốc gia của Hoa Kỳ, Thư viện Quốc hội góp phần quảng bá văn học Mỹ qua các đề án như American Folklife Center (Trung tâm Văn hóa Dân gian Mỹ), American Memory (Hồi ức Mỹ), Center for the Book (Trung tâm Sách), và Poet Laureate (Quán quân Thi ca).
Người đứng đầu Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ hiện thời là Thủ thư Quốc hội, James H. Billington.
Thomas Jefferson thủ giữ vai trò quan trọng giai đoạn thành lập thư viện. Ngày 26 tháng 1 năm 1802, ông ký ban hành đạo luật đầu tiên về thiết lập cơ cấu Thư viện Quốc hội, qui định Tổng thống bổ nhiệm chức vụ Thủ thư Quốc hội và thành lập một Ủy ban Lưỡng viện về Thư viện[8] nhằm giám sát và thiết lập nội quy cho thư viện, cũng như dành cho tổng thống và phó tổng thống quyền mượn sách.[7] Tháng 8 năm 1814, Thư viện Quốc hội – lúc ấy chỉ là một thư viện nhỏ có 3.000 đầu sách - bị tàn phá hoàn toàn khi binh sĩ Anh xâm chiếm và đốt phá Đồi Capitol.[7] Trong vòng một tháng, cựu Tổng thống Jefferson hiến tặng thư viện riêng của ông để thế chỗ thư viện cũ.[9][10] Trước đó, Jefferson đã dành 50 năm để thu thập cho một bộ sưu tập sách đa dạng trong thể loại, trong đó có sách ngoại ngữ, và nhiều tuyển tập về triết học, khoa học, văn chương, và sách dạy nấu ăn. Tháng 1 năm 1815, Quốc hội tiếp nhận sự hiến tặng của Jefferson và trả 23.950 USD cho 6.487 cuốn sách của ông.[7]
Ngày 24 tháng 12 năm 1851, một vụ hỏa hoạn lớn đã thiêu rụi 35.000 cuốn sách, tức là khoảng hai phần ba trong tổng số 55.000 cuốn của Thư viện, trong đó có cả hai phần ba số sách hiến tặng của Jefferson [7]. Năm 1852, Quốc hội nhanh chóng thông qua số tiền 168.700 USD chỉ đủ để thay thế số sách bị mất trong hỏa hoạn. Đây cũng là thời điểm đánh dấu sự khởi đầu giai đoạn trì trệ của Thư viện dưới quyền quản lý của Thủ thư John Silva Meehan và Chủ tịch Ủy ban Lưỡng viện James A. Pearce, hai người này chủ trương hạn chế các hoạt động của Thư viện [7]. Năm 1857, Quốc hội quyết định chuyển trách nhiệm phân phối tài liệu công cho Bộ Nội Vụ và giao trách nhiệm trao đổi sách báo và tài liệu ngoại quốc cho Bộ Ngoại Giao. Ngoài ra, kể từ năm 1859, mọi hoạt động tác quyền đều phải tập trung về Cơ Quan Đăng Kiểm Sáng Chế (the Patent Office) chấm dứt vai trò kéo dài 13 năm của Thư viện như là cơ quan lưu trữ toàn bộ sách và tiểu luận có đăng ký bản quyền. Sự kiện Abraham Lincoln bổ nhiệm John G. Stephenson làm thủ thư trong năm 1861 vì các mục tiêu chính trị khiến vị trí của Thư viện càng mờ nhạt hơn. Stephenson chỉ bận tâm đến các công việc không liên quan gì đến lãnh vực thư viện, trong đó có công việc sĩ quan phụ tá (ông mang quân hàm đại tá) tại các mặt trận Chancellorsville và Gettysburg trong thời kỳ Nội chiến Mỹ. Sau khi chiến tranh kết thúc, ban nhân sự của Thư viện có 7 người, quản lý 80 ngàn đầu sách [7].
Một năm trước khi Thư viện chuyển đến địa điểm mới, Ủy ban Lưỡng viện về Thư viện tổ chức một phiên điều trần nhằm thẩm định hiện trạng, kế hoạch phát triển, và khả năng cải tổ Thư viện. Spofford và sáu chuyên gia từ Hiệp hội Thư viện Mỹ - trong đó có Thủ thư tương lai của Quốc hội, Herbert Putnam, và Melvil Dewey của Thư viện Tiểu bang New York - giải trình trước Ủy ban rằng Thư viện Quốc hội nên tiếp tục mở rộng để trở thành thư viện quốc gia thực thụ.[7] Dựa trên kết quả của phiên điều trần, cũng nhờ sự trợ giúp từ các thượng nghị sĩ Justin Morrill từ Vermont và Daniel Voorhees từ Indiana, Quốc hội cho phép gia tăng thành phần nhân sự của Thư viện từ 42 lên 108 người, và thiết lập các bộ phận quản trị những hoạt động khác nhau của Thư viện trong lĩnh vực thu thập tư liệu. Quốc hội cũng gia tăng quyền hạn quản lý và bổ nhiệm nhân sự cho văn phòng Thư viện Quốc hội, đồng thời yêu cầu Thượng viện phê chuẩn các đề cử của tổng thống.[7]
Nhiệm kỳ của Putnam chứng kiến sự đa dạng trong khả năng thu thập tư liệu của Thư viện. Năm 1903, ông thuyết phục Tổng thống Theodore Roosevelt ký sắc lệnh chuyển các văn kiện của các nhà lập quốc từ Bộ Ngoại giao cho Thư viện. Putnam mở rộng phạm vi thu thập tư liệu ở nước ngoài, trong đó có vụ mua thư viện 4.000 đầu sách của Ấn Độ trong năm 1904, thư viện Nga 8.000 đầu sách của G. V. Yudin trong năm 1906, năm 1908 là bộ sưu tập các bản nhạc kịch cổ của Schatz, và đầu thập niên 1930 là bộ sưu tập vương triều Nga trong đó có 2.600 đầu sách về các chủ đề khác nhau từ thư viện gia đình Romanov. Cũng có những bộ sưu tập các tác phẩm tiếng Hebrew, Hoa, và Nhật.[7] Quốc hội từng chủ động tìm kiếm tài liệu cho Thư viện như trong trường hợp Nghị sĩ Ross Collins từ Mississippi với đề án chi 1,5 triệu USD để mua bộ sưu tập sách cổ của Otto Vollbehr, trong đó có các ấn bản trên giấy da Kinh Thánh Gutenberg.[7]
Năm 1914, Putnam thành lập Vụ Tham khảo Lập pháp như là một đơn vị hành chánh độc lập của Thư viện. Phỏng theo mô hình cơ quan khảo cứu đã áp dụng thành công tại các viện lập pháp tiểu bang, Vụ Tham khảo Lập pháp có chức năng cung cấp giải đáp cho các tra vấn khảo cứu của thành viên Quốc hội trong hầu hết các chủ đề.[7] Năm 1925, Quốc hội thông qua luật cho phép Thư viện Quốc hội thành lập ban vận động để thu nhận các khoản đóng góp, cũng như dành cho Thư viện vai trò của một nhà tài trợ nghệ thuật. Trong số những người đóng góp cho Thư viện có các tên tuổi như John D. Rockefeller, James B. Wilbur, và Archer M. Huntington. Gertrude Clarke Whittall hiến tặng bộ sưu tập vĩ cầm Stradivarius, trong khi Elizabeth Sprague Coolidge chi trả cho việc xây dựng phòng hòa nhạc bên trong tòa nhà Thư viện.[7]
Thời kỳ này đã giúp lấp đầy tòa nhà chính với các loại tư liệu, do đó Thư viện buộc phải mở rộng diện tích. Năm 1928, Quốc hội cấp thêm khu đất kế cận và cho phép xây dựng tòa nhà mới (về sau mang tên Tòa nhà John Adams). Do bị đình hoãn trong thời kỳ Đại Suy thoái, mãi đến năm 1938 tòa nhà mới hoàn tất, và mở cửa cho công chúng trong năm 1939.[7]
Năm 1953, L. Quincy Mumford kế nhiệm Evans. Nhiệm kỳ của Mumford, kéo dài đến năm 1974, chứng kiến việc khởi công xây dựng tòa nhà James Madison, tòa nhà thứ ba của Thư viện. Đây cũng là giai đoạn gia tăng các khoản chi tiêu dành cho giáo dục, nhờ đó Thư viện có thể thành lập các trung tâm thu thập tài liệu ở nước ngoài như tại Cairo và New Delhi. Năm 1962, theo yêu cầu của chủ tịch Ủy ban Lưỡng viện về Thư viện, Douglas Bryant thuộc Thư viện Đại học Harvard đệ trình đề án cải tổ, đề nghị mở rộng thư viện thành thư viện quốc gia và bớt chú trọng vào chức năng phục vụ Quốc hội. Bryant cũng đề nghị đổi tên Thư viện khiến Mumford gọi nó là “sự xúc phạm nặng nề đến truyền thống.”[7] Cuộc tranh luận kéo dài cho đến khi một đạo luật được thông qua xác định nhiệm vụ của Thư viện là tập chú nhiều hơn vào công cuộc khảo cứu hỗ trợ cho Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội, và đổi tên Vụ Tham khảo Lập pháp thành Vụ Khảo cứu Quốc hội.[7]
Daniel J. Boorstin được Tổng thống Gerald Ford bổ nhiệm làm thủ thư năm 1974 khi Mumford về hưu. Ngân quỹ Thư viện tăng từ 116 triệu USD năm 1975 lên đến 250 triệu USD năm 1987, Boorstin tích cực tăng cường quan hệ với các học giả, tác giả, nhà xuất bản, các nhà lãnh đạo văn hóa, và cộng đồng doanh nghiệp. Sự năng nổ cũng như những hoạt động đa dạng của ông đã làm thay đổi vị trí của Thư viện nhiều đến nỗi khi ông về hưu trong năm 1987, tờ New York Times đã đưa ra nhận xét, có lẽ Thư viện Quốc hội là định chế “hàng đầu trong giới trí thức trên toàn quốc.”[7] Năm 1987, bởi sự bổ nhiệm của Ronald Reagan, James H. Billington trở thành thủ thư thứ 13 của Thư viện Quốc hội. Năm 1991, Billington bắt đầu sử dụng các thành tựu kỹ thuật mới và Internet để nối kết Thư viện với các định chế giáo dục trên khắp nước. Sự kết thúc Chiến tranh lạnh cũng giúp Thư viện phát triển quan hệ với các nước Đông Âu, và giúp thành lập các thư viện quốc hội tại những quốc gia này.[7] Cuối tháng 11 năm 2005, Thư viện công bố đề án thành lập Thư viện Số Thế giới, sử dụng kỹ thuật số lưu trữ sách và các tư liệu khác từ tất cả nền văn hóa trên khắp thế giới.
Thư viện cũng đã phát triển một hệ thống phân loại sách (Library of Congress Classification - LCC) được sử dụng tại hầu hết các thư viện đại học và viện nghiên cứu ở Mỹ, trong khi phần lớn thư viện công vẫn duy trì hệ thống thập phân Dewey.
Một chức năng khác của Thư viện là đăng ký và lưu trữ bản quyền, và được xem như là kho dữ liệu cho Cục Bản quyền Hoa Kỳ. Có đăng ký bản quyền hay không, thì tất cả nhà xuất bản đều được yêu cầu nộp cho Thư viện hai bản sao các tác phẩm xuất bản của họ - yêu cầu này gọi là mandatory deposit.[14] Nếu không xuất bản thì chỉ cần nộp môt bản sao. Mỗi ngày có gần 22 000 ấn bản ở Hoa Kỳ đệ nộp cho Thư viện. Không như nhiều người vẫn nghĩ, Thư viện không lưu trữ tất cả văn kiện này, nhưng mỗi ngày chỉ có khoảng 10 000 đơn vị được giữ lại. Sau khi chọn lọc, nhiều ấn phẩm được dùng để trao đổi với các thư viện trên khắp thế giới, phân phối cho các cơ quan của chính phủ liên bang, các trường học, cộng đồng, hoặc các tổ chức trong nước.[15] Cũng giống các thư viện khác, Thư viện Quốc hội lưu trữ tất cả tài liệu tiếng Anh được xem là có giá trị.
Gần đây, Sách Kỷ lục Thế giới Guinness công nhận Thư viện Quốc hội là “thư viện lớn nhất thế giới”,[16] hiển nhiên là dựa trên diện tích kệ sách. Thư viện cho biết tài liệu lưu trữ của họ lấp đầy các kệ sách nếu xếp chúng nối đuôi nhau dài đến 530 miles (850 km),[17] con số này của Thư viện Anh Quốc là 388 miles (625 km).[18] Hiện Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ có 130 triệu đơn vị lưu trữ với 29 triệu cuốn sách, trong khi Thư viện Anh Quốc có xấp xỉ 150 triệu đơn vị lưu trữ với 25 triệu cuốn sách.[17][18]
Thư viện đã số hóa hàng triệu văn kiện, gồm có hàng chục terabyte trên American Memory Website. Đây là nguồn tư liệu hình ảnh, audio, video và nội dung các trang web được sử dụng trong phạm vi công cộng. Gần hết thư mục và catalog của Thư viện được liệt kê ở đây. Thủ thư trên khắp thế giới có thể vào xem các catalog này, và có thể sử dụng Library of Congress Control Number để biết chính xác nguồn gốc cuốn sách.
Thư viện cũng có một văn khố online gọi là THOMAS, cung cấp những thông tin về các hoạt động của Quốc hội, trong đó có nội dung các dự luật, tường trình các hoạt động và các cuộc thảo luận tại Quốc hội, bản tóm lược và tình trạng các dự luật, và Hiến pháp Hoa Kỳ.
Dưới quyền quản lý của Thư viện còn có Dịch vụ Thư viện Quốc gia cho người khiếm thị và người khuyết tật, cùng một chương trình thư viện nói và chữ nổi braille dành cho 766 000 người Mỹ.
Cầu Lư Câu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cầu Lư Câu (chữ Hán giản thể: 卢沟桥, phồn thể: 盧溝橋, bính âm phổ thông: Lúgōu Qiáo) là một cây cầu được xây bằng đá granite vào cuối thế kỷ 12, bắc qua sông Vĩnh Định (永定河, Yǒngdìng Hé), thuộc địa phận quận Phong Đài (丰台区), thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc. Đầu phía Đông của cầu Lư Câu là tòa thành Uyển Bình cổ xây hồi thế kỷ 17.
Cầu Lư Câu được thế giới biết đến rộng rãi qua ghi chép của Marco Polo hồi thế kỷ 13 và qua sự kiện cầu Lư Câu mở đầu cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945).
Trong nhật ký của mình, Marco Polo đã nhận xét như sau về cầu Lư Cầu: "Bắc qua sông này có một cây cầu bằng đá rất đẹp, quả thực rất đẹp, rất hiếm thấy trên thế giới". Cũng vì nổi tiếng ở phương Tây qua ghi chép của Marco Polo nên cây cầu này còn có tên khác là Cầu Marco Polo.
Việc xây dựng cầu được khởi công vào tháng Sáu năm Đại Định thứ hai hai (1189) và hoàn thành vào tháng Ba năm Minh Xương thứ ba (1192). Năm Chính Thống thứ chín (1444), cầu được trùng tu. Đến thời hoàng đế Khang Hy nhà Thanh, một trận lũ trên sông Vĩnh Định làm cầu bị hư hỏng nặng. Năm 1698, cầu được xây lại.
Cầu Lư Câu dài 266,5 m, rộng 9,3 m, có 10 trụ và 11 nhịp. Có khoảng 482 dến 486 tượng sư tử bằng đá được làm vào các thời đại khác nhau và đặt ở hai bên thành cầu. Theo sử liệu thì số lượng sư tử có lúc là 627 con. Cứ mỗi con sư tử lớn lại có một hoặc hai con sư tử con nấp sau lưng, dưới bụng, dưới chân, sau cổ,... Tư thế và hình dáng mỗi con một khác phản ánh đặc trưng nghệ thuật các thời đại khác nhau. Phần lớn tượng sư tử làm vào các đời Minh (1368-1644) và đời Thanh (1644-1911). Một số làm vào thời Nguyên (1271-1368). Và chỉ còn rất ít con làm vào đời Kim (1115–1234).
Mỗi đầu cầu có 4 cột trang trí cao 4,65 m và 1 bia đá hoa cương trắng. Có 1 bia đá ghi rằng cầu được hoàng đế Khang Hy nhà Thanh cho xây lại vào năm 1698. Bia còn lại có khắc chữ của hoàng đế Càn Long, cháu của Khang Hy gồm 4 chữ 卢沟晓月 (Lư Câu hiểu nguyệt - trăng sớm chiếu sáng cầu Lư Câu).
Cầu Lư Câu được xếp là một trong Yên Kinh bát cảnh (燕京八景, tám cảnh đẹp Yên Kinh[1]) và một trong Trung Quốc tứ đại cổ kiểu (中国四大古桥, bốn cầu cổ nổi tiếng nhất Trung Quốc). Năm 1961, cầu được công nhận là một di sản quốc gia. Là một cây cầu tráng lệ, nhưng cây câu Lư Câu cũng lại là nhân chứng của một sự kiện đen tối trong lịch sử Trung Quốc. Nơi đây ngày 7 tháng 7 năm 1937, sự kiện cầu Lư Câu đã xảy ra, mở đầu cuộc chiến tranh kéo dài 8 năm đem tới bao đâu thương cho đất nước Trung Quốc. Thành Uyển Bình đầu phía Đông cầu vẫn còn vết đạn của quân Nhật. Trong thành, người ta đã xây một đài tưởng niệm các liệt sỹ Trung Quốc kháng Nhật.
Sông Vĩnh Định vốn là một phụ lưu của sông Hải Hà. Ngày nay, người ta đã nắn dòng sông này khiến cho nước chảy dưới chân cầu hầu như không còn.
Cầu Lư Câu được thế giới biết đến rộng rãi qua ghi chép của Marco Polo hồi thế kỷ 13 và qua sự kiện cầu Lư Câu mở đầu cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945).
Trong nhật ký của mình, Marco Polo đã nhận xét như sau về cầu Lư Cầu: "Bắc qua sông này có một cây cầu bằng đá rất đẹp, quả thực rất đẹp, rất hiếm thấy trên thế giới". Cũng vì nổi tiếng ở phương Tây qua ghi chép của Marco Polo nên cây cầu này còn có tên khác là Cầu Marco Polo.
Việc xây dựng cầu được khởi công vào tháng Sáu năm Đại Định thứ hai hai (1189) và hoàn thành vào tháng Ba năm Minh Xương thứ ba (1192). Năm Chính Thống thứ chín (1444), cầu được trùng tu. Đến thời hoàng đế Khang Hy nhà Thanh, một trận lũ trên sông Vĩnh Định làm cầu bị hư hỏng nặng. Năm 1698, cầu được xây lại.
Cầu Lư Câu dài 266,5 m, rộng 9,3 m, có 10 trụ và 11 nhịp. Có khoảng 482 dến 486 tượng sư tử bằng đá được làm vào các thời đại khác nhau và đặt ở hai bên thành cầu. Theo sử liệu thì số lượng sư tử có lúc là 627 con. Cứ mỗi con sư tử lớn lại có một hoặc hai con sư tử con nấp sau lưng, dưới bụng, dưới chân, sau cổ,... Tư thế và hình dáng mỗi con một khác phản ánh đặc trưng nghệ thuật các thời đại khác nhau. Phần lớn tượng sư tử làm vào các đời Minh (1368-1644) và đời Thanh (1644-1911). Một số làm vào thời Nguyên (1271-1368). Và chỉ còn rất ít con làm vào đời Kim (1115–1234).
Mỗi đầu cầu có 4 cột trang trí cao 4,65 m và 1 bia đá hoa cương trắng. Có 1 bia đá ghi rằng cầu được hoàng đế Khang Hy nhà Thanh cho xây lại vào năm 1698. Bia còn lại có khắc chữ của hoàng đế Càn Long, cháu của Khang Hy gồm 4 chữ 卢沟晓月 (Lư Câu hiểu nguyệt - trăng sớm chiếu sáng cầu Lư Câu).
Cầu Lư Câu được xếp là một trong Yên Kinh bát cảnh (燕京八景, tám cảnh đẹp Yên Kinh[1]) và một trong Trung Quốc tứ đại cổ kiểu (中国四大古桥, bốn cầu cổ nổi tiếng nhất Trung Quốc). Năm 1961, cầu được công nhận là một di sản quốc gia. Là một cây cầu tráng lệ, nhưng cây câu Lư Câu cũng lại là nhân chứng của một sự kiện đen tối trong lịch sử Trung Quốc. Nơi đây ngày 7 tháng 7 năm 1937, sự kiện cầu Lư Câu đã xảy ra, mở đầu cuộc chiến tranh kéo dài 8 năm đem tới bao đâu thương cho đất nước Trung Quốc. Thành Uyển Bình đầu phía Đông cầu vẫn còn vết đạn của quân Nhật. Trong thành, người ta đã xây một đài tưởng niệm các liệt sỹ Trung Quốc kháng Nhật.
Sông Vĩnh Định vốn là một phụ lưu của sông Hải Hà. Ngày nay, người ta đã nắn dòng sông này khiến cho nước chảy dưới chân cầu hầu như không còn.
Ghi chú
- ^ Tức Bắc Kinh.
Xem thêm
Tọa độ: 39°50′57″B 116°12′47″ĐWikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Cầu Lư Câu |
Trung Quốc tứ đại cổ kiều |
An Tế | Lạc Dương | Lư Câu | Quảng Tế |
Thư viện Quốc hội Mỹ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Chức năng chính của Thư viện, thông qua Vụ Khảo cứu Quốc hội, là sưu khảo và phân tích thông tin và tư liệu nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu của các nghị sĩ Quốc hội. Dịch vụ này không được mở rộng cho công chúng, mà chỉ dành riêng cho những nhà lập pháp, các thẩm phán Tối cao Pháp viện, và các viên chức cao cấp của chính phủ. Thư viện Quốc hội cũng tiếp nhận từ Cục Bản quyền Hoa Kỳ bản sao của tất cả sách, tiểu luận, ấn phẩm, nhạc phẩm đã đăng ký tại Hoa Kỳ. Trong thực tế là thư viện quốc gia của Hoa Kỳ, Thư viện Quốc hội góp phần quảng bá văn học Mỹ qua các đề án như American Folklife Center (Trung tâm Văn hóa Dân gian Mỹ), American Memory (Hồi ức Mỹ), Center for the Book (Trung tâm Sách), và Poet Laureate (Quán quân Thi ca).
Người đứng đầu Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ hiện thời là Thủ thư Quốc hội, James H. Billington.
Lịch sử
Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ thành lập ngày 24 tháng 4 năm 1800 bởi một sắc lệnh của Tổng thống John Adams. Sắc lệnh Act of Congress quyết định dời thủ đô từ Philadelphia về Washington, D. C.. Một điều khoản trong sắc lệnh dành khoản tiền 5.000 USD “để mua các đầu sách cần thiết cho Quốc hội…, và trang bị nơi chứa sách…” Đặt hàng từ Luân Đôn, 740 cuốn sách và 30 bản đồ được lưu trữ tại thủ đô mới của nước Mỹ.[7] Mặc dù số đầu sách không nhiều, tất cả đều hợp pháp, phản ánh vị trí của Quốc hội là thiết chế làm luật.Thomas Jefferson thủ giữ vai trò quan trọng giai đoạn thành lập thư viện. Ngày 26 tháng 1 năm 1802, ông ký ban hành đạo luật đầu tiên về thiết lập cơ cấu Thư viện Quốc hội, qui định Tổng thống bổ nhiệm chức vụ Thủ thư Quốc hội và thành lập một Ủy ban Lưỡng viện về Thư viện[8] nhằm giám sát và thiết lập nội quy cho thư viện, cũng như dành cho tổng thống và phó tổng thống quyền mượn sách.[7] Tháng 8 năm 1814, Thư viện Quốc hội – lúc ấy chỉ là một thư viện nhỏ có 3.000 đầu sách - bị tàn phá hoàn toàn khi binh sĩ Anh xâm chiếm và đốt phá Đồi Capitol.[7] Trong vòng một tháng, cựu Tổng thống Jefferson hiến tặng thư viện riêng của ông để thế chỗ thư viện cũ.[9][10] Trước đó, Jefferson đã dành 50 năm để thu thập cho một bộ sưu tập sách đa dạng trong thể loại, trong đó có sách ngoại ngữ, và nhiều tuyển tập về triết học, khoa học, văn chương, và sách dạy nấu ăn. Tháng 1 năm 1815, Quốc hội tiếp nhận sự hiến tặng của Jefferson và trả 23.950 USD cho 6.487 cuốn sách của ông.[7]
Suy yếu (1851 – 1865)
Thời tiền chiến là giai đoạn khó khăn cho Thư viện. Suốt trong thập niên 1850, thủ thư của Viện Smithsonian là Charles Coffin Jewett vận động tích cực cho Viện Smithsonian được công nhận là thư viện quốc gia. Song, nỗ lực của Jewett bị chặn đứng bởi Joseph Henry. Henry là Thư ký Viện Smithsonian, ông chủ trương chỉ tập chú vào các cuộc nghiên cứu khoa học và ấn hành chúng, cũng như vận động cho Thư viện Quốc hội phát triển thành thư viện quốc gia. Tháng 7 năm 1854, quyết định của Henry sa thải Jewett đã chấm dứt sự cạnh tranh, năm 1866 Henry chuyển giao thư viện của Viện Smithsonian với 40 ngàn đầu sách cho Thư viện Quốc hội[7].Ngày 24 tháng 12 năm 1851, một vụ hỏa hoạn lớn đã thiêu rụi 35.000 cuốn sách, tức là khoảng hai phần ba trong tổng số 55.000 cuốn của Thư viện, trong đó có cả hai phần ba số sách hiến tặng của Jefferson [7]. Năm 1852, Quốc hội nhanh chóng thông qua số tiền 168.700 USD chỉ đủ để thay thế số sách bị mất trong hỏa hoạn. Đây cũng là thời điểm đánh dấu sự khởi đầu giai đoạn trì trệ của Thư viện dưới quyền quản lý của Thủ thư John Silva Meehan và Chủ tịch Ủy ban Lưỡng viện James A. Pearce, hai người này chủ trương hạn chế các hoạt động của Thư viện [7]. Năm 1857, Quốc hội quyết định chuyển trách nhiệm phân phối tài liệu công cho Bộ Nội Vụ và giao trách nhiệm trao đổi sách báo và tài liệu ngoại quốc cho Bộ Ngoại Giao. Ngoài ra, kể từ năm 1859, mọi hoạt động tác quyền đều phải tập trung về Cơ Quan Đăng Kiểm Sáng Chế (the Patent Office) chấm dứt vai trò kéo dài 13 năm của Thư viện như là cơ quan lưu trữ toàn bộ sách và tiểu luận có đăng ký bản quyền. Sự kiện Abraham Lincoln bổ nhiệm John G. Stephenson làm thủ thư trong năm 1861 vì các mục tiêu chính trị khiến vị trí của Thư viện càng mờ nhạt hơn. Stephenson chỉ bận tâm đến các công việc không liên quan gì đến lãnh vực thư viện, trong đó có công việc sĩ quan phụ tá (ông mang quân hàm đại tá) tại các mặt trận Chancellorsville và Gettysburg trong thời kỳ Nội chiến Mỹ. Sau khi chiến tranh kết thúc, ban nhân sự của Thư viện có 7 người, quản lý 80 ngàn đầu sách [7].
Phát triển (1865 – 1897)
Suốt nửa sau thế kỷ 19, dưới quyền lãnh đạo của Thủ thư Ainsworth Rand Spofford từ năm 1865 đến 1897, Thư viện Quốc hội đã tái khẳng định vị trí của mình. Đồng hành cùng giai đoạn mở rộng toàn diện của Chính phủ liên bang cùng không khí chính trị thuận lợi, Spofford thành công trong nỗ lực kiến tạo một sự ủng hộ rộng rãi từ hai chính đảng dành cho Thư viện như là thư viện quốc gia và là tài nguyên của nhánh lập pháp. Ông cũng tiến hành thu thập tư liệu về văn hóa, lịch sử và dân ca Mỹ thời kỳ Tây tiến (Americana), và văn chương Mỹ, lãnh đạo việc xây dựng một tòa nhà mới cho Thư viện, cùng củng cố sức mạnh cũng như tính độc lập của Thư viện.[7] Từ năm 1865 đến 1870, Quốc hội đồng ý chi tiền xây dựng tòa nhà Thomas Jefferson, giao cho Thư viện trách nhiệm quản lý việc đăng ký bản quyền, lưu trữ, và phục hồi chức năng trao đổi sách trên phạm vi quốc tế. Thư viện khổng lồ của Viện Smithsonian và thư viện của sử gia Peter Force cũng được sáp nhập vào Thư viện Quốc hội làm gia tăng đáng kể bộ sưu tập Americana. Đến năm 1876, Thư viện Quốc hội có 300.000 bộ sách, liên kết với Thư viện công Boston để trở thành thư viện lớn nhất nước. Khi dời về trụ sở mới trong năm 1897, thư viện đã có 840.000 bộ sách, 40% trong số này có được là nhờ lưu trữ tác quyền.[7]Một năm trước khi Thư viện chuyển đến địa điểm mới, Ủy ban Lưỡng viện về Thư viện tổ chức một phiên điều trần nhằm thẩm định hiện trạng, kế hoạch phát triển, và khả năng cải tổ Thư viện. Spofford và sáu chuyên gia từ Hiệp hội Thư viện Mỹ - trong đó có Thủ thư tương lai của Quốc hội, Herbert Putnam, và Melvil Dewey của Thư viện Tiểu bang New York - giải trình trước Ủy ban rằng Thư viện Quốc hội nên tiếp tục mở rộng để trở thành thư viện quốc gia thực thụ.[7] Dựa trên kết quả của phiên điều trần, cũng nhờ sự trợ giúp từ các thượng nghị sĩ Justin Morrill từ Vermont và Daniel Voorhees từ Indiana, Quốc hội cho phép gia tăng thành phần nhân sự của Thư viện từ 42 lên 108 người, và thiết lập các bộ phận quản trị những hoạt động khác nhau của Thư viện trong lĩnh vực thu thập tư liệu. Quốc hội cũng gia tăng quyền hạn quản lý và bổ nhiệm nhân sự cho văn phòng Thư viện Quốc hội, đồng thời yêu cầu Thượng viện phê chuẩn các đề cử của tổng thống.[7]
Giai đoạn hậu cải tổ (1897 – 1939)
Khởi từ cuộc cải tổ năm 1897, Thư viện Quốc hội bắt đầu phát triển mạnh. Người kế nhiệm Spofford, John Russell Young, dù ở cương vị này chỉ có hai năm, đã kiểm tra toàn diện bộ máy hành chính của Thư viện, sử dụng mối quan hệ với một nhân vật từng là nhà ngoại giao để thu thập tài liệu từ trên khắp thế giới, cũng như thành lập chương trình trợ giúp ban đầu cho người mù và người khuyết tật.[7] Herbert Putnam, người kế nhiệm Young, đảm nhiệm chức vụ này trong suốt 40 năm (1899-1939), nhậm chức chỉ hai năm trước khi Thư viện Quốc hội trở thành thư viện đầu tiên ở Hoa Kỳ chạm mốc lưu trữ 1 triệu đầu sách.[7] Putnam tập chú vào nỗ lực cho phép công chúng và những thư viện khác tiếp cận các dịch vụ của thư viện. Ông cũng thiết lập dịch vụ cho mượn sách liên thư viện, biến Thư viện thành một định chế được mọi người nhắc đến như là “thư viện tối hậu”.[11] Putnam cũng mở cửa Thư viện cho “những nhà điều tra khoa học và các cá nhân đủ phẩm chất”, và ấn hành các nguồn tư liệu phục vụ giới học thuật.[7]Nhiệm kỳ của Putnam chứng kiến sự đa dạng trong khả năng thu thập tư liệu của Thư viện. Năm 1903, ông thuyết phục Tổng thống Theodore Roosevelt ký sắc lệnh chuyển các văn kiện của các nhà lập quốc từ Bộ Ngoại giao cho Thư viện. Putnam mở rộng phạm vi thu thập tư liệu ở nước ngoài, trong đó có vụ mua thư viện 4.000 đầu sách của Ấn Độ trong năm 1904, thư viện Nga 8.000 đầu sách của G. V. Yudin trong năm 1906, năm 1908 là bộ sưu tập các bản nhạc kịch cổ của Schatz, và đầu thập niên 1930 là bộ sưu tập vương triều Nga trong đó có 2.600 đầu sách về các chủ đề khác nhau từ thư viện gia đình Romanov. Cũng có những bộ sưu tập các tác phẩm tiếng Hebrew, Hoa, và Nhật.[7] Quốc hội từng chủ động tìm kiếm tài liệu cho Thư viện như trong trường hợp Nghị sĩ Ross Collins từ Mississippi với đề án chi 1,5 triệu USD để mua bộ sưu tập sách cổ của Otto Vollbehr, trong đó có các ấn bản trên giấy da Kinh Thánh Gutenberg.[7]
Năm 1914, Putnam thành lập Vụ Tham khảo Lập pháp như là một đơn vị hành chánh độc lập của Thư viện. Phỏng theo mô hình cơ quan khảo cứu đã áp dụng thành công tại các viện lập pháp tiểu bang, Vụ Tham khảo Lập pháp có chức năng cung cấp giải đáp cho các tra vấn khảo cứu của thành viên Quốc hội trong hầu hết các chủ đề.[7] Năm 1925, Quốc hội thông qua luật cho phép Thư viện Quốc hội thành lập ban vận động để thu nhận các khoản đóng góp, cũng như dành cho Thư viện vai trò của một nhà tài trợ nghệ thuật. Trong số những người đóng góp cho Thư viện có các tên tuổi như John D. Rockefeller, James B. Wilbur, và Archer M. Huntington. Gertrude Clarke Whittall hiến tặng bộ sưu tập vĩ cầm Stradivarius, trong khi Elizabeth Sprague Coolidge chi trả cho việc xây dựng phòng hòa nhạc bên trong tòa nhà Thư viện.[7]
Thời kỳ này đã giúp lấp đầy tòa nhà chính với các loại tư liệu, do đó Thư viện buộc phải mở rộng diện tích. Năm 1928, Quốc hội cấp thêm khu đất kế cận và cho phép xây dựng tòa nhà mới (về sau mang tên Tòa nhà John Adams). Do bị đình hoãn trong thời kỳ Đại Suy thoái, mãi đến năm 1938 tòa nhà mới hoàn tất, và mở cửa cho công chúng trong năm 1939.[7]
Lịch sử đương đại (1939 - )
Năm 1939, Tổng thống Franklin D. Roosevelt bổ nhiệm Archibald MacLeish thay thế Putnam đã đến tuổi về hưu. Đảm nhiệm chức trách thủ thư từ năm 1939 đến 1944, giai đoạn đỉnh điểm của Đệ Nhị Thế chiến, MacLeish được xem là thủ thư nổi tiếng nhất trong lịch sử Thư viện Quốc hội. MacLeish đổi tên phòng đọc phía Nam trong tòa nhà Adams thành Phòng Thomas Jefferson và mời họa sĩ Ezra Winter vẽ bốn bức bích họa tại đây. Trong phòng đọc chính thuộc tòa nhà Jefferson, ông cho thiết kế “góc dân chủ”, trưng bày các văn kiện quan trọng như Bản Tuyên ngôn Độc lập, Hiến pháp, và các văn kiện liên bang.[7] Thư viện đã hoạt động tích cực trong thời kỳ chiến tranh như bảo toàn Bản Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Hoa Kỳ tại Fort Knox, và nghiên cứu dữ liệu thời tiết trên dãy Himalaya cho các phi công.[7] Năm 1944, MacLeish từ nhiệm để nhận chức Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao, Tổng thống Harry Truman bổ nhiệm Luther H. Evans thay thế. Evans, phục vụ đến năm 1953, không chỉ phát triển khả năng thu thập tư liệu, các dịch vụ thư mục và phân loại sách đến mức tối đa cho phép, mà còn khai mở các sứ mạng đặc biệt cho Thư viện: Tại San Francisco, thư viện đã hỗ trợ các đoàn đại biểu tham dự hội nghị thành lập Liên Hiệp Quốc, tại châu Âu thu thập các ấn phẩm châu Âu cho Thư viện Quốc hội và các thư viện khác tại Hoa Kỳ, cũng như hỗ trợ việc thành lập Thư viện Quốc hội Nhật Bản.[7]Năm 1953, L. Quincy Mumford kế nhiệm Evans. Nhiệm kỳ của Mumford, kéo dài đến năm 1974, chứng kiến việc khởi công xây dựng tòa nhà James Madison, tòa nhà thứ ba của Thư viện. Đây cũng là giai đoạn gia tăng các khoản chi tiêu dành cho giáo dục, nhờ đó Thư viện có thể thành lập các trung tâm thu thập tài liệu ở nước ngoài như tại Cairo và New Delhi. Năm 1962, theo yêu cầu của chủ tịch Ủy ban Lưỡng viện về Thư viện, Douglas Bryant thuộc Thư viện Đại học Harvard đệ trình đề án cải tổ, đề nghị mở rộng thư viện thành thư viện quốc gia và bớt chú trọng vào chức năng phục vụ Quốc hội. Bryant cũng đề nghị đổi tên Thư viện khiến Mumford gọi nó là “sự xúc phạm nặng nề đến truyền thống.”[7] Cuộc tranh luận kéo dài cho đến khi một đạo luật được thông qua xác định nhiệm vụ của Thư viện là tập chú nhiều hơn vào công cuộc khảo cứu hỗ trợ cho Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội, và đổi tên Vụ Tham khảo Lập pháp thành Vụ Khảo cứu Quốc hội.[7]
Daniel J. Boorstin được Tổng thống Gerald Ford bổ nhiệm làm thủ thư năm 1974 khi Mumford về hưu. Ngân quỹ Thư viện tăng từ 116 triệu USD năm 1975 lên đến 250 triệu USD năm 1987, Boorstin tích cực tăng cường quan hệ với các học giả, tác giả, nhà xuất bản, các nhà lãnh đạo văn hóa, và cộng đồng doanh nghiệp. Sự năng nổ cũng như những hoạt động đa dạng của ông đã làm thay đổi vị trí của Thư viện nhiều đến nỗi khi ông về hưu trong năm 1987, tờ New York Times đã đưa ra nhận xét, có lẽ Thư viện Quốc hội là định chế “hàng đầu trong giới trí thức trên toàn quốc.”[7] Năm 1987, bởi sự bổ nhiệm của Ronald Reagan, James H. Billington trở thành thủ thư thứ 13 của Thư viện Quốc hội. Năm 1991, Billington bắt đầu sử dụng các thành tựu kỹ thuật mới và Internet để nối kết Thư viện với các định chế giáo dục trên khắp nước. Sự kết thúc Chiến tranh lạnh cũng giúp Thư viện phát triển quan hệ với các nước Đông Âu, và giúp thành lập các thư viện quốc hội tại những quốc gia này.[7] Cuối tháng 11 năm 2005, Thư viện công bố đề án thành lập Thư viện Số Thế giới, sử dụng kỹ thuật số lưu trữ sách và các tư liệu khác từ tất cả nền văn hóa trên khắp thế giới.
Địa Điểm
Trụ sở Thư viện Quốc hội bao gồm ba tòa nhà ở Thủ đô Washington, D.C..Tòa nhà Thomas Jefferson
Tòa nhà John Adams
Tòa nhà tưởng niệm James Madison
Lưu trữ
Thư viện Quốc hội có hơn 32 triệu sách đã phân loại cùng các loại ấn phẩm khác trong hơn 470 ngôn ngữ, hơn 61 triệu bản thảo, bộ sưu tập sách hiếm lớn nhất Bắc Mỹ, trong đó có bản thảo thô của Bản Tuyên ngôn Độc lập, một bản Kinh Thánh Gutenberg (một trong bốn bản in trên giấy da hiện được biết đến),[12] hơn 1 triệu văn kiện của Chính phủ Hoa Kỳ, 1 triệu ấn bản những nhật báo của thế giới trải dài hơn ba thế kỷ vừa qua, 33 000 tập nhật báo có bìa bao, 500 000 cuộn vi phim, hơn 6 000 đầu sách truyện tranh,[13] bộ sưu tập văn kiện pháp luật lớn nhất thế giới, các bộ phim, 4, 8 triệu bản đồ, nhạc tờ, 2, 7 triệu bản ghi âm, hơn 13, 7 triệu ảnh trong đó có các tác phẩm hội họa và bản vẽ kiến trúc, cây vĩ cầm cổ Betts Stradivarius, và cây viola Cassavetti Stradivarius.Thư viện cũng đã phát triển một hệ thống phân loại sách (Library of Congress Classification - LCC) được sử dụng tại hầu hết các thư viện đại học và viện nghiên cứu ở Mỹ, trong khi phần lớn thư viện công vẫn duy trì hệ thống thập phân Dewey.
Một chức năng khác của Thư viện là đăng ký và lưu trữ bản quyền, và được xem như là kho dữ liệu cho Cục Bản quyền Hoa Kỳ. Có đăng ký bản quyền hay không, thì tất cả nhà xuất bản đều được yêu cầu nộp cho Thư viện hai bản sao các tác phẩm xuất bản của họ - yêu cầu này gọi là mandatory deposit.[14] Nếu không xuất bản thì chỉ cần nộp môt bản sao. Mỗi ngày có gần 22 000 ấn bản ở Hoa Kỳ đệ nộp cho Thư viện. Không như nhiều người vẫn nghĩ, Thư viện không lưu trữ tất cả văn kiện này, nhưng mỗi ngày chỉ có khoảng 10 000 đơn vị được giữ lại. Sau khi chọn lọc, nhiều ấn phẩm được dùng để trao đổi với các thư viện trên khắp thế giới, phân phối cho các cơ quan của chính phủ liên bang, các trường học, cộng đồng, hoặc các tổ chức trong nước.[15] Cũng giống các thư viện khác, Thư viện Quốc hội lưu trữ tất cả tài liệu tiếng Anh được xem là có giá trị.
Gần đây, Sách Kỷ lục Thế giới Guinness công nhận Thư viện Quốc hội là “thư viện lớn nhất thế giới”,[16] hiển nhiên là dựa trên diện tích kệ sách. Thư viện cho biết tài liệu lưu trữ của họ lấp đầy các kệ sách nếu xếp chúng nối đuôi nhau dài đến 530 miles (850 km),[17] con số này của Thư viện Anh Quốc là 388 miles (625 km).[18] Hiện Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ có 130 triệu đơn vị lưu trữ với 29 triệu cuốn sách, trong khi Thư viện Anh Quốc có xấp xỉ 150 triệu đơn vị lưu trữ với 25 triệu cuốn sách.[17][18]
Thư viện đã số hóa hàng triệu văn kiện, gồm có hàng chục terabyte trên American Memory Website. Đây là nguồn tư liệu hình ảnh, audio, video và nội dung các trang web được sử dụng trong phạm vi công cộng. Gần hết thư mục và catalog của Thư viện được liệt kê ở đây. Thủ thư trên khắp thế giới có thể vào xem các catalog này, và có thể sử dụng Library of Congress Control Number để biết chính xác nguồn gốc cuốn sách.
Thư viện cũng có một văn khố online gọi là THOMAS, cung cấp những thông tin về các hoạt động của Quốc hội, trong đó có nội dung các dự luật, tường trình các hoạt động và các cuộc thảo luận tại Quốc hội, bản tóm lược và tình trạng các dự luật, và Hiến pháp Hoa Kỳ.
Dưới quyền quản lý của Thư viện còn có Dịch vụ Thư viện Quốc gia cho người khiếm thị và người khuyết tật, cùng một chương trình thư viện nói và chữ nổi braille dành cho 766 000 người Mỹ.
Sử dụng thư viện
Thư viện mở cửa cho công chúng và tổ chức các tour du lịch cho du khách. Chỉ những người có làm thẻ bạn đọc mới có thể vào các phòng đọc. Thẻ bạn đọc có sẵn cho người ít nhất là 16 tuổi có xuất trình một trong các loại thẻ căn cước do chính quyền cấp (giấy phép lái xe, ID của tiểu bang, hoặc hộ chiếu). Tuy nhiên chỉ có thành viên và nhân viên Quốc hội, Tối cao Pháp viện, Thư viện Quốc hội và một số viên chức chính phủ mới có quyền mượn sách. Người có thẻ bạn đọc chỉ có thể đọc sách ngay tại phòng đọc.Xem thêm
-
Kinh Thánh Gutenberg, trưng bày tại Thư viện Quốc hội
-
Erotica, bích họa của George Randolph Barse (1861-1938)
Chú thích
- ^ a ă 2007 At A Glance
- ^ Year 2006 at a glance
- ^ See Gutenberg's Bibles— Where to Find Them; http://www.octavo.com/editions/gtnbbl/index.html; http://www.loc.gov/rr/rarebook/guide/europe.html.
- ^ “About the Serial and Government Publications Division”. The Library of Congress. 2006-04-07. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ Nhà làm đàn người Ý Antonio Stradivari chế tạo cây vĩ cầm Betts Stradivarius năm 1704. Cùng bốn cây đàn Stradivari khác thuộc bộ sưu tầm Cremonese, Betts Stradivarius được Gertrude Clarke Whittall hiến tặng Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào năm 1935. Xem Betts Stradivarius
- ^ Cassavetti Stradivarius hoàn thành năm 1727 bởi nhà Stradivarius, Gertrude Clarke Whittall tặng Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v “Jefferson's Legacy: A Brief History of the Library of Congress”. Library of Congress. 2006-03-06. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2008.
- ^ Ủy ban có 10 thành viên: năm Thượng Nghị sĩ và năm Dân biểu. Xem Joint Committee on the Library
- ^ Thomas Jefferson's personal library at Library Thing, based on scholarship http://www.librarything.com/catalog.php?view=ThomasJefferson
- ^ Library Thing Profile Page for Thomas Jefferson's library, summarizing contents and indicating sources http://www.librarything.com/profile/ThomasJefferson
- ^ “Interlibrary Loan (Collections Access, Management and Loan Division, Library of Congress”. Library of Congress website. 25 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2007.
- ^ See Gutenberg's Bibles— Where to Find Them; http://www.octavo.com/editions/gtnbbl/index.html; http://www.loc.gov/rr/rarebook/guide/europe.html.
- ^ “About the Serial and Government Publications Division”. The Library of Congress. 7 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ “Mandatory Deposit”. Copyright.gov. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ “Fascinating Facts”. Library of Congress. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ “Largest Library”. Guinness Book of World Records. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ a ă “About the Library”. Library of Congress. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ a ă “Did You Know?”. British Library. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Thư viện Quốc hội |
- Website của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ
- Lịch sử của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ
- American Memory
- Search the Ca-ta-lô của của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ
- thomas.loc.gov, thông tin lập pháp
- Tác phẩm của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ tại Dự án Gutenberg
- Standards, The Library of Congress
- Library Of Congress Meeting Notices and Rule Changes from The Federal Register RSS Feed
- Các bức ảnh của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ Flickr
- Điêu khắc ngoài trời tại của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ.
Thí nghiệm Franck - Hertz
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thí nghiệm Franck - Hertz là một thí nghiệm vật lý ủng hộ cho mô hình nguyên tử Bohr, tiền thân của cơ học lượng tử. Năm 1914, các nhà vật lý Đức James Franck và Gustav Ludwig Hertz đã đi tìm bằng chứng thực nghiệm cho mô hình Bohr về nguyên tử cho rằng các electron quay quanh hạt nhân với các mức năng lượng xác định và gián đoạn. Thí nghiệm của họ đã khẳng định mô hình lượng tử hóa
của Bohr với việc chứng minh rằng trong thực tế nguyên tử chỉ có thể
hấp thụ (và bị kích thích bởi) những luợng năng luợng xác định (các lượng tử năng lượng). Franck và Hertz đã được trao giải Nobel về Vật lý năm 1925 cho công trình của họ.
Sự kích thích năng lượng điện tử thấp nhất của một nguyên tử thủy ngân đòi hỏi 4.9 electronvolt (eV), tương ứng với vạch phổ phát xạ tử ngoại của thủy ngân tại 254 nm. Khi thế gia tốc đạt đến 4.9 volt, mỗi electron tự do thu được một động năng chính xác là 4.9 eV khi nó tới được lưới gia tốc (cộng thêm với năng lượng chuyển động nhiệt mà electron có được khi bị đốt nóng ở catot). Hệ quả là sự va chạm giữa một nguyên tử thủy ngân với một electron tự do tại điểm đó có thể là không đàn hồi: tức là, động năng của một electron tự do có thể được chuyển thành năng lượng của một electron liên kết trong một nguyên tử thủy ngân và làm tăng mức năng luợng của electrron này. Với việc mất mát toàn bộ động năng thu được, electron tự do như vậy không thể vượt qua hàng rào thế năng chỉ hơi âm để bay tới anot, và dòng điện ghi nhận được rớt xuống ngay lập tức.
Khi thế lại tăng lên, các electron vẫn sẽ tham gia các va chạm không đàn hồi, mất đi 4.9 eV ở đâu đó (khi mà nó thu được một động năng chính xác bằng 4.9 eV) trên đường đi tới lưới gia tốc nhưng rồi sau đó lại tiếp tục được gia tốc và đạt đến anot. Theo cách này dòng điện lại tăng lên trở lại sau khi thế gia tốc vượt quá 4.9 V. Ở 9.8 V, tình huống lại thay đổi. Ở đó, mỗi electron bây giờ có vừa đủ năng lượng để tham gia va chạm không đàn hồi, kích thích hai nguyên tử thủy ngân, và rồi dừng lại với động năng đã mất hết. Một lần nữa, dòng điện lại tụt xuống. Với những khoảng 4.9 eV, quá trình này sẽ lặp lại; mỗi lần các electron sẽ trải qua thêm một va chạm không đàn hồi.
Thí nghiệm
Thí nghiệm kinh điển này liên quan đến một ống chứa hơi thủy ngân ở áp suất thấp đựợc gắn với ba điện cực: một catot (âm cực) phát electron, một lưới gia tốc và một anot (dương cực). Cực anot được giữ ở một điện thế hơi âm so với luới (mặc dù vẫn là dương so với catot), sao cho các electron phải có một động năng nhỏ để bay tới nó sau khi đi qua lưới. Các thiết bị được lắp đặt để đo dòng điện đi qua giữa các điện cực, và điều chỉnh hiệu điện thế giữa catot và lưới gia tốc.- Ở hiệu điện thế thấp - dưới 4.9 volt với ống chứa hơi thủy ngân - dòng điện đi qua ống tăng đều đặn với hiệu điện thế tăng dần. Thế càng cao, điện trường càng mạnh và các electron càng bị kéo mạnh về phía lưới gia tốc.
- Ở 4.9 volt cường độ dòng điện đột ngột giảm xuống một cách rõ rệt, gần như là trở về không.
- Dòng điện sau đó lại tăng đều trở lại khi thế tiếp tục tăng cho tới khi đạt tới 9.8 volt (chính xác bằng hai lần 4.9 volt).
- Ở 9.8 volt lại quan sát được hiện tượng giảm nhanh dòng điện tương tự.
- Chuỗi tăng giảm cường độ dòng điện này với số gia xấp xỉ 4.9 volt cứ tiếp diễn cho tới hiệu điện thế ít nhất là 100 volt.
Giải thích
Franck và Hertz đã giải thích thí nghiệm của họ trên cơ sở các va chạm đàn hồi và không đàn hồi. Ở hiệu điện thế thấp, các electron được gia tốc chỉ thu được một động năng nhỏ. Khi chúng va chạm với các nguyên tử thủy ngân trong ống đó chỉ là những va chạm đàn hồi thuần túy. Hiện tuợng này là do một nguyên tử không thể hấp thụ năng luợng cho đến khi năng luợng va chạm lớn hơn năng luợng cần thiết để đưa một electron lên một trạng thái có năng lượng cao hơn. Với các va chạm đàn hồi thuần túy, tổng động năng của hệ giữ nguyên không đổi (không có sự chuyển hóa thành các dạng năng lượng khác như quang năng). Vì electron nhẹ hơn hơn một nghìn lần so với thậm chí là nguyên tử nhẹ nhất (hydro), điều đó có nghĩa là electron giữ lại được phần lớn động năng của nó. Hiệu điện thế cao hơn kéo nhiều electron hơn qua lưới về phía anot và dòng điện quan sát được cũng tăng lên, cho đến khi hiệu điện thế gia tốc đạt đến 4.9 volt.Sự kích thích năng lượng điện tử thấp nhất của một nguyên tử thủy ngân đòi hỏi 4.9 electronvolt (eV), tương ứng với vạch phổ phát xạ tử ngoại của thủy ngân tại 254 nm. Khi thế gia tốc đạt đến 4.9 volt, mỗi electron tự do thu được một động năng chính xác là 4.9 eV khi nó tới được lưới gia tốc (cộng thêm với năng lượng chuyển động nhiệt mà electron có được khi bị đốt nóng ở catot). Hệ quả là sự va chạm giữa một nguyên tử thủy ngân với một electron tự do tại điểm đó có thể là không đàn hồi: tức là, động năng của một electron tự do có thể được chuyển thành năng lượng của một electron liên kết trong một nguyên tử thủy ngân và làm tăng mức năng luợng của electrron này. Với việc mất mát toàn bộ động năng thu được, electron tự do như vậy không thể vượt qua hàng rào thế năng chỉ hơi âm để bay tới anot, và dòng điện ghi nhận được rớt xuống ngay lập tức.
Khi thế lại tăng lên, các electron vẫn sẽ tham gia các va chạm không đàn hồi, mất đi 4.9 eV ở đâu đó (khi mà nó thu được một động năng chính xác bằng 4.9 eV) trên đường đi tới lưới gia tốc nhưng rồi sau đó lại tiếp tục được gia tốc và đạt đến anot. Theo cách này dòng điện lại tăng lên trở lại sau khi thế gia tốc vượt quá 4.9 V. Ở 9.8 V, tình huống lại thay đổi. Ở đó, mỗi electron bây giờ có vừa đủ năng lượng để tham gia va chạm không đàn hồi, kích thích hai nguyên tử thủy ngân, và rồi dừng lại với động năng đã mất hết. Một lần nữa, dòng điện lại tụt xuống. Với những khoảng 4.9 eV, quá trình này sẽ lặp lại; mỗi lần các electron sẽ trải qua thêm một va chạm không đàn hồi.
Hiệu ứng trong các chất khí khác
Hiện tượng hoàn toàn tương tự cũng được quan sát đối với khí neon, nhưng xảy ra ở một ngưỡng hiệu điện thế khác và có thể thấy rõ bằng mắt thường: một quầng sáng sẽ xuất hiện trong vùng khí có xảy ra sự kích thích. Đó là do nguyên tử neon sau khi bị kích thích sẽ nhanh chóng chuyển về trạng thái có năng lượng thấp hơn và giải phóng ra một photon ứng với bước sóng của ánh sáng trong miền khả kiến. Để kích thích khí neon phát sáng cần tăng thế gia tốc electron lên đến xấp xỉ 19 V. Lúc này các nguyên tử neon có thể được đưa lên các trạng thái 3S ở các mức năng lượng từ 18.3 đến 18.9 eV sau đó trở về các trạng thái 2P từ 16.57 đến 16.79 eV và phát ra photon có màu đỏ, cam, vàng hay lục tùy thuộc vào bước chuyển xảy ra. Nếu bước chuyển là từ 3S2 (một trong 4 mức năng lương trong nhóm 3S) về 2P4 (một trong 10 mức năng lượng của nhóm 2P) thì photon phát ra có màu đỏ (633 nm) còn nếu là từ 3S2 về 2P10 thì photon là lục (543 nm). Vùng sáng này sẽ chuyển dần từ lưới gia tốc về phía catot khi thế gia tốc tăng lên, tới bất cứ điểm nào trong ống mà electron thu được đủ 19 eV cần thiết cho việc kích thích một nguyên tử neon lên các trạng thái 3S. Ở 38 V hai vùng sáng phân biệt có thể nhìn thấy; một ở giữa catot và lưới, và một ở ngay tại lưới gia tốc. Thế càng cao, cứ cách 19 V lại tạo ra thêm một vùng sáng nữa trong ống.Tham khảo
Kính viễn vọng không gian Hubble
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kính Hubble nhìn từ tàu con thoi Atlantis, trong phi vụ 4 (STS-125), phi vụ thứ 5 và chuyến bay có người cuối cùng tới kính này. |
|
Thông tin chung | |
---|---|
NSSDC ID | 1990-037B |
Thời gian hoạt động | 23 years, 11 months, and 30 days |
Rời quỹ đạo | ~ 2013–2021[1][2] |
Khối lượng | 11.110 kg (24.500 lb) |
Kiểu quỹ đạo | Quỹ đạo thấp quanh Trái Đất gần tròn |
Độ cao quỹ đạo | 559 km (347 mi) |
Chu kỳ quỹ đạo | 96–97 phút |
Vận tốc quỹ đạo | 7.500 m/s (25.000 ft/s) |
Gia tốc do hấp dẫn | 8,169 m/s2 (26,80 ft/s2) |
Vị trí | Quỹ đạo thấp quanh Trái Đấtt |
Kiểu kính | Kính phản xạ Ritchey-Chretien |
Bước sóng | Quang học, tia cực tím, gần hồng ngoại |
Đường kính | 2,4 m (7 ft 10 in) |
Diện tích thu tín hiệu | 4,5 m2 (48 sq ft)[3] |
Tiêu cự | 57,6 m (189 ft) |
Thiết bị | |
NICMOS | infrared camera/spectrometer |
ACS | optical survey camera (partially failed) |
WFC3 | wide field optical camera |
COS | ultraviolet spectrograph |
STIS | optical spectrometer/camera |
FGS | three fine guidance sensors |
Website | hubble.nasa.gov hubblesite.org www.spacetelescope.org |
Kính thiên văn Hubble được nghiên cứu từ thập niên 1970 và phóng lên không gian năm 1990, đã tạo ra một bước đột phá quan trọng trong quan sát thiên văn trong phổ quang học, tử ngoại và hồng ngoại cho thời kỳ này, nhờ vào ưu điểm là quan sát các thiên thể mà không bị ảnh hưởng bởi khí quyển Trái Đất.
Nó có thể thu nhận ánh sáng từ vật thể cách xa 12 tỉ năm ánh sáng. Nó lần đầu tiên sử dụng công nghệ Multi-Anode Microchannel Array (MAMA) để ghi nhận tia tử ngoại nhưng loại trừ ánh sáng. Nó có sai số trong định hướng nhỏ tương đương với việc chiếu một tia laser đến đúng vào một đồng xu cách đó 320 km và giữ yên như thế.
Việc thiết kế kính này theo dạng mô-đun cho phép các phi hành gia tháo gỡ, thay thế hoặc sửa chữa từng mảng bộ phận dù họ không có chuyên môn sâu về các thiết bị. Trong một lần sửa, độ phân giải của Hubble đã được tăng lên gấp 10.
Hubble cung cấp khoảng 5-10 GB dữ liệu một ngày. Vài khám phá quan trọng do Hubble mang lại gồm có:
- Hình ảnh chi tiết của mọi loại tinh vân, đặc biệt là những tinh vân đang phát tán gần các thiên hà xoắn ốc;
- Hình ảnh những thiên hà đang va chạm nhau và những thiên hà quasar;
- Chứng cứ đầu tiên về sự hiện diện của lỗ đen;
- Vị trí chính xác những cơn bão bụi trên Sao Hỏa và thêm chi tiết về bầu khí quyển của hành tinh này;
- Chi tiết sự va đập của sao chổi Shoemaker-Levy 9 vào Sao Mộc;
- Chi tiết những cơn bão rộng hàng ngàn km trên Sao Thiên Vương;
- Xác định và tính toán sự giãn nở của vũ trụ.
- Một số hình ảnh chụp từ Kính thiên văn vũ trụ Hubble:
Liên kết ngoài
- ^ HST Program Office. "Hubble Facts: HST Orbit Decay and Shuttle Re-boost" (.PDF). Goddard Space Flight Center. Truy cập ngày 2009-05-12.
- ^ Amiko Kauderer (26 tháng 3 năm 2009). “Space Shuttle Mission Overview — STS-125: The Final Visit”. NASA. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2009.
- ^ SYNPHOT User's Guide, version 5.0, Space Telescope Science Institute, p. 27
- Kính thiên văn Hubble – NASA
- Camera trên Hubble bị hỏng
- NASA tìm cách cứu Hubble
- Kính thiên văn mặt đất khổng lồ
- Xem bức ảnh vũ trụ sau thẳm
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Kính viễn vọng không gian Hubble |
Thể loại:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment