CNM365 Chào ngày mới 10 tháng 4 Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1609 - Quân đội phiên Satsuma đến đảo lớn Amami, khởi đầu xâm chiếm Vương quốc Lưu Cầu. Năm 1741 – Chiến tranh Kế vị Áo: Quân Phổ đánh bại quân Áo trong Trận Mollwitz diễn ra tại lãnh thổ nay thuộc Ba Lan. Năm 1925 – Tiểu thuyết Đại gia Gatsby được phát hành lần đầu tiên tại New York. Năm 1970 – Ban nhạc The Beatles đưa ra tuyên bố chính thức tan rã. Năm 1972 – Phát hiện các ngôi mộ chứa các thẻ tre (hình) tại Sơn Đông, Trung Quốc, có ghi lại các chương thất truyền của Tôn Tẫn binh pháp và Tôn Tử binh pháp.
Binh pháp Tôn Tử
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Tôn Tử binh pháp)
Binh pháp Tôn Tử | |
---|---|
Tác giả | Tôn Tử |
Quốc gia | Trung Quốc |
Thể loại | Binh pháp |
Bài viết này có chứa các chữ Hán. Nếu không được hỗ trợ hiển thị đúng, bạn có thể sẽ nhìn thấy các ký hiệu chấm hỏi, ô vuông, hoặc ký hiệu lạ khác thay vì chữ Hán. |
Binh pháp Tôn Tử | |||
---|---|---|---|
Phồn thể: | 孫子兵法 | ||
Giản thể: | 孙子兵法 | ||
Bính âm: | Sūnzĭ Bīngfǎ | ||
|
Ngoài ra, Tôn Tử binh pháp cũng được áp dụng trong giới kinh doanh và chiến lược.[4][5]
Mục lục
Lịch sử
- Cuốn "Tôn Tử binh pháp" do Tôn Vũ dâng lên Ngô vương Hạp Lư là cuốn binh pháp hoàn chỉnh, được viết vào năm 512 trước Công nguyên. Theo Sử ký và theo luận bàn về Tôn Tử của Tào Tháo, đều có ghi chép rõ ràng về 13 chương sách của Tôn Vũ. Từ đời nhà Đường, nhà Tống về sau, xuất hiện khá nhiều thuyết lầm lạc đối với cuốn Tôn Tử binh pháp. Bởi vì từ sau đời nhà Tuỳ cuốn binh pháp này đã bị thất truyền. Ở đời nhà Thanh người ta hiểu Tôn Tử binh pháp và Tôn Tẫn binh pháp là cùng một cuốn sách, Tôn Vũ và Tôn Tẫn cũng là một người, thậm chí còn cho rằng chỉ có Tôn Tẫn mà không có Tôn Vũ.
- Năm 1957 khi Quách Hóa Nhược viết về Binh pháp Tôn Tử còn dẫn lời Đỗ Mục cho rằng: Binh pháp Tôn Tử có 82 bài và 9 quyển hình vẽ cộng với cuốn "Ngô Việt Xuân Thu" ghi chép các câu hỏi và trả lời của Tôn Vũ với vua Ngô. Truyền đến đời Tam Quốc, được Tào Tháo chọn lựa, gọt sửa, biên tập và chú thích, bỏ chỗ thừa, chép những phần tinh tuý và xếp thành 13 thiên, tức là cuốn "Tôn Tử" lưu truyền đến ngày nay. Và khẳng định Tào Tháo đã giữ lại những nội dung chủ yếu của "Tôn Tử", đó là một cống hiến không thể lu mờ được[6].
- Tháng 4 năm 1972, hai cuốn sách Tôn Tử binh pháp (Tôn Vũ) và Tôn Tẫn binh pháp đồng thời tìm thấy trong một ngôi mộ cổ từ thời nhà Hán ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Tháng 7 năm 1978, cuốn Tôn Tử binh pháp cũng được tìm thấy trong một ngôi nhà ở Thanh Hải Trung Quốc, những ngộ nhận kéo dài về cuốn Tôn Tử binh pháp bấy giờ mới được làm rõ.[7]
- Từ trước tháng 4 năm 1972, bản Tôn Tử binh pháp được lưu truyền cho là cổ nhất, đó là bản khắc đời Tống. Vào cuối đời nhà Hán đã được Tào Tháo chú giải, sau đó là Mạnh Thị nhà Lương, Lý Thuyên nhà Đường, Đỗ Mục, Trần Hạo, Giả Lâm, Mai Nhiêu Thần nhà Tống, Vương Triết, Hà Diên Tích và Trương Dư. Trong đó bản chú giải của Tào Tháo là có giá trị hơn cả. Đến năm 1957, Thượng tướng Quách Hóa Nhược (Trung Quốc) đã viết lại Tôn Tử binh pháp theo thể văn ngày nay, dựa vào bản khắc đời nhà Tống và có tham khảo bản Tôn Tử trong Tứ bộ tùng san thời Gia Tĩnh nhà Minh. Những bản này có 13 bài (thiên): Bài 1 Kế, bài 2 Tác chiến, bài 3 Công mưu, bài 4 Quân hình, bài 5 Binh thế, bài 6 Hư thực, bài 7 Quân tranh, bài 8 Cửu biến, bài 9 Hành quân, bài 10 Địa hình, bài 11 cửu địa, bài 12 Hoả công, bài 13 Dụng gián. Sau khi dịch Quách Hóa Nhược chia thành 13 bài là: 1 Bàn về chiến tranh, 2 Tiến công chiến, 3 Tốc quyết chiến, 4 Vận động chiến, 5 Chủ động tính, 6 Linh hoạt tính, 7 Địa hình, 8 Sử dụng gián điệp, 9 Phán đoán tình huống, 10 Hoả công, 11 Quản lý giáo dục, 12 Quan hệ chỉ huy, 13 Tu dưỡng của tướng soái, rồi lại chia thành 108 đoạn.
- Từ năm 1972 về sau (khi đã có bản "gốc" Binh pháp Tôn Tử đời Hán) có nhiều hình thức viết về cuốn sách này nhằm giúp cho người đọc dễ hiểu, nhưng vẫn dựa trên nguyên tắc bản dịch của Quách Hóa Nhược, rồi đối chiếu sửa theo bản đời Hán. Bản của Mã Nhất Phu viết theo 13 thiên của Tôn Vũ, mỗi thiên có 3 phần là bản gốc, diễn giải (dựa theo Quách Hóa Nhược) và lời bình. Bản của Đức Thành lại biên tập theo ba mục lớn; 1, Tôn Tử binh pháp dẫn nhập ; 2, Tôn Tử binh pháp ứng dụng; 3, Tôn Tử binh pháp nghiên cứu
- Kể từ bài viết của Tào Tháo đã có đến vài trăm người tham gia. Kể từ thế kỷ 7, Binh pháp Tôn Tử đã vào Nhật Bản do sứ thần đưa về, không lâu truyền đến Triều Tiên, đến thế kỷ 18 truyền vào châu Âu qua các quốc gia Pháp, Anh, Đức mà lan khắp toàn thế giới.[8]
Tóm lược nội dung
Tôn tử binh pháp gồm 13 thiên hay chương, gồm:- Thiên thứ nhất: Kế sách (始計,始计)
- Thiên thứ hai: Tác chiến (作戰,作战)
- Thiên thứ ba: Mưu công (謀攻,谋攻)
- Thiên thứ tư: Hình (軍形,军形)
- Thiên thứ năm: Thế (兵勢,兵势)
- Thiên thứ sáu: Hư thực (虛實,虚实)
- Thiên thứ bảy: Quân tranh (軍爭,军争)
- Thiên thứ tám: Cửu biến (九變,九变)
- Thiên thứ chín: Hành quân (行軍,行军)
- Thiên thứ mười: Địa hình (地形)
- Thiên thứ mười một: Cửu địa (九地)
- Thiên thứ mười hai: Hỏa công (火攻)
- Thiên thứ mười ba: Dùng gián điệp (用間,用间)
Tầm ảnh hưởng
Ảnh hưởng trên lĩnh vực quân sự
Theo nhận định của viên Sĩ quan Thomas Raphael Phillips, không những là binh thư cổ nhất mà Binh pháp Tôn Tử còn là binh thư kinh điển vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.[9] Từ giữa thế kỷ 20, các chuyên gia quân sự phương Tây đã thường xuyên vận dụng tư tưởng Tôn Tử để nghiên cứu các vấn đề quân sự. Trong nhiều tác phẩm nổi tiếng về quân sự, từ Chiến lược luận (Strategy) của Sir Basil Henry Liddell Hart, Đại chiến lược (The Great Strategy) của John M. Collins, cho đến Chỉ huy tác chiến (Game Plan: A Geostrategic Framework For the Conduct of the U.S-Soviet Contest) của Zbigniew Kazimierz Brzezinski, đều có thể nhận ra ảnh hưởng của tư tưởng Tôn Tử. Nhiều quan điểm trong Binh pháp Tôn Tử, như chiến lược thắng lợi trọn vẹn là không cần đánh mà khuất phục được kẻ địch, quan điểm thận trọng đối với chiến tranh (thận chiến) và hạn chế chiến tranh, quan điểm đánh bằng thủ đoạn ngoại giao (phạt giao) chú trọng liên minh chiến lược, càng chứng tỏ giá trị quý báu trong xu thế hoà bình và phát triển hiện nay. Ngoài ra, Tôn Tử còn dạy bài học rằng luôn phải chiếm đóng chỗ hiểm yếu, dễ làm chủ địa hình:[10]“ | Phàm hạ
trại nên ở nơi cao ráo tránh ẩm thấp, ở nơi sáng tránh chỗ tối tăm, ở
nơi gần cỏ và nước có đường vận chuyển quân nhu tiện lợi, tướng sĩ không
bị nhiễm bệnh, đó là đảm bảo cho chiến thắng. Hành quân ở vùng nhiều gò
đống, đê điều, tất phải chiếm phần cao ráo sáng sủa, chủ yếu dựa vào
phía bên phải. Cái lợi của cách dùng binh này là được lợi thế địa hình
hỗ trợ.
Phần thượng lưu mưa lớn tất nước sông sẽ dâng lên, nhất định không được vượt sông, phải chờ khi nước rút. Hành quân qua những vùng như “Thiên giản” là khe suối hiểm trở, “Thiên tỉnh” là nơi vách cao vây bộc, “Thiên lao” là nơi 3 mặt bị vây vào dễ ra khó, “Thiên hãm” là nơi đất thấp lầy lội khó vận động, “Thiên khích” là nơi hẻm núi khe hở. Khi gặp 5 loại địa hình đó tất phải gấp rút chuyển đi, không nên đến gần, để cho địch ở gần nơi đó, ta nên hướng mặt về phía địa hình ấy mà cho địch xoay lưng vào đó. Hành quân qua những nơi mà hai bên sườn có nhiều chỗ hiểm trở, ao hồ đầm lầy, lau sậy um tùm, cây cối rậm rạp tất phải thận trọng dò xét vì đó là những nơi địch dễ có thể mai phục. |
” |
—Tôn Tử
|
Ảnh hưởng ngoài phạm vi Trung Quốc
Binh pháp Tôn Tử được du nhập vào Nhật Bản ngay từ thế kỷ 6, nhưng chưa phải là trọn bộ. Năm 525, Thiên hoàng Keitai đã nói với vị chỉ huy quân đội - Thân vương Arakabi rằng tính mạng của dân chúng và sự tồn tại của Nhà nước lệ thuộc vào một thống soái vĩ đại, đây hẳn là rút ra từ cuốn Tôn Tử[11]. Người có công lớn nhất trong việc đưa Binh pháp Tôn Tử đến Nhật Bản chính là học giả người Nhật Kibi Makibi (Cát Bi Chân Bi, 693-775). Vào năm 716, khi ông được phái đến Trung Quốc để học tập thể chế nhà Đường. Sau 19 năm học tập các loại kinh, sử, học thuyết Trung Hoa, ông đã mang theo rất nhiều sách kinh điển của Trung Quốc về Nhật Bản, trong đó có cả Binh pháp Tôn Tử. Tương truyền, ông dùng Binh pháp Tôn Tử để đào luyện binh sĩ trước năm 760.[11]. Sau khi vào Nhật Bản cuốn sách đã tạo nên một sức ảnh hưởng to lớn, và trở thành lý thuyết chỉ đạo quân sự chủ yếu của Nhật Bản. Trong đó nổi tiếng nhất là học giả Oe no Masafusa (Đại Giang Khuông Phòng). Cuốn Đấu chiến kinh do ông biên soạn được coi là trước tác lý luận quân sự đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản. Tác phẩm này chịu ảnh hưởng sâu sắc của Binh pháp Tôn Tử, là một "kiệt tác bất hủ" dung hoà binh pháp Trung Quốc cổ đại với nền quân sự Nhật Bản.Tại phương Tây Binh pháp Tôn Tử được du nhập đến Pháp đầu tiên. Vào năm 1772, cha đạo Joseph Marie Amiot đã phiên dịch và xuất bản cuốn sách tại Paris với tên gọi Nghệ thuật quân sự Trung Quốc, trong đó có "13 chương binh pháp Tôn Tử", đã gây được tiếng vang lớn.
Bản dịch tiếng Anh đầu tiên của Binh pháp Tôn Tử được xuất bản vào năm 1904. Tại phương Tây, Anh là nước nghiên cứu nhiều nhất về Binh pháp Tôn Tử. Trong số các bản dịch ngoại văn của cuốn sách này, những bản dịch tiếng Anh, do Anh xuất bản cũng có tầm ảnh hưởng rộng nhất.
Năm 1910, Binh pháp Tôn Tử được Bruno Nnavvrra dịch sang tiếng Đức và xuất bản tại Berlin với nhan đề Tác phẩm bàn về chiến tranh của các binh gia cổ điển Trung Quốc. Một Chuyên gia lý luận quân sự nổi tiếng của Đức là Carl von Clausewitz cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Binh pháp Tôn Tử, điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm Bàn về chiến tranh (Von Kriege) của ông.
Việc nghiên cứu Binh pháp Tôn Tử tại Hoa Kỳ diễn ra khá muộn, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt mới bắt đầu. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, khiến cho hình thức và quy luật tác chiến truyền thống đã có sự thay đổi to lớn. Hệ thống lý luận quân sự truyền thống của châu Âu trở nên lỗi thời, thế nhưng Binh pháp Tôn Tử với nội hàm triết lý quân sự uyên thâm, đã thu hút sự chú ý của các chuyên gia chiến lược phương tây, giúp họ tìm ra đáp án để giải quyết các vấn đề thực tế. Sở trưởng sở nghiên cứu chiến lược thuộc đại học quốc phòng Hoa Kỳ là John Collins trong tác phẩm Đại chiến lược: nguyên tắc và thực tiễn (Grand Strategy Principles and Practices) xuất bản năm 1973 đã viết như sau: Tôn Tử là một nhân vật vĩ đại đã tạo lập nên hệ tư tưởng chiến lược đầu tiên của thời cổ đại... Cho đến tận ngày nay, vẫn không ai có được trình độ nhận thức sâu sắc đến thế về các mối quan hệ tương tác, các vấn đề cần nghiên cứu và những nhân tố ràng buộc đối với chiến lược. Phần lớn các quan điểm của ông vẫn giữ trọn vẹn giá trị trong thời đại ngày nay[12].
Ảnh hưởng đối với các lĩnh vực khác
Ngay từ thời Chiến Quốc Bạch Khuê đã ứng dụng tư tưởng của Tôn Tử vào lĩnh vực kinh doanh và đạt được nhiều thành tựu lớn. Sang thời Bắc Tống, xuất hiện một tác phẩm lý luận về nghệ thuật Cờ vây Kỳ kinh thập tam thiên (Mười ba chương kinh điển đánh cờ), mô phỏng theo 13 chương của Binh pháp Tôn Tử. Từ nửa sau thế kỷ 20 trở lại đây, xu thế ứng dụng Binh pháp Tôn Tử trong những lĩnh vực phi quân sự càng trở nên sôi nổi. Trong những năm 50 của thế kỷ trước, tại Nhật Bản đã xuất hiện học phái quản lý kinh doanh theo binh pháp, và nhanh chóng gây ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới, hình thành một trào lưu nghiên cứu Binh pháp Tôn Tử trong lĩnh vực kinh tế. Ngoài ra Binh pháp Tôn Tử còn được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nữa, như triết học, y học, thể dục thể thao, khoa học hệ thống, lý thuyết quyết định, tâm lý học, ngôn ngữ học, toán học, dự trù học, quản trị hành vi, và đều có được thành quả to lớn [13]Ứng dụng trong kinh doanh
Những thương nhân nổi tiếng thời Tiên Tần là Đào Chu Công (Phạm Lãi), Bạch Khuê đã biết ứng dụng thành công Binh pháp Tôn Tử vào quản lý kinh doanh.Bước vào xã hội hiện đại, nhiều nước tư bản phát triển không hẹn mà cùng có ý tưởng vận dụng Binh pháp Tôn Tử để cải thiện vấn đề quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, giữa thế kỷ 20 tại Nhật Bản thậm chí còn hình thành một học phái kinh doanh bằng binh pháp, với sức ảnh hưởng lan toả khắp thế giới, hình thành cơn sốt nghiên cứu Binh pháp Tôn Tử trong lĩnh vực kinh tế. Nhiều công ty lớn thậm chí còn trực tiếp sử dụng Binh pháp Tôn Tử làm giáo trình huấn luyện dành cho các nhân viên quản lý bậc trung trở lên. Theo Thời báo kinh tế thế giới ra ngày 24-1-1983, một phái đoàn quản lý doanh nghiệp Trung Quốc đi thăm Nhật Bản để tham khảo kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, đã được cán bộ phía Nhật Bản giải thích như sau: Kinh nghiệm quản lý của chúng tôi đều xuất phát từ đất nước Trung Quốc của các anh, và tặng cho phái đoàn Trung Quốc một cuốn sách, thật bất ngờ, đó chính là Binh pháp Tôn Tử[14]
Hoa Kỳ cũng đã đem Binh pháp Tôn Tử ứng dụng rộng rãi vào lĩnh vực quản lý kinh tế. Claude S. Gorge trong tác phẩm Lịch sử tư tưởng quản lý (The History of Managerial Thoughts) xuất bản năm 1972, đã nhận xét về giá trị to lớn của lý thuyết dùng người trong Binh pháp Tôn Tử đối với vấn đề quản lý doanh nghiệp hiện đại. Ông viết rằng: Nếu muốn trở thành nhân tài về quản lý, bạn nhất định phải đọc Binh pháp Tôn Tử. Vào năm 1979, D. A. Holway trong tác phẩm Lịch sử phát triển của tư tưởng quản lý cũng hết sức ca ngợi những tư tưởng quản lý kinh tế hàm ẩn trong Binh pháp Tôn Tử, và nhận xét rằng phương pháp phân chia cấp bậc quân đội, đẳng cấp tướng lĩnh trong quản lý quân sự, cách sử dụng thanh la, cờ xí, lửa hiệu để chuyền tin tức chứng tỏ Tôn Tử đã biết cách xử lý tốt các mối quan hệ giữa tham mưu và lãnh đạo trực tiếp, và cho rằng lý luận tổ chức kiểu mẫu cho quản lý doanh nghiệp hiện đại.[14]
Trong chương Kế của Binh pháp Tôn Tử có viết. Tướng lĩnh phải có các đức tính (mưu trí), (uy tín), (nhân từ), (dũng cảm), (nghiêm minh). Đặt trong thương trường hiện đại, quan điểm này vẫn giữ nguyên ý nghĩa chỉ đạo phổ biến của nó, chỉ có điều chiến trường giờ đã đổi sang thương trường, tướng lĩnh của thương trường chính là các doanh nhân. Và một doanh nhân cũng phải biết về tình hình thương trường của mình, như binh pháp Tôn Tử có viết:[15]
“ | Chưa biết ý đồ chiến lược của các chư hầu, không thể tính việc kết giao ; chưa thông địa hình sông núi, đầm hồ, không thể hành quân ; không dùng người dẫn đường không thể chiếm địa lợi. Dùng binh đánh trận phải dựa vào biến hóa gian trá mới mong thành công, phải căn cứ vào chỗ có lợi hay không mà hành động, tùy sự phân tán hay tập trung binh lực mà thay đổi chiến thuật. Quân đội hành động thần tốc thì nhanh như gió cuốn, hành động chậm rãi thì lừng khừng như rừng rậm, khi tấn công thì như lửa cháy, khi phòng thủ thì như núi đá, khi ẩn mình thì như bóng tối, khi xung phong thì như sấm sét. Chiếm được làng xã phải phân binh đoạt lấy, mở rộng lãnh thổ, phải phân binh trấn giữ ; cân nhắc lợi hại được mất rồi mới tùy cơ hành động. Trước hết phải rõ phương pháp biến cong thành thẳng để giành thắng lợi, ấy là nguyên tắc hành quân. | ” |
—Tôn Tử
|
Đánh giá
Mười ba chương sách của cuốn Tôn Tử gồm hơn 7.000 chữ, quán xuyến tư tưởng và phương pháp của duy vật luận đơn thuần và biện chính pháp nguyên thuỷ, nêu lên được mối quan hệ phức tạp của chiến tranh với chính trị, ngoại giao, kinh tế, hoàn cảnh tự nhiên, cùng là tác dụng tương hỗ giữa năng động chủ quan của người dụng binh với quy luật khách quan, điều kiện hiện thực, đề cập một cách toàn diện quy luật phổ biến của chiến tranh và nguyên tắc trọng yếu của chỉ đạo chiến tranh.Binh pháp Tôn Tử là binh thư sớm nhất, vĩ đại nhất thời cổ ở Trung Quốc, mà từ xưa đến nay được xếp hàng đầu trong bảy tập võ kinh. Người Nhật suy tôn Tôn Vũ là thuỷ tổ của binh học phương đông là thánh điển binh học và là binh thư thời cổ bậc nhất thế giới. Thiên hoàng Minh Trị cũng đã được nghe giảng dạy về Binh pháp Tôn Tử.[16] Binh pháp của Tôn Vũ được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, ở châu Âu cũng rất được tôn sùng. Trong các cuộc chiến tranh liên miên, Hoàng đế Napoléon Bonaparte cũng thường đọc Tôn Tử binh pháp. Không những thế, Hoàng đế (Kaiser) Wilhelm II của Đức, người đã gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, sau khi thất bại được đọc binh pháp Tôn Tử liền than rằng:
- "Tiếc thay 20 năm trước đây Trẫm không được xem cuốn sách này" [17]
- "Lúc nhanh thì như gió cuốn, lúc chậm rãi như rừng sâu, lúc tấn công như lửa cháy, lúc phòng ngự như núi đá"[21].
Lời tựa do nhóm biên dịch cuốn Truyện Tôn Tử của Tào Nghiêu Đức có đoạn viết: Trước tác "Binh pháp Tôn Tử" là bộ binh pháp kinh điển hàng đầu thế giới, được danh tướng các thời đại đề cao, nức tiếng xưa nay. Tác dụng và giá trị của nó, không chỉ hạn hẹp trong phạm vi quân sự, mà các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hoá, kinh tế, đều chịu ảnh hưởng sâu sắc.[24]
Một tuyệt tác quân sự kinh điển ở châu Âu sánh vai với binh pháp Tôn Tư là "Những quân lệnh của Friedrich Đại Đế giành cho binh tướng của mình" do chính vị vua - chiến binh vĩ đại Friedrich II của Phổ (Friedrich Đại đế) viết nên (1747). Các nhà nghiên cứu cho rằng kiệt tác này có nhiều tư tưởng giống với binh pháp Tôn Tử.[25][26][27] Tỷ như trong khi Tôn Tử viết: "Biết người biết ta, trăm trận không nguy; không biết người mà chỉ biết ta, một trận thắng một trận thua; không biết người, không biết ta, mọi trận đều bại." Thì Friedrich Đại Đế cũng có viết: "Một người phải biết về các kẻ thù của mình, các liên minh của chúng, bản chất và tài nguyên của nước chúng để mà còn tiến quân. Một người phải biết kiếm bạn hữu, biết tài nguyên của mình, và phải biết nhận thấy những hiệu quả tương lai mà người này mong muốn hoặc lo sợ từ những thủ đoạn chính trị".[28] Mã Nhất Phu đánh giá về binh pháp Tôn Tử như sau: Ảnh hưởng của cuốn Tôn Tử không chỉ giới hạn ở lĩnh vực quân sự. "Tôn Tử" là phương lược trị quốc của chính trị gia, là tấm gương soi của nhà triết học, là pháp bảo của nhà ngoại giao, là báu vật ở trong con mắt của văn học gia; trong cuộc thương chiến kịch liệt hiện nay, đó cũng là sách giáo khoa chiến lược của những nhà kinh doanh. Vị thần kinh doanh Tùng Hạ của Nhật Bản cũng cho rằng, cuốn Tôn Tử là pháp bảo thành công của ông ta [29]
Binh pháp Tôn Tử được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, hấp dẫn được sự chú ý nghiên cứu của nhiều nhân sĩ, cuối cùng đã gây thành một sức nóng Tôn Tử mang tính toàn cầu.
Hạn chế
Do hạn chế của hiện thực khách quan và mức độ nhận thức đương thời, cuốn Tôn Tử không thể tránh khỏi những chỗ thiên lệch hoặc lầm lẫn, như xem nhẹ vai trò binh sĩ, chỉ chú trọng được lợi mà không để ý đến chính nghĩa hay là không chính nghĩa như: cướp bóc thôn xóm, giành lấy nhân lực của nước địch; mở rộng lãnh thổ, giành lấy của cải nước địch. Cần chú ý xem lại những phần đó.Trên thực tế, những việc như trên là điều không thể nào tránh khỏi. Trong giao tranh, điều quan trong trọng nhất mà một tướng lĩnh phải đặt lên hàng đầu chính là kết quả của trận chiến, chỉ cần thắng lợi thì những điều khác đều không còn ý nghĩa ví dụ: nếu như không tấn công các thôn làng sẽ không thể duy trì lực lượng chiến đấu cho quân sĩ, không thể ép quân địch tự chui ra vào kế. Hoặc nếu như chỉ quan tâm đến số người có thể bị mất thì không thể nào có thể chiến thắng.
Trích dẫn
Có người nói rằng, phép biện chứng của Tôn Vũ chỉ khuôn trong lĩnh vực quân sự học, phạm vi nhỏ hẹp. Nhận định như vậy là thiên lệch, bất cứ loại tư tưởng nào, chỉ cần nó giàu tính triết học, vô luận nhìn từ góc độ nào, đều có ý nghĩa chỉ đạo phổ biến. Nhiều vấn đề trong 13 thiên Binh pháp như:- Tấn công địch khi nó không đề phòng, tác chiến một cách bất ngờ
- Tự bảo vệ mình để giành thắng lợi
- Tránh chỗ thực đánh vào chỗ hư
- Giành thắng lợi theo tình hình của địch
- Ra lệnh thì dùng văn, trị an thì dùng võ
- …
- 故曰:知彼知己,百戰不殆;不知彼而知己,一勝一負;不知彼,不知己,每戰必敗 ("tri bỉ tri kỷ, bách chiến bất đãi; bất tri bỉ nhi tri kỷ, nhất thắng nhất phụ; bất tri bỉ, bất tri kỷ, mỗi chiến tất bại")
- Biết người biết ta, trăm trận không nguy; không biết người mà chỉ biết ta, một trận thắng một trận thua; không biết người, không biết ta, mọi trận đều bại.
- "Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng" ("Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng")
Tham khảo
- Quách Hóa Nhược, Binh pháp Tôn Tử, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 1964
- Tào Nghiêu Đức, Truyện Tôn Tử, NXB Hà Nội, 2001
- Mã Nhất Phu, Binh pháp Tôn Tử, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội 2005
- Đức Thành, Binh pháp Tôn Tử, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội 2006
- HĐ Group biên dịch, Binh pháp Tôn Tử, NXB Hà Nội, 2009
Đọc thêm
Chú thích
- ^ Thomas Raphael Phillips, Roots of strategy: the 5 greatest military classics of all time, trang 9
- ^ Thomas Raphael Phillips, Roots of strategy: the 5 greatest military classics of all time, Bìa sau
- ^ HĐ Group. sđd. bìa 4
- ^ 'Art of War for Business Management Strategic Planning'
- ^ Floyd, Raymond E. http://www.allbusiness.com/management/benchmarking-strategic-planning/338250-1.html
- ^ Quách Hóa Nhược. sđd. trang 15
- ^ Mã Nhất Phu. sđd. trang 8-9
- ^ Mã Nhất Phu. sđd. trang 10
- ^ Thomas Raphael Phillips, Roots of strategy: the 5 greatest military classics of all time, trang 5
- ^ Gerald A. Michaelson, Sun Tzu, Sun tzu: the art of war for managers : 50 strategic rules, Adams Media, 2001. ISBN 1-58062-459-6.
- ^ a b Samuel B. Griffith, Sun Tzu: The Art of War, trang 169
- ^ a b HĐ Group. sđd. trang 44
- ^ HĐ Group. sđd. trang 15
- ^ a b HĐ Group. sđd. trang 40
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênMichaelsonSteven28
- ^ Donald Keene, Emperor of Japan: Meiji and his world, 1852-1912 trang 146
- ^ Quách Hóa Nhược. sđd. trang 14
- ^ Griffith, p. 50 ISBN 0-19-501476-6
- ^ [1] Interview with Dr. William Duiker
- ^ [2] Learning from Sun Tzu, Military Review, May–June 2003
- ^ HĐ Group. sđd. trang 42
- ^ Mã Nhất Phu. sđd. trang 5
- ^ Quách Hóa Nhược. sđd. trang 4-5
- ^ Tào Nghiêu Đức. sđd. trang 5
- ^ Thomas Raphael Phillips, Roots of strategy: the 5 greatest military classics of all time, trang 301
- ^ Charles Edward Kirkpatrick, An unknown future and a doubtful present: writing the victory plan of 1941, trang 24
- ^ Charles M. Westenhoff, AIR UNIV PRESS MAXWELL AFB AL, Military air power : the CADRE digest of air power opinions and thoughts
- ^ Milan N. Vego, Joint Operational Warfare Theory and Practice and V. 2, Historical Companion, trang 163
- ^ Mã Nhất Phu. sđd. trang 11
- ^ Tào Nghiêu Đức. sđd. trang 10
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Binh pháp Tôn Tử |
- Binh pháp Tôn Tử prc
- Tôn tử và nghệ thuật thương mại - do Mark McNeilly
- Tôn tử - nghệ thuật quân sự cho nhân viên quản lý - 50 luật chiến thuật
- Việt báo-Binh pháp Tôn Tử
- China ABC----Binh pháp Tôn Tử
Thể loại:
Tôn Vũ (545 TCN - 470 TCN) Trung văn giản thể: 孙武; phồn thể: 孫武; bính âm: Sūn Wǔ tên chữ là Trưởng Khanh, người Lạc An nước Tề (nay là Huệ Dân - Sơn Đông - TQ), ở cuối thời Xuân Thu, năm sinh năm mất đều không xác định được, nhờ cuốn binh thư của mình mà được tôn là Tôn Tử, lại bởi hoạt động chủ yếu ở nước Ngô, nên được gọi là Ngô Tôn Tử để phân biệt với Tôn Tẫn (Tề Tôn Tử là người nước Tề ở thời Chiến Quốc)
Hồi đó các cuộc đấu đá tranh giành quyền lực cũng tàn khốc khác thường. Tôn Vũ phải mang gia đình chạy đến ẩn cư ở ngoại thành Cô Tô là kinh đô của nước Ngô (nay là Tô Châu).[2]
Tôn Vũ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tôn Vũ | |
---|---|
Tượng Tôn Vũ tại Yurihama, Tottori, Nhật Bản |
|
Công việc | Tướng |
Dân tộc | Trung Quốc |
Giai đoạn sáng tác | Cuối thời Xuân Thu |
Chủ đề | Chiến thuật quân sự |
Tác phẩm nổi bật | Binh pháp Tôn Tử |
Mục lục
Nguồn gốc
Vua Thuấn chính là thủy tổ của Tôn Vũ. Vào thời Tây Chu, hậu duệ của vua Thuấn là Hồ Công (vốn họ Quy) được phong tước hầu ở nước Trần. Năm 671 TCN Trần Hiến tức Công tử Hoàn của nước Trần Bởi tránh nội loạn dẫn mọi người trong nhà lưu vong sang nước Tề, đổi tên là Điền Hoàn. Điền Thư là cháu đời thứ năm của Điền Hoàn, bởi họ điền có nhiều chiến công nên được Tề vương phong đất ở Lạc An (tức Huệ Dân - Sơn Đông ngày nay), cho đổi họ Tôn. Điền Thư sinh ra Điền Bằng (còn gọi là Tôn Phùng), khi đó họ Điền Tôn là một trong bốn họ quý tộc lớn của nước Tề. Điền Bằng lấy con gái của họ Phạm cũng là một họ quý tộc của nước Tề sinh ra Tôn Vũ.[1][2][3]Hồi đó các cuộc đấu đá tranh giành quyền lực cũng tàn khốc khác thường. Tôn Vũ phải mang gia đình chạy đến ẩn cư ở ngoại thành Cô Tô là kinh đô của nước Ngô (nay là Tô Châu).[2]
Tiểu sử
Tôn Vũ tên chữ là Trưởng Khanh, ông sinh vào khoảng 100 năm sau khi Tề Hoàn Công qua đời và sinh sau Khổng Tử ít lâu, vào khoảng trước hoặc sau năm 540 TCN [4], nhưng theo Tào Nghiêu Đức thì cụ thể ông sinh năm 545 TCN, tức năm Chu Linh Vương thứ 27, Tề Cảnh Công năm thứ 3 ngày 28 tháng 8, ở Lạc An nước Tề.[5] Vì nội loạn nên gia đình phải chạy đến La Phù Sơn ở ngoại thành Cô Tô là kinh đô của nước Ngô, cầy cấy dệt cửi để sinh sống, ông để tâm nghiên cứu binh pháp. Thời gian này Tôn Vũ với Ngũ Tử Tư (là trọng thần của nước Ngô) Kết thành mối quan hệ gắn bó. Ngũ Tử Tư liền tiến cử Tôn Vũ với Ngô vương. Tôn Vũ dâng 13 chương binh pháp lên Ngô vương là Hạp Lư, được Ngô vương rất tán thưởng, Tôn Vũ dùng ngay các cung nữ để diễn tập binh pháp, chém mỹ nhân để thị uy, khiến Ngô vương rất nể vì, lệnh cho làm thượng tướng quân, rồi phong làm quân sư. Tôn vũ sau đó cùng với Ngũ Tử Tư trợ giúp Ngô vương cải cách chính sự, tăng cường quốc lực.[6] Tư Mã Thiên viết trong Sử Ký: Hạp Lư biết Tôn Tử có tài dùng binh và cho Tôn Tử làm tướng. Phía tây quân Ngô phá nước Sở mạnh, đi vào đất Sính; phía bắc uy hiếp nước Tề, nước Tấn, nổi tiếng ở chư hầu, Tôn Tử có công ở đấy.[7] Tuy nhiên có mấy vấn đề luôn gây ra sự tranh cãi kịch liệt từ trước đến nay; Tôn Vũ sinh vào năm nào, rốt cuộc Tôn Vũ đã thân chinh chỉ huy bao nhiêu trận đánh. Vừa qua giới nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc khi đã nghiên cứu, đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ các sử liệu: Ngô Việt Xuân Thu, Việt sắc thư, Tả truyện, Sử ký... đã đưa ra kết luận: Trong sự nghiệp quân dịch của mình, Tôn Vũ trực tiếp chỉ huy năm trận đánh và chính năm trận chiến "để đời" này đã góp phần đưa tên tuổi của ông bất hủ cùng thời gian [8]Lần chỉ huy thứ nhất
Tháng 12 năm 512 TCN, khi đó Ngô vương là Hạp Lư ra lệnh cho Tôn Vũ chỉ huy quân tiêu diệt hai nước nhỏ là nước Chung Ngô và nước Từ. Trong lần cầm quân đầu tiên này, Tôn Vũ đã xuất sắc hạ gọn hai nước trên đồng thời thừa thắng chiếm được đất Thư thuộc nước Sở, lập công lớn được Ngô vương ban thưởng.Lần chỉ huy thứ hai
Năm 511 TCN, Tôn Vũ lại thống lĩnh ba quân cùng Ngũ Tử Tư, Bá Hi đi chinh phạt nước Sở bởi lý do "Sở vương từ chối không chịu trao thanh bảo kiếm Trạm Lư cho Hạp Lư". Dưới quyền chỉ huy của Tôn Vũ quân Ngô đánh hai trận thắng cả hai, chiếm được hai sứ Lục và Tiềm thuộc đất Sở.Lần chỉ huy thứ ba
Năm 510 TCN, lúc này giữa nước Ngô và nước Việt lần đầu tiên xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn mà sử sách còn ghi lại đó là cuộc "Đại chiến Huề - Lý". Trong cuộc chiến này lần đầu tiên Tôn Vũ đưa ra cách dụng binh Quý hồ tinh bất quý hồ đa trong đánh trận, do vậy chỉ với ba vạn quân với phép dụng binh tài tình của mình, Tôn Vũ đã đánh bại 16 vạn quân nước Việt.Lần chỉ huy thứ tư
Năm 509 TCN xảy ra cuộc Đại chiến Dự Chương giữa nước Ngô và nước Sở. Khi đó vua Sở sai con trai là công tử Tử Thường và công tử Tử Phàm dẫn đại quân tiến đánh nước Ngô, nhằm báo thù nỗi nhục mất đất năm xưa. Một lần nữa Ngô vương Hạp Lư lại giao cho Tôn Vũ cầm quân chống giặc. Lần này Tôn Vũ khôn khéo vòng tránh đội quân chủ lực của công tử Tử Thường; dùng lối đánh vu hồi tập kích doanh trại bắt sống công tử Tử Phàm, quân Sở từ thế mạnh, chuyển sang yếu cầm cự chưa đầy một tháng phải rút chạy về nước.Lần chỉ huy thứ năm
Hai nước Ngô - Sở một lần nữa xảy ra chiến tranh vào ngày 18 tháng 11 năm 506 TCN sử sách gọi đây là cuộc chiến Bách Cử. Đây là cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử hai nước. Lần này quân Sở huy động 25 vạn quân tiến đánh nước Ngô, khí thế báo thù rất sôi sục. Theo kế của Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư vua Ngô bí mật liên kết với hai nước nhỏ là Đường và Thái làm thành liên minh chống Sở. Khi tác chiến, Tôn Vũ triệt để lợi dụng địa hình thuận lợi của hai nước "đồng Minh" để triển khai chiến thuật "Khống chế chính diện", "Tập kích vu hồi mạn sườn" của mình. Sau năm lần giao chiến với quân Sở, Tôn Vũ đều giành thắng lợi. Cuối cùng 3 vạn quân Ngô đã phá tan 25 vạn quân Sở buộc Sở vương phải tháo chạy.[9][10]- Với năm trận đánh "để đời" này, uy danh và tài thao lược quân sự của Tôn Vũ lừng lẫy khắp thiên hạ. Nhưng sau khi lập được công lao ông không muốn làm quan, cố tình về núi làm dân thường, mai danh ẩn tích, không biết cuối cùng ra sao nữa. Cuốn sách Việt tuyệt thư nói rằng: ở mười dặm ngoài thành Cô Tô có mộ Tôn Vũ, thực giả ra sao cũng khó xác định.
Chú thích
- ^ HDD Group, binh pháp Tôn Tử, NXB Hà Nội, trang 62
- ^ a b Mã Nhất Phu, Binh Pháp Tôn Tử, NXB Văn hoá thông tin, 2005, trang 6
- ^ Tào Nghiêu Đức, trang 26
- ^ HĐ Group, trang 62
- ^ Tào Nghiêu Đức, Truyện Tôn Tử, NXB Hà Nội, 2001, trang 26
- ^ Đức Thành, Binh pháp Tôn Tử, NXB Văn hoá thông tin, 2006, trang 608
- ^ Tư Mã Thiên, Sử ký, NXB Văn học, 1971, trang 321
- ^ Đức Thành SĐD, trang 608
- ^ Đức Thành, SĐD, trang 610
- ^ Trong Mã Nhất Phu, SĐD, trang 9 nói quân Sở có 20 vạn
Đọc thêm
- Mười nguyên lý trong Tôn Tử Binh Pháp ứng dụng vào cuộc sống. DDH. Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1996.
- Tôn Ngô Binh pháp. Lê Xuân Mai. Nhà xuất bản Thanh Hoá, 1996.
- Tôn Tử, thiên tài quân sự. Trương Diên Hồng. Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1999.
- Tôn Tẫn binh pháp
- Tôn Tử binh pháp
- Tam thập lục kế
- Tôn Tẫn
- Ngũ Tử Tư
Liên kết ngoài
- Phương tiện liên quan tới Sunzi tại Wikimedia Commons
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Tôn Vũ |
Binh pháp Tôn Tẫn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Tôn Tẫn binh pháp)
Tề Tôn Tẫn binh pháp còn gọi là Tôn Tẫn binh pháp là sách binh pháp do Tôn Tẫn một danh tướng Trung Quốc thời xưa viết. Tôn Tẫn binh pháp đôi khi còn gọi là Tôn tử binh pháp nhưng không phải là Tôn Tử binh pháp (do Tôn Tử viết). (Ở đây Tôn nghĩa là họ Tôn, còn tử (子) nghĩa là bậc thầy như tử trong Khổng Tử, Mạnh Tử).
Lịch sử
Sau khi giúp nước Tề (Nước Tề thời Xuân Thu - chiến quốc nay là tỉnh Sơn Đông) Tôn Tẫn sống ẩn dật, sách bị thất truyền lâu nên người đời có nhiều tranh cãi. Năm 1972 tại núi Ngân Tước - Sơn Đông, người ta khai quật được một số tài liệu lục thao, binh pháp Tôn tử..., nhưng bị hư hại gần hết, Tôn Tẫn binh pháp đáng ra có 89 thiên thì chỉ còn 30 thiên đọc được, tổng cộng bộ binh thư này có hơn 2000 chữ. Tôn Tẫn viết dạy cho binh lính, tướng sĩ tề quốc. Bộ binh pháp này kế thừa, phát triển Tôn Tử binh pháp nhưng nó tiến bộ hơn. Bộ Tôn Tẫn binh pháp và Tôn Tử binh pháp tập họp lại thành Tôn gia chỉ đạo. Tôn Tử binh pháp có 18 thiên còn chúng ta chỉ biết 13 thiên. Tư Mã Thiên dựa vào 5 thiên cuối để viết về tôn tử trong "Sử kí".Xem thêm
Tham khảo
- Tôn tử binh pháp Tào Tháo mười nhà chú giải
- Chu Dịch với binh pháp
- Tôn Tẫn truyện
- Khương Thái Công binh pháp
Thể loại:
Bài này viết về một tiểu thuyết, về một bộ phim chuyển thể từ tác phẩm này xin xem The Great Gatsby (phim năm 2012)
Đại gia Gatsby hay Gatsby vĩ đại (nhan đề gốc tiếng Anh: The Great Gatsby) là một kiệt tác của nhà văn F. Scott Fitzgerald người Mỹ, được xuất bản lần đầu vào 10 tháng 4, 1925. Tác phẩm được đặt trong bối cảnh của vùng Long Island ở Mỹ trong mùa hè năm 1922.
Tiểu thuyết này viết về thời kỳ sống của chính tác giả. Sau cú sốc và hỗn loạn của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Mỹ bước vào thời kỳ thịnh vượng chưa từng thấy trong những năm 1920 do sự cất cánh của nền kinh tế. Cũng trong thời gian này, Luật cấm buôn bán và sản xuất rượu được ban hành, làm tăng lên các tội phạm có tổ chức. Mặc dù Fitzgerald, giống như Nick Carraway trong tác phẩm của mình, tôn sùng sự giàu có, nhưng ông không thấy thoải mái với xã hội coi trọng vật chất quá mức và đạo đức lại không đi cùng với nó.
Đại gia Gatsby không được ngưỡng mộ trong lần xuất bản đầu tiên, chỉ bán được ít hơn 25.000 cuốn trong suốt 15 năm khi Fitzgerald còn sống.
Mặc dù nó đã được chỉnh sửa thành kịch và đưa lên phim ảnh của Hollywood trong năm 1925, nhưng nó hầu như bị lãng quên trong thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới lần II. Sau đó, tác phẩm được xuất bản lại vào năm 1945 và năm 1953, lần này tác phẩm nhanh chóng có được số lượng độc giả rộng rãi. Hiện nay nó được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của người Mỹ.
Năm 2007, trong một cuộc bầu chọn 10 tác phẩm vĩ đại nhất của mọi thời đại do tạp chí Time tổ chức khảo sát lấy ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời, gồm các tên tuổi lớn như Franzen, Mailer, Wallace, Wolfe, Chabon, Lethem, King, Đại gia Gatsby được chọn vào top 10 kiệt tác văn chương vĩ đại nhất mọi thời đại.[1]. Kiệt tác này cũng được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học phổ thông và các khóa giảng về Văn học Mỹ tại các trường đại học ở nhiều nước trên thế giới.
Tôn Tẫn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tôn Tẫn (孫臏, khoảng thế kỷ 4 TCN), người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử, cùng với Bàng Quyên là học trò môn binh pháp của Quỷ Cốc Tử (ngoài Tẫn và Quyên, học trò Quỷ Cốc Tử Vương Hủ còn có Tô Tần và Trương Nghi học môn du thuyết).
Bàng Quyên là bạn học với Tôn Tẫn, vì ham công danh phú quý nên xin Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi trước để tìm công danh. Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, vì ghen ghét tài học của Tôn Tẫn đã mượn pháp luật mà trị tội chặt 2 chân, chạm vào mặt để Tẫn phải giấu mình không lộ diện. Sứ giả nước Tề đến đất Lương (Ngụy), Tôn Tẫn lén gặp thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm Tôn Tẫn lên xe về Tề. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài, tâu với Tề Uy Vương phong Tẫn làm thầy, cùng với Kỵ đem quân đánh Nguỵ. Tẫn ngồi trong xe kín, bày mưu kế cho Kỵ đánh Nguỵ phải kiệt quệ.
Mười ba năm sau, Nguỵ và Triệu đánh Hàn. Hàn cáo cấp với Tề, Tề lại sai Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư đi cứu Hàn. Tôn Tẫn dùng kế "vây Ngụy cứu Triệu" khiến cho tướng Ngụy là Bàng Quyên nghe vậy phải rời bỏ Hàn quay về. Tẫn lại dùng kế giảm số bếp trong quân lừa Bàng Quyên đuổi theo, rồi sau đó sai quân cung nỏ mai phục hai bên đường Mã Lăng, lấy một khúc gỗ to cạo sạch vỏ, lấy than khắc lên dòng chữ: "Bàng Quyên sẽ chết dưới cây này". Sau đó dặn quân lính hễ thấy ánh lửa nổi lên là bắn thẳng vào chỗ đó. Bàng Quyên đuổi đến nơi, thấy có chữ bèn sai quân thắp đuốc lên để đọc. Quyên đọc xong, thất kinh vội sai quân rút nhưng đã muộn. Quân Tề mai phục thấy ánh lửa đốt lên vội bắn như mưa về phía đó. Bàng Quyên bị tên bắn ngã ngựa, sợ bị quân Tề làm nhục vội rút gươm tự tử".
Chiến thuật mai phục của Tôn Tẫn ở Mã Lăng có thể coi là ví dụ nổi tiếng nhất của câu nói "Dĩ lợi động chi, dĩ tốt đãi chi" (以利動之,以卒待之, dùng lợi mà dụ địch tiến, trọng binh mai phục quân thù) trong sách Binh pháp Tôn Tử. Hai kế Vây Ngụy cứu Triệu và rút bếp của Tôn Tẫn sau này cũng trở nên nổi tiếng, Gia Cát Lượng từng sử dụng một biến thể của kế rút bếp là kế thêm bếp để ngăn quân Tư Mã Ý đuổi theo.
Bàng Quyên là bạn học với Tôn Tẫn, vì ham công danh phú quý nên xin Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi trước để tìm công danh. Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, vì ghen ghét tài học của Tôn Tẫn đã mượn pháp luật mà trị tội chặt 2 chân, chạm vào mặt để Tẫn phải giấu mình không lộ diện. Sứ giả nước Tề đến đất Lương (Ngụy), Tôn Tẫn lén gặp thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm Tôn Tẫn lên xe về Tề. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài, tâu với Tề Uy Vương phong Tẫn làm thầy, cùng với Kỵ đem quân đánh Nguỵ. Tẫn ngồi trong xe kín, bày mưu kế cho Kỵ đánh Nguỵ phải kiệt quệ.
Mười ba năm sau, Nguỵ và Triệu đánh Hàn. Hàn cáo cấp với Tề, Tề lại sai Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư đi cứu Hàn. Tôn Tẫn dùng kế "vây Ngụy cứu Triệu" khiến cho tướng Ngụy là Bàng Quyên nghe vậy phải rời bỏ Hàn quay về. Tẫn lại dùng kế giảm số bếp trong quân lừa Bàng Quyên đuổi theo, rồi sau đó sai quân cung nỏ mai phục hai bên đường Mã Lăng, lấy một khúc gỗ to cạo sạch vỏ, lấy than khắc lên dòng chữ: "Bàng Quyên sẽ chết dưới cây này". Sau đó dặn quân lính hễ thấy ánh lửa nổi lên là bắn thẳng vào chỗ đó. Bàng Quyên đuổi đến nơi, thấy có chữ bèn sai quân thắp đuốc lên để đọc. Quyên đọc xong, thất kinh vội sai quân rút nhưng đã muộn. Quân Tề mai phục thấy ánh lửa đốt lên vội bắn như mưa về phía đó. Bàng Quyên bị tên bắn ngã ngựa, sợ bị quân Tề làm nhục vội rút gươm tự tử".
Chiến thuật mai phục của Tôn Tẫn ở Mã Lăng có thể coi là ví dụ nổi tiếng nhất của câu nói "Dĩ lợi động chi, dĩ tốt đãi chi" (以利動之,以卒待之, dùng lợi mà dụ địch tiến, trọng binh mai phục quân thù) trong sách Binh pháp Tôn Tử. Hai kế Vây Ngụy cứu Triệu và rút bếp của Tôn Tẫn sau này cũng trở nên nổi tiếng, Gia Cát Lượng từng sử dụng một biến thể của kế rút bếp là kế thêm bếp để ngăn quân Tư Mã Ý đuổi theo.
Xem thêm
Liên kết ngoài
Đại gia Gatsby
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đại gia Gatsby | |
---|---|
Bìa bản dịch tiếng Việt năm 2009, nhan đề Đại gia Gatsby |
|
Tác giả | F. Scott Fitzgerald |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Thể loại | Tiểu thuyết |
Nhà xuất bản | Charles Scribner's Sons |
Ngày phát hành | 10 tháng 4, 1925 |
Kiểu sách | Sách in (Sách bìa cứng & Sách bìa mềm) |
Số trang | 180 (Bản bìa mềm 2004) |
ISBN | NA & reissue ISBN 0-7432-7356-7 (Bản bìa mềm 2004) |
Đại gia Gatsby hay Gatsby vĩ đại (nhan đề gốc tiếng Anh: The Great Gatsby) là một kiệt tác của nhà văn F. Scott Fitzgerald người Mỹ, được xuất bản lần đầu vào 10 tháng 4, 1925. Tác phẩm được đặt trong bối cảnh của vùng Long Island ở Mỹ trong mùa hè năm 1922.
Tiểu thuyết này viết về thời kỳ sống của chính tác giả. Sau cú sốc và hỗn loạn của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Mỹ bước vào thời kỳ thịnh vượng chưa từng thấy trong những năm 1920 do sự cất cánh của nền kinh tế. Cũng trong thời gian này, Luật cấm buôn bán và sản xuất rượu được ban hành, làm tăng lên các tội phạm có tổ chức. Mặc dù Fitzgerald, giống như Nick Carraway trong tác phẩm của mình, tôn sùng sự giàu có, nhưng ông không thấy thoải mái với xã hội coi trọng vật chất quá mức và đạo đức lại không đi cùng với nó.
Đại gia Gatsby không được ngưỡng mộ trong lần xuất bản đầu tiên, chỉ bán được ít hơn 25.000 cuốn trong suốt 15 năm khi Fitzgerald còn sống.
Mặc dù nó đã được chỉnh sửa thành kịch và đưa lên phim ảnh của Hollywood trong năm 1925, nhưng nó hầu như bị lãng quên trong thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới lần II. Sau đó, tác phẩm được xuất bản lại vào năm 1945 và năm 1953, lần này tác phẩm nhanh chóng có được số lượng độc giả rộng rãi. Hiện nay nó được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của người Mỹ.
Năm 2007, trong một cuộc bầu chọn 10 tác phẩm vĩ đại nhất của mọi thời đại do tạp chí Time tổ chức khảo sát lấy ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời, gồm các tên tuổi lớn như Franzen, Mailer, Wallace, Wolfe, Chabon, Lethem, King, Đại gia Gatsby được chọn vào top 10 kiệt tác văn chương vĩ đại nhất mọi thời đại.[1]. Kiệt tác này cũng được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học phổ thông và các khóa giảng về Văn học Mỹ tại các trường đại học ở nhiều nước trên thế giới.
Mục lục
Tóm tắt nội dung
Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
Tiểu thuyết viết về cuộc đời vinh quang và tủi nhục của James Gatz, tên gọi tắt của Gatsby, nhân vật chính trong tác phẩm. Chàng là người bình dị, xuất thân trong một gia đình nghèo
và yêu say đắm Daisy Buchanan, một phụ nữ giàu có và xinh đẹp. Gatsby
đã bất chấp những thủ đoạn mờ ám chiếm được một tài sản lớn nhằm chinh
phục người đẹp. Thế nhưng, khi bước chân vào thế giới thượng lưu Mỹ ở
vùng Long Island,
chàng chỉ thấy những trò giải trí vô bổ, những thói lẳng lơ của người
đẹp. Xã hội đó lợi dụng và hất cẳng chàng, Daisy cũng rũ bỏ chàng, khiến
Gatsby thất vọng đi đến một kết cục kinh hoàng.
Hết phần cho biết trước nội dung.
Ý nghĩa
Tiểu thuyết Đại gia Gatsby của F. Scott Fitzgerald ghi lại tâm trạng mất mát, chán chường, chiều hướng của những giấc mơ vàng của tuổi trẻ bị tan vỡ trong thất bại ở "thời đại nhạc Jazz". Với giọng văn mỉa mai, trào lộng, ý nghĩa tinh tế, Fitzgerald đã thể hiện những suy ngẫm, những vấn đề của con người và thời đại mình.Bản dịch tiếng Việt
Tiểu thuyết The Great Gatsby đã được Hoàng Cường dịch sang tiếng Việt với nhan đề Gatsby vĩ đại và được Nhà xuất bản Tác phẩm mới xuất bản năm 1985. Một bản dịch khác được Trịnh Lữ dịch với nhan đề Đại gia Gatsby do Nhà xuất bản Hội nhà văn và công ty Nhã Nam xuất bản năm 2009.[2] Nói về tựa đề bản dịch mới này, dịch giả Trịnh Lữ cho rằng "Gatsby chỉ là đại gia. Người tạo ra Gastby mới thực sự vĩ đại."[3]Phim chuyển thể
- The Great Gatsby, do Herbert Brenon đạo diễn. Đây là một phim câm chuyển thể từ kịch bản sân khấu; dàn diễn viên gồm Warner Baxter, Lois Wilson và William Powell. Các đánh giá cho rằng nó có lẽ là bản chuyển thể trung thành với nguyên tác tiểu thuyết nhất, tuy nhiên người ta chỉ tìm thấy trailer của phim này tại National Archives[4]
- The Great Gatsby, do Elliott Nugent đạo diễn – với các diễn viên Alan Ladd, Betty Field và Shelley Winters
- The Great Gatsby, do Jack Clayton đạo diễn. Đây là bản nổi tiếng nhất, với dàn diễn viên gồm Sam Waterston trong vai người dẫn truyện Nick Carraway, Mia Farrow trong vai Daisy Buchanan và Robert Redford trong vai Gatsby; biên kịch là Francis Ford Coppola.[4]
- The Great Gatsby, do Robert Markowitz đạo diễn. Đây là phim dành cho truyền hình, với các diễn viên Toby Stephens, Paul Rudd và Mira Sorvino.
- G, phim năm 2002 do Christopher Scott Cherot đạo diễn – phiên bản chuyển thể hiện đại hóa và không bám chặt vào nguyên tác, với các diễn viên Richard T. Jones, Blair Underwood và Chenoa Maxwell.
- The Great Gatsby, đạo diễn Baz Luhrmann and các ngôi sao Leonardo DiCaprio, Amitabh Bachchan, Carey Mulligan, Tobey Maguire, Callan McAuliffe, Isla Fisher, Elizabeth Debicki, Gemma Ward, Joel Edgerton and Jason Clarke. Phim công chiếu năm 2013.
Xem thêm
Chú thích
- ^ Danh sách 10 kiệt tác văn chương do tạp chí Time bình chọn
- ^ Xuất bản 'Đại gia Gatsby' ở Việt Nam
- ^ F. Scott Fitzgerald (2009). Đại gia Gatsby. Nhã Nam & Hội Nhà Văn.
- ^ a ă Winston Dixon, Wheeler (2003). “The Three Film Versions of The Great Gatsby: A Vision Deferred”. Literature Film Quarterly. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008 [liên kết hỏng]
Liên kết ngoài
Nguồn- Tác phẩm bằng tiếng Anh The Great Gatsby.
- Cowley, Malcolm (1950). The Stories Of F.Scott Fitzgerald. Scanned book from Internet Archive, includes The Great Gatsby.
- Index to The Great Gatsby
- The Great Gatsby (1926) tại Internet Movie Database(1926)
- The Great Gatsby (1949) tại Internet Movie Database(1949)
- The Great Gatsby (1974) tại Internet Movie Database(1974)
- The Great Gatsby (2000) (TV) tại Internet Movie Database(2000)
- G (2002) tại Internet Movie Database (2002)
Thể loại:
Francis Scott Key Fitzgerald (24 tháng 9 năm 1896 - 21 tháng
12 năm 1940) là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại
nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise
(Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này
Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in
tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned
(Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con
người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ.
Tuân thủ nguyên tắc của "thế hệ mất mát" (The Lost Generation), Fitzgerald sang sống ở châu Âu (Ý) nhưng hôn nhân tan vỡ, đời sống riêng suy sụp, vợ mắc bệnh tâm thần còn ông là người nghiện rượu. Tiểu thuyết Tender is the Night (Đêm dịu dàng, 1934) là sự thể hiện lối thoát về châu Âu. Tập truyện Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) là những thổ lộ tâm can của nhà văn về sự đổ vỡ. Cũng giống như nhân vật chính của truyện Crazy Sunday (Ngày chủ nhật cuồng điên) trong tập trên, Fitzgerald quay trở về Hollywood trong tâm trạng thất vọng và bệnh hoạn. Ông mất ngày 21 tháng 12 năm 1940, để lại một cuốn tiểu thuyết đang viết dở The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng, 1941).
Sau Thế chiến thứ hai người ta đua nhau tìm đọc tác phẩm của Fitzgerald. Năm 1945 nhà văn và nhà phê bình Edmund Wilson tập hợp những bài viết lẻ, những hồi ức, thư từ của Fitzgerald thành một tập sách có tựa đề The Crack-Up (Sụp đổ). Rất nhiều nhà văn nổi tiếng viết về Fitzgerald, Ernest Hemingway có một liên hệ phức tạp với Fitzgerald qua nhiều năm và đã viết về Fitzgerald trong nhiều tác phẩm.
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
F. Scott Fitzgerald
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Francis Scott Key Fitzgerald | |
---|---|
F. Scott Fitzgerald, ảnh chụp bởi Carl van Vechten năm 1937 |
|
Sinh | 24 tháng 9, 1896 St. Paul, Minnesota, Hoa Kỳ |
Mất | 21 tháng 12, 1940 (44 tuổi) Hollywood, California, Hoa Kỳ |
Công việc | Nhà văn |
Quốc gia | Người Mỹ |
Giai đoạn sáng tác | 1920-1940 |
Chịu ảnh hưởng của[hiện]
|
|
Chữ ký |
Tuân thủ nguyên tắc của "thế hệ mất mát" (The Lost Generation), Fitzgerald sang sống ở châu Âu (Ý) nhưng hôn nhân tan vỡ, đời sống riêng suy sụp, vợ mắc bệnh tâm thần còn ông là người nghiện rượu. Tiểu thuyết Tender is the Night (Đêm dịu dàng, 1934) là sự thể hiện lối thoát về châu Âu. Tập truyện Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) là những thổ lộ tâm can của nhà văn về sự đổ vỡ. Cũng giống như nhân vật chính của truyện Crazy Sunday (Ngày chủ nhật cuồng điên) trong tập trên, Fitzgerald quay trở về Hollywood trong tâm trạng thất vọng và bệnh hoạn. Ông mất ngày 21 tháng 12 năm 1940, để lại một cuốn tiểu thuyết đang viết dở The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng, 1941).
Sau Thế chiến thứ hai người ta đua nhau tìm đọc tác phẩm của Fitzgerald. Năm 1945 nhà văn và nhà phê bình Edmund Wilson tập hợp những bài viết lẻ, những hồi ức, thư từ của Fitzgerald thành một tập sách có tựa đề The Crack-Up (Sụp đổ). Rất nhiều nhà văn nổi tiếng viết về Fitzgerald, Ernest Hemingway có một liên hệ phức tạp với Fitzgerald qua nhiều năm và đã viết về Fitzgerald trong nhiều tác phẩm.
Tác phẩm
- This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920)
- Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920)
- The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922)
- Vegatable (Rau cỏ, 1923)
- The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925)
- Tender is the Night (Đêm dịu dàng, 1934)
- Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935)
- The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng, 1941)
- The Crack-Up (Sụp đổ, 1945)
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về F. Scott Fitzgerald |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment