CNM365 Chào ngày mới 15 tháng 4 Wikipedia Ngày này năm xưa tiết Thái Dương (sinh nhật Kim Nhật Thành) tại Triều Tiên. Năm 1865 – Gia Định báo được xuất bản lần đầu tại Sài Gòn, đây là tờ báo tiếng Việt đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ . Năm 1912 – Tàu khách RMS Titanic (hình) chìm sau khi đụng vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người thiệt mạng. Năm 1952 – Máy bay ném bom chiến lược B-52 Stratofortress của hãng Boeing thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên. Năm 1989 – Một cuộc tụ tập nhỏ diễn ra tại khu vực bia kỉ niệm Anh hùng Nhân dân tại Bắc Kinh nhằm tưởng nhớ Hồ Diệu Bang, khởi đầu Sự kiện Thiên An Môn. Năm 1994 – Đại diện 124 quốc gia và Cộng đồng Châu Âu ký Hiệp định Marrakesh về việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Gia Định báo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Gia Định (định hướng).
Trang bìa một số của Gia Định báo |
|
Người sáng lập | Trương Vĩnh Ký / Ernest Potteaux |
---|---|
Tổng biên tập | Trương Vĩnh Ký |
Thành lập | 1865 |
Ngôn ngữ | Tiếng Việt |
Trụ sở | Gia Định[cần dẫn nguồn] |
Lịch sử
Sau khi Trương Vĩnh Ký trở về nước vào năm 1865, Chuẩn đô đốc Roze, khi đấy đang tạm quyền Thống đốc Nam Kỳ, đã mời ông ra làm quan. Petrus Ký đã từ chối và xin lập một tờ báo quốc ngữ mang tên là Gia Định báo. Lời yêu cầu của ông được chấp thuận và Nghị định cho phép xuất bản được ký ngày 1 tháng 4 năm 1865, nhưng không phải ký cho ông mà lại ký cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux, một viên thông ngôn làm việc tại Soái phủ Nam Kỳ. Và phải đến ngày 16 tháng 9 năm 1869 [1] mới có Nghị định của Chuẩn Đô đốc Ohier ký giao Gia Định báo cho Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút. Đến năm 1897, Gia Định báo chấm dứt hoạt động.Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Lê Nguyễn nhắc lại một cứ liệu xác định Gia Định báo tồn tại đến ngày 31 tháng 12 năm 1909 (44 năm), và chính thức đình bản vào 1 tháng 1 năm 1910 [2].
Sau "Gia Định báo", nhà cầm quyền Pháp cũng cho phép phát hành một số báo tư nhân khác ở Nam Kỳ thuộc địa như Phan Yên báo (1868), Nông cổ mín đàm (1900), Lục tỉnh tân văn (1910).
Phát hành và nội dung
Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ. Gia Định báo có khổ 25x32cm và giá 0,97 đồng/tờ. Thời gian đầu, báo ra mỗi tháng 1 kỳ vào ngày 15 hàng tháng. Báo ra mỗi tháng 2 kỳ, rồi mỗi tuần 1 kỳ, tuy nhiên ngày ra báo của Gia Định báo không cố định, khi thì thứ ba, thứ tư, lúc lại thứ bảy. Số trang của Gia Định báo cũng không cố định, khi thì 4 trang, lúc 12 trang.Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: công vụ và tạp vụ. Phần công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền, đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân; còn phần tạp vụ gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, văn hóa - xã hội... Sau khi Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, Gia Định báo được thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích... Ông đề ra ba mục đích cho tờ báo: Truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân học và khuyến học trong dân. Từ đó, báo không chỉ làm một tờ công báo đơn thuần nữa.
"Cũng như một số văn sĩ sinh ra ở miệt vườn phương Nam, nhà báo họ Trương chủ trương dùng một thứ chữ dễ dãi, như tiếng nói thường ngày, không một chút chải chuốt, sang sửa, viết như nói, không hoa mỹ, cầu kỳ, nhưng có ý thức giữ gìn sự trong sáng, phong phú của ngôn ngữ dân tộc, nhưng không dung tục, thực dụng, ngôn ngữ vỉa hè, văn chương cống rãnh, mà là ngôn ngữ của những người bình dân tự trọng, có văn hóa." [3]
Đánh giá
Bước đầu, Gia Định báo có mục đích chủ yếu là công cụ thông tin của thực dân Pháp ở Đông Dương với tư cách là một tờ công báo chuyên đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân. Sau này, khi Trương Vĩnh Ký chính thức làm giám đốc, tờ báo mới được phát triển mục biên khảo, thơ văn, lịch sử... Từ đó, báo không chỉ làm một tờ công báo đơn thuần nữa. Gia Định báo cũng có góp phần cổ động việc học chữ Quốc ngữ và lối học mới, mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ Quốc ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí Việt Nam.Chú thích
- ^ "Bếp núc" tờ Gia Định báo Trần Nhật Vy - Chính trị Xã hội - Phóng sự Ký sự - Tuổi Trẻ Online 21/06/2011 03:11 (GMT + 7)
- ^ Gia Định Báo: những giá trị vẫn còn sau 140 năm trên Tuổi Trẻ Online, Lam Điền, 26/12/2005 08:59 (GMT + 7)
- ^ Giàng Xênh, SGGP, 140 năm trước lần đầu tiên xuất hiện báo tiếng Việt, đăng lại trên Diễn đàn nghiệp vụ báo chí Việt Nam, 2005
Liên kết ngoài
- Gia Định báo tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Lưu trữ dạng scan trên Thư viện báo chí của Thư viện Quốc gia Việt Nam số 22, 3 Tháng Sáu 1890 đến 29 Tháng Mười Hai 1896
- Hồ sơ Gia Định báo Trần Nhật Vy, báo Tuổi Trẻ 20/06/2011 07:57 (GMT + 7)
- Gia Định Báo: những giá trị vẫn còn sau 140 năm trên Tuổi Trẻ Online.
- 140 năm trước lần đầu tiên xuất hiện báo tiếng Việt, Diễn đàn nghiệp vụ báo chí Việt Nam, 2005
Thể loại:
Titanic là một tàu vượt đại dương chở khách chạy bằng động cơ hơi nước đã đi vào lịch sử ngành hàng hải vì vụ tai nạn hàng hải kinh hoàng và bất ngờ đã xảy ra với nó cũng như những bí ẩn liên quan. Tên chính thức của nó là RMS Titanic (RMS là viết tắt của Royal Mail Ship). Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909 và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm 1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình.
Thảm họa Titanic đã là đề tài cho hàng loạt các cuộc điều tra, kiện tụng, giả thuyết ly kì đồng thời dẫn đến các thay đổi lớn trong quy định an toàn hàng hải quốc tế. Titanic cũng trở thành bối cảnh và đề tài cho rất nhiều tác phẩm văn học, hội họa và điện ảnh.
Titanic dài 882 feet 9 inches (269 m) và rộng 92 feet 6 inches (28 m) ở sườn ngang (dài hơn 6 inches so với chiếc tàu chị em là RMS Olympic). Tổng lượng chất tải đăng ký là 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 60 feet (18 m). Nó có hai động cơ hơi nước ngược pít tông bốn xi lanh và một tuốc bin Parsons. Những động cơ này làm quay ba chân vịt. Có 25 nồi hơi hai đầu và 4 cái một đầu kiểu Scotch được đun nóng bởi 159 lò đốt than khiến nó có thể đạt tới tốc độ tối đa 23 knot (43 km/g). Chỉ ba trong số bốn chiếc ống khói cao 63 foot (19 m) của nó hoạt động; chiếc thứ tư được dùng thông gió, và được thêm vào để con tàu có hình dáng ấn tượng hơn. Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người gồm cả thủy thủ đoàn, và bởi vì nó có chở thư, tên của nó được thêm tiền tố RMS (Royal Mail Steamer) cũng như SS (Steam Ship).
Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải và là một tiến bộ công nghệ, và được tạp chí The Shipbuilder ca ngợi là "không thể chìm".[2]
Titanic có vỏ hai lớp, chứa 44 bể nước dùng cho nồi hơn và đồ dằn để giữ nó cân bằng trên biển [3] (những chiếc tàu sau này cũng có vỏ hai lớp). Titanic có số thuyền cứu sinh lớn hơn tiêu chuẩn, tổng số 20 chiếc (dù vẫn chưa đủ cho toàn bộ hành khách), và những nhà thiết kế đã thảo luận về việc lắp đặt thêm số thuyền cứu sinh, phụ thuộc vào các vấn đề về chi phí. Titanic được chia thành 16 khoang với cửa ngăn, đóng mở bằng các then cửa điện từ và hoạt động với động tác tắt bật đơn giản từ đài chỉ huy của thuyền trưởng. Tuy nhiên, tính kín nước của cửa ngăn không đạt tới toàn bộ chiều cao của boong, mà chỉ tới boong hạng hai (E-Deck). Titanic vẫn nổi khi bốn khoang bất kỳ ngập nước, hay mười một trong số mười bốn khu thuộc ba khoang ngập nước, hay bốn khoang đầu/cuối ngập nước, ngoài ra nó sẽ chìm.
Trang bị tại các phòng hạng hai và hạng ba có lẽ cũng được xếp hàng sang trọng so với những phòng đồng hạng trên các con tàu khác thời ấy. Titanic có ba thang máy dành riêng cho những khách hạng nhất và một sự cải tiến khác, thêm một thang dành cho khách hạng hai.
Nơi được trang trí đẹp nhất trong nội thất con tàu chắc chắn là cầu thang khu vực hạng nhất, nằm giữa ống khói thứ nhất và thứ hai. Cầu thang kéo dài xuống boong hạng hai và được trang trí bằng các phiến gỗ sồi và có lan can mạ vàng, trên đỉnh là một vòm kim loại kính trang trí tỉ mỉ để lấy ánh sáng trời. Đỉnh cầu thang là một tấm gỗ lớn treo một chiếc đồng hồ với những chữ số biểu tượng theo Honour and Glory crowning Time. Một cầu thang tương tự nhưng ít được trang trí hơn nằm giữa ống khói thứ ba và thứ tư.
Những người khách hạng nhất khác, cũng nổi tiếng trong giai thoại về chiếc Titanic là Giáo sư A.P. Kiehl và Tướng Sam Hawkins đều là nhân vật tưởng tượng.
Trong số những hành khách khoang hạng hai có Lawrence Beesley, một nhà báo đã viết một trong những bài bình luận trực tiếp về chuyến đi và sự kiện đắm tàu. Ông rời tàu trên chiếc Thuyền cứu sinh số 13. Cha Thomas R.D. Byles là một linh mục Công giáo đang trên đường tới Hoa Kỳ tham gia lễ cưới của người em trai. Cũng trong số khách hạng hai còn có Michel Navratil, một người Pháp đã bắt cóc hai con trai của mình là Michel Jr. và Edmond và đang đưa chúng sang Mỹ.
Cả J. P. Morgan và Ton Hershey[8] đều có kế hoạch đi trên chiếc Titanic nhưng đã hủy chỗ trước chuyến đi.
Dù sao chăng nữa, mức độ thảm khốc của sự kiện này đã được xếp hạng là một trong những thảm hoạ hàng hải lớn nhất và nổi tiếng nhất trong thời bình. Thiết kế của Titanic sử dụng một số kỹ thuật tiên tiến nhất thời ấy, và chiếc tàu được hầu như tất cả mọi người tin rằng "không thể chìm". Đó là một cú sốc lớn, bởi dù có những kỹ thuật tiên tiến và thủy thủ đoàn giàu kinh nghiệm, chiếc Titanic đã chìm với số thiệt hại nhân mạng to lớn. Các phương tiện truyền thông đại chúng nóng lên vì những nạn nhân Titanic là người nổi tiếng, vì những huyền thoại về điều đã diễn ra trên boong tàu, vì những thay đổi sau đó của luật hàng hải, và sự khám phá xác tàu Titanic vào năm 1985 bởi một đội do Robert Ballard và Jean Louis Michel dẫn đầu khiến chiếc Titanic vẫn rất nổi tiếng dù đã nhiều năm trôi qua. Rõ ràng núi băng đã phá vỡ các tấm vỏ tàu, làm thủng một lỗ lớn khiến nước băng lạnh giá tràn vào trong Titanic.
Cả hai bến đều thuộc Bến Chelsea được xây dựng dành riêng cho những con tàu chở khách hạng sang thời đó.
Khi tin tức về thảm họa lan đi, nhiều người bị sốc vì chiếc tàu Titanic có thể chìm với số thiệt hại nhân mạng lớn đến như vậy, dù nó được đóng với nhiều kỹ thuật tân tiến. Báo chí đầy những câu chuyện và những miêu tả về thảm họa và luôn săn lùng tin tức mới nhất. Nhiều hội từ thiện được lập ra để giúp các nạn nhân và gia đình họ, nhiều gia đình đã mất đi lao động chính, hay, trong trường hợp những người khách hạng ba còn sống sót, mọi thứ họ có. Người dân Southampton bị ảnh hưởng nhiều nhất vụ đắm tàu. Theo tờ Hampshire Chronicle ngày 20 tháng 4 năm 1912, hầu như 1.000 gia đình địa phương đều bị ảnh hưởng trực tiếp. Hầu như mọi con phố thuộc quận Chapel trong thị trấn đều mất ít nhất một người dân và hơn 500 gia đình mất một thành viên của họ.
Chủ tịch cuộc điều tra, Thượng nghị sĩ William Alden Smith, muốn thu thập những lời chứng từ phía hành khách và thủy thủ đoàn khi các sự kiện vẫn còn nóng hổi trong tâm trí họ. Smith cũng cần yêu cầu trình diện tòa án đối với các công dân Anh khi họ vẫn đang trên lãnh thổ Mỹ. Cuộc điều tra của người Mỹ kéo dài tới ngày 25 tháng 5.
Sir Mersey được chỉ định lãnh đạo cuộc điều tra thảm họa của Phòng thương mại Anh Quốc. Cuộc điều tra của người Anh diễn ra từ ngày 2 tháng 5 tới 3 tháng 7. Mỗi cuộc điều tra đều lấy lời tường thuật từ cả các hành khách và thủy thủ đoàn Titanic, thủy thủ đoàn chiếc The Californian của Leyland Line, Thuyền trưởng Arthur Rostron chiếc Carpathia và các chuyên gia khác.
Những cuộc điều tra cho thấy nhiều quy định an toàn đã quá lỗi thời và cần thiết phải có các luật mới. Nhiều cải tiến về quy định an toàn hàng hải đối đã được áp dụng, gồm cả việc cải tiến thân tàu và thiết kế vách ngăn, quyền đi lại của hành khách trên toàn bộ con tàu, các yêu cầu về thuyền cứu sinh, thiết kế áo phao, huấn luyện an toàn, thông tin cho hành khách, luật về liên lạc radio, vân vân. Những nhà điều tra cũng thấy rằng Titanic có đủ chỗ trên thuyền cứu sinh cho toàn bộ hành khách hạng nhất, nhưng khách các hạng còn lại không hề được quan tâm. Trên thực tế, đa số hành khách ở khoang hạng ba, hay hạng bét, không hề biết vị trí các thuyền cứu sinh ở đâu, cũng không có nhiều lối để lên các boong trên nơi đặt thuyền. (Theo báo cáo của Lloyd's, tỷ lệ khách nam trên khoang hạng nhất sống sót cao hơn tỷ lệ này của phụ nữ và trẻ em ở khoang hạng ba[cần dẫn nguồn].)
Cả hai cuộc điều tra vụ tai nạn đều thấy rằng chiếc Californian và Thuyền trưởng Stanley Lord, đã không thể giúp đỡ Titanic một cách hiệu quả. Những lời chứng trước cuộc điều tra cho thấy, lúc 10:10 tối, chiếc Californian quan sát thấy ánh sáng của một con tàu ở phía nam; sau đó Thuyền trưởng Lord và sĩ quan hạng ba (người thay Lord chỉ huy lúc 10:10) đồng ý với nhau rằng đó là một chiếc tàu chở khách. Chiếc Californian đã cảnh báo con tàu kia về một núi băng khiến họ phải dừng lại trong đêm. Lúc 11:50 tối, sĩ quan đã thấy ánh sáng trên con tàu kia tắt đi, giống như con tàu bỗng nhiên biến mất nhưng lại thấy ánh sáng phía trái của nó. Các tín hiệu Morse gửi tới con tàu kia, theo lệnh của Lord, đã được đánh đi năm lần trong khoảng 11:30 và 1:00 sáng, nhưng không hề được nhận biết. (Theo lời khai, đèn tín hiệu Morse của chiếc Californian chỉ có tầm hoạt động bốn dặm.)
Thuyền trưởng Lord đã đi ngủ lúc 11:30; tuy nhiên, sĩ quan hạng nhì, khi ấy đang trực, đã thông báo cho Lord rằng lúc 1:15 sáng con tàu kia đã bắn một quả pháo hiệu, tiếp đó là bốn quả nữa. Lord ngờ vực không biết chúng có phải là những "tín hiệu nội bộ công ty" hay không, có nghĩa là màu sắc được sử dụng để xác nhận tên hiệu. Sĩ quan thứ hai nói rằng anh ta "không biết," và rằng toàn bộ những quả pháo hiệu đều màu trắng. Thuyền trưởng Lord ra lệnh cho thủy thủ đoàn tiếp tục đánh tín hiệu Morse cho con tàu kia, và đi ngủ tiếp. Ba phát pháo hiệu tiếp sau được quan sát thấy lúc 1:50 và sĩ quan hạng nhì thấy con tàu kia trông rất kỳ lạ, như đang nghiêng trên mặt nước. Lúc 2:15 sáng, Lord được thông báo không còn nhìn thấy con tàu kia nữa. Lord một lần nữa hỏi những phát pháo hiệu có màu gì, và được trả lời tất cả đều màu trắng.
Californian cuối cùng cũng đã trả lời. Lúc 5:30 sáng sĩ quan hạng nhất đánh thức sĩ quan điện tín, thông báo với anh ta việc quan sát thấy nhiều phát pháo hiệu trong đêm và yêu cầu anh ta liên lạc với một con tàu nào đó. Chiếc Frankfurt đã thông báo với anh ta việc tàu Titanic chìm, Thuyền trưởng Lord được thông tin và con tàu bắt đầu tới hỗ trợ.
Những cuộc điều tra cũng khám phá thực tế tàu Californian ở gần Titanic hơn con số 19½ dặm (36 km) mà Thuyền trưởng Lord tưởng, và rằng đúng ra Lord đã phải đánh thức sĩ quan điện tín ngay sau khi nhận được tin về những phát pháo hiệu, và vì thế có thể hành động kịp thời để ngăn chặn thảm hoạ. Trước việc sĩ quan điện tín trên Californian không làm việc, 29 quốc gia đã phê chuẩn Luật Radio năm 1912, hợp lý hóa thông tin radio, đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp.
Đa số người chết do không chịu nổi sự giảm thân nhiệt trong nước có nhiệt độ 28 °F (−2 °C). Ngoài ra, tỉ lệ tử vong cao cũng vì các thuyền cứu sinh đã không chở tối đa số người có thể. Cũng theo bản báo cáo trước Thượng viện Hoa Kỳ, Nếu các thuyền cứu sinh chở đủ sức chứa, 1.178 người có thể đã được cứu sống.[10]
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng vỏ tàu Titanic được liên kết bằng đinh tán (rivet), là cách thông thường để liên kết các tấm kim loại với nhau, trong khi các bu lông có thể tháo ra được và vì thế yêu cầu phải được xiết chặt định kỳ trừ khi đai ốc và bu lông được hàn sau khi đã được bắt vít. Kỹ thuật hàn năm 1912 còn ở mức sơ khai, vì thế điều đó đã không diễn ra. Tuy khi các vấn đề về đinh tán của Titanic đã được xác định thông qua những mẫu vỏ tàu còn lại, nhiều chiếc khác cùng thời được áp dụng kỹ thuật tương tự đã không chìm sau các vụ va chạm. Có ý kiến cho rằng các đinh tán của Titanic không được tôi đầy đủ, khiến chúng giòn và dễ gãy khi xảy ra va chạm.
Việc các cửa ngăn đảm bảo kín nước có thể tăng khả năng sống sót của con tàu như Titanic, nhưng chúng cũng không thể đảm bảo khả năng sống sót của một con tàu với nhiều hư hỏng ngầm dưới mặt nước như Titanic sau vụ va chạm như vậy với núi băng: một núi băng lớn. Thậm chí nếu các khoang vẫn hoàn toàn kín nước, trọng lượng nước sẽ vẫn kéo phần mũi tàu chìm xuống tới lúc các điểm không kín nước ở boong trên bị ngập và nước vẫn tràn được vào tàu qua các cửa mạn và tàu vẫn chìm. Cũng cần lưu ý rằng các boong kín nước sẽ ảnh hưởng tới việc đi xuống những khoang bên dưới tàu và lại cần phải có những cửa sập kín nước, tất cả chúng đều phải hoàn toàn kín để có thể ngăn nước không tràn vào những nơi khác trên tàu. Khi vấn đề các boong kín nước có thể làm tăng khả năng sống sót của tàu không vẫn còn là một câu hỏi, nói chung tới tận ngày nay kiểu boong này vẫn bị coi là không có tính thực tiễn đối với tàu thủy thương mại (dù một số tàu quân sự, với nhiều nguy cơ bị ngập hơn khi trúng phải thủy lôi hay các loại mìn khác của đối phương, có được áp dụng kiểu boong này).
Cũng cần lưu ý rằng chiếc Olympic, được chế tạo tương tự từ cùng một xưởng đóng tàu như Titanic, đã nhiều lần xảy ra va chạm trong suốt đời hoạt động của nó, một vụ xảy ra trước khi Titanic chìm; và vỏ chiếc Olympic's đã được sửa đổi để bảo vệ nó khỏi bị ngập khi có một vụ va chạm tương tự như con tàu em xấu số của nó. Không một vụ va chạm nào dẫn tới nguy cơ chìm tàu, cho thấy những chiếc tàu chở khách lớp Olympic được chế tạo đảm bảo yêu cầu và không hề có lỗi kỹ thuật.
Một sai lầm còn nghiêm trọng hơn với Titanic chính là định dạng động cơ ba chân vịt của nó, với hai động cơ hơi nước pittông truyền động cho hai chân vịt bên, và một tuốc bin hơi nước truyền động riêng cho chân vịt giữa. Các động cơ píttông có thể đảo chiều, còn động cơ tuốc bin không đảo chiều được. Khi Sĩ quan hạng nhất Murdoch ra lệnh đảo chiều động cơ để tránh núi băng, ông đã không lưu ý rằng việc này có thể gây ảnh hưởng tới khả năng quay của con tàu. Bởi vì động cơ giữa không thể đảo chiều khi tàu thực hiện "lùi hết tốc độ", đơn giản nó chỉ ngừng quay. Hơn nữa, chân vịt giữa được đặt phía trước bánh lái tàu, càng làm giảm hiệu quả quay của bánh lái.
Nếu Murdoch cho đảo chiều động cơ bên trái, và giảm tốc độ trong khi vẫn giữ chuyển động bình thường của hai chân vịt kia (như đã được đề nghị trong quy trình huấn luyện với kiểu tàu này), các chuyên gia đưa ra giả thuyết rằng Titanic có thể đã đi vòng quanh được núi băng và tránh được vụ va chạm. Tuy nhiên, với khoảng cách gần giữa con tàu với núi băng ở thời điểm phòng chỉ huy không hề được thông báo về vấn đề này, có lẽ nó cũng khó xảy ra.
Thêm nữa, các chuyên gia Titanic đưa ra giả thuyết nếu Titanic không đổi hướng chuyển động và lao thẳng về phía núi băng thì vụ va chạm chỉ ảnh hưởng tới khoang thứ nhất, hay nhiều nhất là hai khoang của tàu. Chiếc tàu chở khách Arizona của Guion cũng đã có vụ va chạm đối đầu với một núi băng năm 1879, và dù bị hư hại nặng nề nhưng vẫn cố về được St John's, Newfoundland để sửa chữa. Tuy nhiên, một số người cho rằng Titanic có lẽ không thể sống sót sau vụ va chạm như vậy bởi tốc độ của nó cao hơn và vỏ cũng lớn hơn chiếc Arizona và vì thế lực của cú đâm sẽ làm tổn hại tới tình trạng toàn vẹn kết cấu của nó.
Trên những con đường hàng hải đông đúc ở Bắc Đại Tây Dương, mọi người đều cho rằng nếu một thảm họa nghiêm trọng có xảy đến với một con tàu, thì nó sẽ nhanh chóng nhận được sự hỗ trợ từ các con tàu khác, và rằng thuyền cứu sinh chỉ để chở hành khách và thủy thủ từ con tàu bị nạn sang những con tàu cứu hộ. Vì thế việc mang theo số thuyền cứu sinh đủ cho toàn bộ số người trên boong bị coi là không cần thiết.
Khi thiết kế, Titanic cũng đã được dự đoán trước yêu cầu tăng số lượng thuyền cứu sinh của Phòng thương mại Anh Quốc trong tương lai. Vì thế các cần trục thả thuyền cứu sinh có khả năng thả bốn thuyền với mỗi hai cần trục đã được thiết kế và lắp đặt, khiến cho nó có tổng năng lực dự trữ lên tới 64 thuyền.[14] Nhưng những con thuyền cứu sinh dự phòng đã không bao giờ được trang bị. Thường có ý kiến cho rằng J. Bruce Ismay, Chủ tịch White Star, đã bác bỏ việc lắp đặt thêm những chiếc thuyền đó để tăng tối đa diện tích tản bộ trên boong của hành khách. Harold Sanderson, Phó chủ tịch International Merchantile Marine đã bác bỏ ý kiến này trong cuộc điều tra của người Anh.[15]
Thuyền cứu sinh thiếu không phải là nguyên nhân duy nhất khiến số tổn thất nhân mạng cao đến như vậy. Sau vụ va chạm với núi băng, thủy thủ đoàn đã mất tới một giờ để đánh giá mức độ hư hỏng, nhận biết được điều sắp xảy đến, thông báo tới những hành khách hạng nhất, và hạ chiếc thuyền cứu sinh đầu tiên. Sau đó, thủy thủ đoàn làm việc khá hiệu quả, mất tổng cộng 80 phút để hạ toàn bộ 16 thuyền cứu sinh. Vì số thủy thủ được chia làm hai đội, mỗi đội một phía mạn tàu, nên họ mất khoảng 10 phút để đưa người lên thuyền và hạ nó xuống biển.
Một nguyên nhân nữa gây ra tỷ lệ tử vong cao liên quan tới thuyền cứu sinh là sự chần chừ không muốn lên đó của hành khách. Xét cho cùng, họ cảm thấy mình đang trên một con tàu không có vẻ đang chìm. Và vì thế, một số thuyền cứu sinh được hạ xuống với rất ít người, đáng chú ý nhất là thuyền số 1, với sức chở 40 người nhưng chỉ được hạ xuống với 12 người bên trên.
Một số sự kiện diễn ra trong thảm hoạ Titanic đã trở thành huyền thoại. Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất là ban nhạc trên tàu Titanic. Ngày 15 tháng 4, ban nhạc tám người của Titanic, do Wallace Hartley
chỉ huy, đã tập trung tại phòng khách khoang hạng nhất cố gắng giữ hành
khách bình tĩnh và tin tưởng. Sau đó họ chuyển ra chơi nhạc phía trước
boong. Các thành viên ban nhạc đã chơi trong buổi cầu nguyện ngày Chủ
Nhật sáng hôm trước, và họ vẫn tiếp tục chơi thậm chí cả khi con tàu rõ
ràng sắp chìm.
Không ai trong số thành viên ban nhạc sống sót sau vụ đắm tàu, và có nhiều quan điểm về bản nhạc cuối cùng của họ. Một số nhân chứng nói rằng bài cuối cùng được chơi là thánh ca "Nearer, My God, to Thee." Tuy nhiên, có ba luồng ý kiến về bài hát này và không ai biết chắc được chính xác bài nào, nếu quả thực như vậy, đã được chơi. Hartley được cho là đã kể với một người bạn rằng nếu mình ở trên một con tàu sắp chìm thì bài "Nearer, My God, to Thee" sẽ là một trong những bài được ông chơi. Cuốn sách A Night to Remember (Một đêm đáng nhớ) của Walter Lord lại đưa ra lời kể của sĩ quan điện tín Harold Bride rằng trước khi tàu chìm, ông đã nghe thấy bài "Autumn" (Mùa thu) (một bài thánh ca tương tự như bài kia nhưng có liên quan tới hàng hải với dòng viết về "những vùng nước rộng lớn").[16] Mọi người cho rằng Bride có thể nói bài hát đó là "Autumn" hay "Songe d'Automne," một bài hát ragtime phổ biến thời ấy. Những người khác nói họ đã nghe thấy bài "Roll out the Barrel."[cần dẫn nguồn]
Xác của Hartley đã được tìm thấy và nhận dạng. Được coi là một anh hùng, đám tang của ông tại Anh Quốc được hàng ngàn người tham dự.[cần dẫn nguồn]
Năm 2003 Thuyền trưởng L. M. Collins, một cựu thành viên của Ice Pilotage Service đã xuất bản cuốn The Sinking of the Titanic: The Mystery Solved cho rằng, dựa trên chính những kinh nghiệm thám sát băng của ông và những lời kể của nhân chứng ở hai vụ điều tra sau thảm họa, Titanic không phải đâm vào một núi băng mà là một tảng băng chìm. Kết luận của ông dựa trên ba phần lời chứng chính.
Một giả thuyết khác cho rằng Titanic đã bị hy sinh, bởi vì, khi việc đóng tàu hoàn tất, nó bị cho là một nguy cơ thua lỗ tài chính. Những người ủng hộ giả thuyết này đưa ra chứng cớ rằng, tất cả mọi người liên quan, cả công ty và những sĩ quan trên boong đều đã nhận được những lời cảnh báo núi băng và Titanic vẫn giữ hướng chạy chứ không đi chếch về phía nam.
Thậm chí còn có cả một huyền thoại về lời nguyền. Khi con tàu đang được đóng tại xưởng tàu ở Belfast, nhiều công nhân theo đạo Công giáo đã nhiều lần bỏ việc để để phàn đối những lời báng bổ kinh khủng với Giáo hội Công giáo và Đức Mẹ đồng trinh Maria do những công nhân theo đạo Tin lành dùng sơn phun lên trên vỏ tàu. Một trong những người công nhân đã nói, "Con tàu này sẽ không hoàn thành chuyến đi đầu tiên của nó". Những lời báng bổ đã được những người công nhân tiếp than khi con tàu dừng tại Cobh, Ireland nhìn thấy.[cần dẫn nguồn]
Một huyền thoại tương tự cho rằng Titanic được đánh số vỏ 390904 (con số này nếu viết ngược (nhìn qua gương) sẽ giống "no pope", nghĩa là "không cần có giáo hoàng"). Đây là một câu chuyện hoang đường.[17]
Một câu chuyện tưởng tượng khác trong quần chúng cho rằng Titanic chở theo một xác ướp Ai Cập đã bị nguyền rủa. Xác ướp, có tên hiệu Shipwrecker (Kẻ làm đắm tàu), sau khi nhiều lần đổi chủ đã gây ra những tai họa khủng khiếp cho những người sở hữu, và lần trả thù cuối cùng chính là vụ chìm tàu nổi tiếng này. Câu chuyện này không hề chính xác.[18]
Một câu chuyện hoang đường khác cho rằng chai sâm panh được dùng trong lễ rửa tội Titanic đã không vỡ trong lần thả đầu tiên, đây là điềm xui xẻo với một con tàu. Trên thực tế, Titanic không có lễ rửa tội, bởi theo lệ thường White Star Line hạ thủy tàu mà không cần làm lễ rửa tội.[19]
Một thảm họa tương tự Titanic là vụ chiếc tàu Hans Hedtoft. Tháng 1 năm 1959 chiếc Hans Hedtoft, một chiếc tàu chở khách Đan Mạch xuất phát từ Greenland, đã đâm vào một núi băng và đắm. Hans Hedtoft cũng đang thực hiện chuyến đi biển đầu tiên của mình và cũng được quảng cáo "không thể chìm" vì những tiến bộ kỹ thuật áp dụng trong thiết kế. Năm 1987, chiếc MV Doña Paz, đắm tại Philippines sau khi va chạm với chiếc tàu chở dầu Vector và bắt lửa, số người chết được tuyên bố trong khoảng 1.500 tới 4.000 người. Năm 2002, chiếc phà MV Joola thuộc sở hữu chính phủ Senegal đã lật úp ngoài khơi Gambia gây ra cái chết của ít nhất 1.863 người.
Những thảm họa hàng hải lớn nhất diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiếc RMS Lancastria đã đắm khi sơ tán khỏi Dunkirk tháng 6 năm 1940 với hơn 4.000 người thiệt mạng. Đây là thảm họa hàng hải tồi tệ nhất Anh Quốc. Tuy nhiên, những thảm họa hàng hải có số lượng người chết lớn nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai thuộc về những chiếc tàu Đức. Vụ đắm tàu Wilhelm Gustloff với số người chết lên tới hơn 9.000 người vẫn là thảm họa ghê gớm nhất trong lịch sử hàng hải về số lượng người chết trên chỉ một chiếc tàu (đắm ngày 30 tháng 1, 1945 sau khi bị ngư lôi Xô viết tấn công). Chiếc SS Cap Arcona (trớ trêu thay, đóng vai chiếc Titanic trong bộ phim năm 1943 về thảm họa này) đã bị Không quân Hoàng gia Anh đánh đắm ngày 3 tháng 5, 1945, với số người chết lên tới hơn 7.700. Chiếc Goya cũng đắm với khoảng 7.000 người chết, sau trận chiến với tàu ngầm Liên Xô ngày 16 tháng 4, 1945.
Titanic không phải là chiếc tàu duy nhất của White Star Line đắm gây thiệt hại nhân mạng. Chiếc RMS Tayleur, cũng từng được đem so sánh với vụ đắm tàu Titanic, đã đắm sau khi mắc cạn tại Ireland. Tayleur cũng là chiếc tàu được chế tạo với những kỹ thuật tiên tiến khi nó chìm ngay trong lần đi biển đầu tiên năm 1854. Trong số 558 hành khách và thủy thủ, 276 người đã chết. White Star Line trước đó cũng đã mất chiếc RMS Atlantic trên vùng đá ngầm gần Nova Scotia năm 1873 với 546 người thương vong, và chiếc SS Naronic năm 1893, có lẽ vì va chạm với núi băng gần vị trí Titanic đắm, cả 74 người trên boong đều thiệt mạng. Ba năm trước Titanic, ngày 24 tháng 1, 1909, một chiếc tàu chở khách hạng sang và "không thể đắm được" của White Star Line, chiếc RMS Republic đã đắm 50 hải lý ngoài khơi Nantucket làm thiệt mạng sáu người. Chiếc tàu chị em của Titanic, chiếc Britannic đắm trên Biển Địa Trung Hải khi đang hoạt động như một chiếc tàu cứu thương trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhiều ý kiến trái ngược nhau về việc nó bị một quả ngư lôi tấn công hay đã không may mắn đâm vào một quả thủy lôi (vụ đắm tàu đã được chứng minh do mìn gây ra). Ba tư người đã chết khi một chiếc thuyền cứu sinh được đưa xuống trước khi tàu ngừng lại hoàn toàn và thuyền cứu sinh đã bị hút vào những chân vịt vẫn đang quay.
Khám phá đáng chú ý nhất của đội là việc chiếc tàu đã vỡ đôi, phần đuôi nằm cách phần mũi 1.970 feet (600 m) và nằm ngược chiều. Đã có nhiều lời tường thuật không đồng nhất từ phía các nhân chứng về việc chiếc tàu có bị vỡ ra hay không, và cả những cuộc điều tra của người Anh và người Mỹ đều cho rằng chiếc tàu chìm ở tình trạng nguyên vẹn. Tới tận khi xác tàu được tìm thấy, ý kiến chung vẫn cho rằng con tàu không hề bị vỡ. Năm 2005, một lý thuyết cho rằng một phần phía dưới của Titanic đã vỡ ra ngay trước khi con tàu vỡ làm đôi.[23] Lý thuyết này dựa trên cuộc khảo sát hai mảnh thân tàu do History Channel tài trợ.[24]
Phần mũi đã chìm sâu hơn 60 feet (18 m) trong lớp bùn đáy biển. Ngoài những phần gãy vỡ, mũi tàu hầu như còn nguyên vẹn, bởi nước bên trong đã cân bằng với áp lực nước bên ngoài. Phần đuôi ở tình trạng kém hơn. Khi phần đuôi chìm, nước đẩy không khí bên trong ra khiến vỏ và boong phần này bị xé rách. Tốc độ rơi xuống đáy biển của phần đuôi cũng khiến hư hại càng nặng thêm. Xung quanh xác tàu là một vùng rộng lớn những mảnh rác (gồm cả rất nhiều than), đồ đạc, đồ ăn và các vật dụng cá nhân trên diện tích hơn một dặm vuông (2.6 km²). Những vật liệu mềm, như gỗ và thảm, đã bị các sinh vật dưới đáy biển tiêu huỷ. Những xác người cũng cùng số phận.
Những lần khám phá sau vào khu vực boong thấp của tàu, như được tường thuật lại trong cuốn Ghosts of the Titanic của tiến sĩ Charles Pellegrino, cho thấy đa số đồ gỗ trong phòng khánh tiết của Titanic vẫn nguyên vẹn. Một lý thuyết mới đã xuất hiện cho rằng đa phần đồ gỗ tại các boong phía trên không bị các sinh vật biển phá hủy mà chỉ bị rơi ra và trôi mất. Lý thuyết này được lời chứng từ phía các nạn nhân còn sống sót ủng hộ. Tương tự, khi quay bộ phim Titanic của James Cameron, đồ vật tại Cầu thang chính rơi ra khi chúng bị nước tràn vào trong cảnh nước tràn vào tàu. Điều này khiến nhà sử học Don Lynch và nghệ sĩ Ken Marschall tin rằng điều xảy ra trên thực tế tại Cầu thang chính cũng tương tự (như được đề cập trong phần bình luận DVD của bộ phim).
Dù cuộc điều tra của Anh đã quả quyết rằng về mặt toán học hư hại xảy ra với con tàu không thể lớn hơn mười hai feet vuông, trong quan niệm của mọi người núi băng đã cắt một vệt dài 300 feet (90 m) vào sườn Titanic. Vì phần vỏ tàu bị núi băng làm hư hại đã chìm trong bùn, các nhà khoa học phải sử dụng siêu âm để xem xét khu vực và phát hiện núi băng đã làm vỡ vỏ tàu, khiến nước tràn vào trong Titanic giữa các tấm thép. Trong những lần lặn tiếp sau, các nhà khoa học đã mang lên nhiều mảnh nhỏ của vỏ tàu. Một cuộc phân tích chi tiết cho thấy tấm thép vỏ tàu đã mất tính dẻo và trở nên giòn trong nước băng lạnh, khiến nó có khả năng chống biến dạng kém. Hơn nữa, những đinh tán vỏ tàu còn mỏng manh hơn mọi người từng nghĩ. Không biết liệu những đinh tán làm bằng thép tốt hơn có thể cứu vãn con tàu được không.
Những mẫu thép lấy lên từ xác tàu cho thấy chúng chứa phần trăm phốt pho và lưu huỳnh rất cao (bốn lần và hai lần lớn hơn loại thép thông thường ngày nay), với tỷ lệ măng gan-sun phua là 6.8:1 (so với tỷ lệ 200:1 của thép hiện nay). Tỷ lệ phốt pho cao gây ra các vết nứt, sun phua hình thành các hạt thép sulphide khiến những vết nứt dễ kéo dài hơn, và việc thiếu măng gan khiến thép giảm tính dẻo. Các mẫu được tìm thấy trải qua quá trình chuyển đổi mềm-giòn ở nhiệt độ 32 °C (theo chiều dọc) và 56 °C (theo chiều ngang—so với nhiệt độ chuyển đổi −27 °C với thép ngày nay— thép ngày nay sẽ trở nên giòn như vậy trong khoảng nhiệt độ −60 và −70 °C). Tính không đẳng hướng như vậy có lẽ do quá trình cán nóng ảnh hưởng tới hướng kết hợp của sulphide. Có lẽ lọai thép này đã được sản xuất tại các lò acid-lined, open-hearth ở Glasgow, điều này có thể giải thích thành phần cao của phốt pho và sun phua, thậm chí so với cả thép thời ấy.[25]
Tiến sĩ Ballard và đội thám hiểm của ông không hề mang lên một đồ vật nào , vì coi đó như hành động cướp lăng mộ. Tuy nhiên, theo luật hàng hải quốc tế, việc phát hiện đồ vật còn lại là hành động cần thiết để thiết lập quyền khai thác đối với một xác tàu. Những năm sau khi được khám phá, Titanic đã trở thành chủ đề của một số vụ kiện tụng liên quan tới quyền sở hữu những đồ vật tại vị trí xác tàu.
Từ đầu năm 1987, một cuộc thám hiểm với sự cộng tác Pháp-Mỹ, gồm cả công ty tiền nhiệm của RMS Titanic Inc., đã tiến hành các chiến dịch thu gom đồ vật, trong 32 lần lặn, họ đã khám phá gần 1.800 vật và chúng đều được đưa về Pháp để lưu giữ và phục chế. Năm 1993, người quản lý của Pháp tại Văn phòng Hàng hải của Bộ vận tải, du lịch đã trao cho công ty tiền thân của RMS Titanic Inc quyền sở hữu đối với những đồ vật tìm được năm 1987.
Trong một bản kiến nghị ngày 12 tháng 2, 2004, RMS Titanic Inc. yêu cầu Tòa án địa phương trao cho họ "quyền đối với toàn bộ đồ vật (gồm cả những mảnh xác tàu) là đối tượng của văn kiện này theo luật về những đồ vật được tìm thấy" hay, đổi lại, một khoản bồi thường khai thác 225 triệu dollar. RMS Titanic Inc. không gộp trong kiến nghị này yêu cầu về quyền sở hữu những đồ vật được tìm thấy trong năm 1987. Nhưng họ thực sự yêu cầu tòa án tuyên bố rằng, dựa trên văn bản hành chính Pháp, "những đồ vật được trục vớt trong chuyến thám hiểm năm 1987 thuộc sở hữu một cách độc lập của RMST." Sau khi xem xét, tòa án đã ra văn bản ngày 2 tháng 7, 2004, theo đó từ chối trao quyền sử dụng điều lệ công nhận thân thiện giữa quốc gia và công nhận quyết định năm 1993 của vị quản lý Pháp, và bác bỏ yêu cầu của RMS Titanic Inc rằng họ phải được trao quyền sở hữu các vật được tìm thấy từ năm 1993 theo luật hàng hải về những đồ vật tìm được.
RMS Titanic Inc. kháng án tại Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ. Theo quyết định của tòa ngày 31 tháng 1, 2006[29] tòa án công nhận "sự thích đáng và rõ ràng trong việc áp dụng luật khai thác hàng hải đối với những xác tàu mang tính lịch sử như Titanic" và từ chối áp dụng luật hàng hải về những đồ vật tìm được. Tòa cũng phán xét rằng tòa án quận không có quyền phán xử đối với "những đồ vật năm 1987", và vì thế hủy bỏ phần phán quyết của tòa ngày 2 tháng 7, 2004. Nói cách khác, theo quyết định này, RMS Titanic Inc. có quyền sở hữu đối với những đồ vật được tòa án Pháp công nhận (có giá trị 16.5 triệu dollar Mỹ vào thời điểm ấy) và tiếp tục là bên xin sở hữu (salvor-in-possession) xác tàu Titanic. Tòa phúc thẩm đưa vụ này sang Tòa địa phương để phán quyết quyền khai thác (225 triệu dollar theo yêu cầu của RMS Titanic Inc.).[30]
Cuốn sách Quay trở lại Titanic của Ballard, được Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ xuất bản có chứa nhiều bức hình cho thấy tình trạng xuống cấp của boong đi dạo và sự hư hại được cho là bởi những tàu lặn du lịch gây ra khi đỗ xuống; tuy nhiên, Ballard là người đầu tiên đưa một camera vào bên trong xác tàu, và cũng là người đầu tiên nhiều lần liên tục đi vào bên trong xác tàu bằng tàu lặn. Cột buồm hầu như đã hư hại hoàn toàn và Ballard đã nhiều lần đưa ra lời cáo buộc rằng chiếc chuông và đèn bằng đồng trên đó đã bị những kẻ hôi đồ lấy đi, dù trên chính những bức hình do ông ta chụp đều cho thấy chiếc chuông không bao giờ có mặt trên cột buồm -nó đã được phát hiện trên đáy biển. Thậm chí tấm biển ghi nhớ do Ballard để lại sau chuyến khảo sát lần thứ hai của ông ta cũng được cho là đã bị lấy đi; Ballard đã thay tấm biển này năm 2004. Những cuộc khảo sát gần đây, đáng chú ý nhất là của James Cameron, đã lặn xuống xác tàu để tìm hiểu kỹ về địa điểm và khám phá những phần chưa từng được xem xét của chiếc tàu trước khi Titanic bị phá hủy hoàn toàn.
Titanic đã là đề tài và bối cảnh của rất nhiều bộ phim nhựa và phim truyền hình. Nổi tiếng nhất trong số đó là:
Câu chuyện cũng đã được đưa vào vở nhạc kịch, Titanic của Broadway, kịch bản Peter Stone với âm nhạc bởi Maury Yeston. Titanic được trình chiếu từ năm 1998 tới 2000. Vở nhạc kịch Broadway năm 1960 The Unsinkable Molly Brown nói về cuộc đời của người hành khách thoát nạn Margaret Brown, trong đó có một phần các sự kiện trên Titanic. Richard Morris viết kịch bản với nhạc của Meredith Willson. Phiên bản điện ảnh của tác phẩm này được phát hảnh năm 1964.
Một số loại hình giải trí khác bao gồm Titanic: Adventure Out of Time, một trò chơi trên máy tính lấy bối cảnh Titanic. Starship Titanic là một trò chơi khác diễn ra tại vũ trụ Hitchhiker's Guide to the Galaxy và là một sự nhái lại thảm họa Titanic. Nhiều xâu diễn truyền hình tại các nước phương Tây cũng đã đề cập đến thảm họa Titanic. Trong một số bộ phim như Time Bandits, Cavalcade và Ghostbusters II, Titanic có xuất hiện dù ngắn ngủi.
Trong một vở kịch truyền hình mang tên Upstairs, Downstairs, nhân vật Lady Marjorie Bellamy và người may đồ của cô, Maude Roberts, đã là những hành khách trên tàu Titanic khi nó chìm. Roberts đã được đưa lên một thuyền cứu sinh trong khi Lady Marjorie đã chìm cùng con tàu.
Titanic cũng đã trở thành chủ đề cho các nhạc phẩm, nổi tiếng nhất trong số đó có lẽ là The Sinking of the Titanic (1969), một tác phẩm của nhà soạn nhạc Gavin Bryars. Bản ghi đầu tiên của nhạc phẩm này xuất hiện trong Obscure Records của Brian Eno's vào năm 1975. Một bản thu âm khác vào năm 1994 được phối khí bởi Aphex Twin thành Raising the Titanic (sau đó được đưa vào album 26 Mixes for Cash).
Năm 1982, nhà soạn nhạc và ca sĩ nổi tiếng Francesco De Gregori xuất bản album Titanic, với ba nhạc phẩm (Titanic, I muscoli del capitano and L'abbigliamento di un fuochista) nói về con tàu cũng như thủy thủ đoàn.
Cuộc biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989, hay Thảm sát quảng trường Thiên An Môn, Cuộc xô xát ngày 4 tháng 6, hay Tình trạng náo động từ mùa Xuân tới mùa Hè năm 1989 theo Chính phủ Trung Quốc, là một loạt những vụ biểu tình của sinh viên, trí thức và những nhà hoạt động công nhân lãnh đạo ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ 15 tháng 4 đến 4 tháng 6 năm 1989,
(theo chính quyền Trung Quốc) do bất bình về tham nhũng của chính
quyền, những cuộc đụng độ đã khiến 800 dân thường thiệt mạng, 10.000
người bị thương. Nhưng bệnh viện địa phương đưa ra con số khoảng 2.000.
Sau khi những người biểu tình bất chấp kêu gọi giải tán của chính phủ, một sự chia rẽ xảy ra bên trong Đảng cộng sản về việc giải quyết vấn đề với những người biểu tình theo cách nào. Trong những nhóm đang tranh cãi nhau, một phe cứng rắn nổi lên và quyết định đàn áp cuộc biểu tình mà không cần để ý tới những yêu cầu của họ.
Ngày 20 tháng 5, chính phủ tuyên bố thiết quân luật và vào đêm ngày 3 tháng 6, sáng ngày 4 tháng 6, xe tăng và bộ binh quân đội được gửi tới quảng trường Thiên An Môn để đàn áp phong trào và giải tán những người biểu tình. Những ước tính về con số thiệt mạng dân sự khác nhau: 4000-8000 (CIA), 2.600 (Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc) và một nguồn chưa được xác định khác là 5.000. Số người bị thương từ 7.000 đến 10.000. Tiếp sau cuộc bạo lực, chính phủ tiến hành nhiều cuộc bắt giữ để đàn áp những người ủng hộ phong trào, cấm đoán báo chí nước ngoài và kiểm soát nghiêm ngặt việc đưa tin các sự kiện của báo chí Trung Quốc. Cuộc đàn áp bằng bạo lực đối với những người biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn đã gây nên sự chỉ trích rộng rãi của quốc tế đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa[1].
Tại Trung Quốc, vụ này thường được gọi là Sự kiện mùng 4 tháng 6 (六四事件) hay Phong trào mùng 4 tháng 6 (六四运动). Tên sau được đặt theo tên của hai hành động phản kháng khác cũng xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn: Phong trào mùng 4 tháng 5 năm 1919 và Phong trào mùng 5 tháng 4 năm 1976.
Đây là biến cố quốc tế nên đông đảo truyền thông thế giới có mặt để tường thuật. Các cuộc biểu tình kéo dài khiến lãnh đạo Bắc Kinh lúng túng. Vì muốn thách thức Gorbachyov tiến hành cải cách nên họ không dám ngăn chặn biểu tình, trong khi nhiều đảng viên cao cấp lại tỏ vẻ ủng hộ, thậm chí yểm trợ dân biểu tình.
Đến khi sự việc xảy ra quá tầm kiểm soát của chính quyền thì họ chỉ còn giải pháp là "tắt đèn nổ súng". Triệu Tử Dương muốn can cả hai, chính quyền và dân biểu tình, mà không nổi. Ông xuất hiện lần cuối, giữa đám biểu tình vào ngày 19 tháng 5 năm 1989, với nước mắt lưng tròng và tay cầm loa để nói là mình đến quá trễ.
Hơn 10 ngày sau, quân đội tiến vào thủ đô Bắc Kinh, yêu cầu báo chí rút lui và rạng ngày 4 tháng 6, đám biểu tình bị giải tán, hàng ngàn người bị tàn sát ngay tại Quảng trường Thiên An Môn. Con số chính thức là bao nhiêu thì Bắc Kinh không nói và không ai biết được. Con số bán chính thức từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là 2.600 người.
Những cuộc biểu tình đã có xung lượng sau khi có tin tức về những cuộc xô xát giữa sinh viên và cảnh sát; sinh viên tin rằng truyền thông Trung Quốc đã bóp méo tính chất hành động của họ và nó càng khiến sự kiện được nhiều người ủng hộ hơn dù một tờ báo quốc gia, tờ Khoa học và Kỹ thuật (科技日报) xuất bản ngày 19 tháng 4, có một bài viết về cuộc biểu tình ngồi ngày 18 tháng 4.
Trong đêm ngày 21 tháng 4, ngày trước lễ tang Hồ Diệu Bang, khoảng 100.000 sinh viên đã tuần hành trên Quảng trường Thiên An Môn và tụ tập ở đó trước khi nơi này bị đóng cửa chuẩn bị cho lễ tang. Ngày 22 tháng 4, họ đã yêu cầu gặp mặt thủ tướng Lý Bằng nhưng không được đáp ứng (Lý Bằng là người được đa số cho là đối thủ chính trị của Hồ Diệu Bang). Cùng ngày hôm ấy, những cuộc phản kháng diễn ra tại Tây An (Thiểm Tây) và Trường Sa (Hồ Nam).
Từ 21 tháng 4 tới 23 tháng 4, sinh viên tại Bắc Kinh kêu gọi một cuộc bãi khoá. Những hồi chuông báo động đã gióng lên bên trong chính phủ, họ nhận thức rõ cơn bão chính trị do Sự kiện Thiên An Môn ngày 5 tháng Tư (四五天安门事件 Tứ ngũ Thiên An Môn sự kiện) năm 1976 khi ấy đã được hợp pháp hóa gây ra. Ngày 26 tháng 4, sau một bài diễn văn nội bộ của Đặng Tiểu Bình, tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nhân dân Nhật báo, ra một bài xã luận trang nhất với tiêu đề "Dương cao ngọn cờ phản đối bất kỳ sự xáo động nào" để tìm cách tập hợp công luận sau lưng chính phủ và buộc tội "một số kẻ cơ hội lạc lõng" đang âm mưu gây bất ổn dân sự[2]. Bài báo làm sinh viên nổi giận và vào ngày 27 tháng 4 khoảng 50.000 sinh viên tụ tập trên các đường phố Bắc Kinh, bất chấp lời cảnh báo đàn áp của chính phủ, yêu cầu chính phủ rút lại bài báo.
Tại Bắc Kinh, đa số sinh viên từ nhiều trường cao đẳng và đại học đã tham gia với sự ủng hộ của các giáo sư và giới trí thức khác. Sinh viên khước từ các thành viên chính thức từ các hiệp hội sinh viên do Đảng Cộng sản kiểm soát và lập lên những hiệp hội tự quản của riêng mình. Sinh viên tự coi mình là những người Trung Quốc yêu nước, bởi họ được thừa hưởng giá trị "khoa học và dân chủ" của Phong trào Ngũ Tứ năm 1919. Những cuộc biểu tình cũng khiến mọi người nhớ lại Phong trào Tứ Ngũ (四五运动 Tứ ngũ vận động) cuối cùng đã dẫn tới sự ra đi của bè lũ bốn tên. Ban đầu chỉ có mục đích tưởng niệm Hồ Diệu Bang, người được sinh viên coi là một nhân vật ủng hộ dân chủ, hành động của sinh viên dần phát triển thành phong trào phản đối tham nhũng và yêu cầu tự do báo chí và sự chấm dứt, hay cải cách, sự cầm quyền tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Đảng Cộng sản và Đặng Tiểu Bình, người lãnh đạo tối cao trên thực tế của Trung Quốc. Những nỗ lực liên lạc và liên kết với sinh viên và công nhân ở các thành phố khác cũng mang lại một số thành công.
Dù những cuộc biểu tình ban đầu là của sinh viên và giới trí thức, những người cho rằng các cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình vẫn chưa đủ tầm và Trung Quốc cần phải cải cách cả hệ thống chính trị, họ nhanh chóng có được sự ủng hộ của giới công nhân thành thị, những người cho rằng các cuộc cải cách đã đi quá xa. Điều này xảy ra bởi những người lãnh đạo cuộc phản kháng chú trọng vào vấn đề tham nhũng, vấn đề thống nhất cả hai nhóm và bởi sinh viên có thể viện dẫn các nguyên mẫu Trung Quốc của những người trí thức vị tha những người nói ra sự thực với giới cầm quyền.
Không giống những cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1987, gồm chủ yếu sinh viên và giới trí thức, các cuộc phản kháng năm 1989 có được sự hỗ trợ to lớn từ giới công nhân thành thị, những người đang lo lắng trước tình trạng lạm phát và tham nhũng ngày càng gia tăng. Tại Bắc Kinh, họ được rất nhiều người ủng hộ. Họ cũng được ủng hộ tại các thành phố lớn ở khắp Trung Quốc Đại lục như Urumqi, Thượng Hải và Trùng Khánh; và sau này là ở Hồng Kông, Đài Loan và các cộng đồng Hoa kiều ở Bắc Mỹ và châu Âu.
Những cuộc biểu tình và bãi khoá bắt đầu xuất hiện tại nhiều trường đại học ở các thành phố khác, nhiều sinh viên đi tới Bắc Kinh tham gia vào cuộc biểu tình. Nói chung các cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn được tổ chức khá tốt cộng với những cuộc tuần hành hàng ngày của sinh viên từ nhiều trường đại học Bắc Kinh đã thể hiện sự đoàn kết, tẩy chay các lớp học và với những yêu cầu ngày càng gia tăng. Các sinh viên hát "Quốc tế ca", bài thánh ca xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trên đường đi tới và tại quảng trường[3]. Sinh viên thậm chí còn thể hiện hành động tôn trọng đáng ngạc nhiên với chính phủ khi cảnh sát đã bắt giữ ba người từ tỉnh Hồ Nam, gồm cả Dụ Đông Nhạc, những người đã ném mực vào bức chân dung lớn của Mao treo tại phía bắc quảng trường[4].
Cuối cùng sinh viên quyết định rằng để duy trì phong trào của họ cần thiết phải tiến hành một cuộc tuyệt thực. Quyết định này của sinh viên là một thời điểm quyết định trong phong trào. Cuộc tuyệt thực bắt đầu tháng 5 năm 1989 và phát triển lên tới "hơn một nghìn người" (Lưu, 1994, 315). Cuộc tuyệt thực khiến sinh viên nhận được sự ủng hộ từ khắp đất nước và "người dân bình thường tại Bắc Kinh cũng tuần hành để bảo vệ những người tham gia tuyệt thực... bởi hành động tuyệt thực và đương đầu với những sự trả đũa của chính phủ đã thuyết phục được những người quan sát rằng sinh viên không chỉ đòi hòi những quyền lợi cá nhân mà còn cho cả nhân dân Trung Quốc" (Calhoun 1994, 113).
Ngày 19 tháng 5 lúc 4 giờ 50 phút sáng, Tổng bí thư Triệu Tử Dương tới quảng trường và đọc một bài diễn văn hối thúc sinh viên chấm dứt cuộc tuyệt thực. Một phần bài diễn văn của ông đã trở thành câu trích dẫn nổi tiếng, khi ông nói, ám chỉ tới thế hệ người lớn tuổi Trung Quốc, "Chúng tôi đã già, nó không còn là vấn đề với chúng tôi nữa." Trái lại, sinh viên còn trẻ và ông hối thúc họ giữ sức khoẻ và không tự hy sinh mình quá dễ dàng như vậy. Chuyến thăm của Triệu Tử Dương tới quảng trường là lần xuất hiện cuối cùng trước công chúng của ông.
Những nỗ lực đàm phán với chính phủ Trung Quốc, ở khu vực văn phòng lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Nam Hải ngay cạnh đó, đã thành công một phần. Nhờ chuyến thăm của Gorbachyov, báo chí quốc tế có mặt với số lượng lớn trên Lục địa Trung Quốc. Các bài báo phản ánh sự kiện của họ xuất hiện thường xuyên và nói chung ủng hộ những người phản kháng, nhưng tỏ vẻ bi quan rằng họ sẽ khó đạt mục đích. Tới cuối cuộc biểu tình, ngày 30 tháng 5, một bức tượng Nữ thần Dân chủ được dựng lên trên quảng trường và trở thành biểu tượng cho cuộc biểu tình với toàn thể khán giả truyền hình trên thế giới.
Uỷ ban Thường trực Bộ chính trị, cùng các cựu lãnh đạo đảng (đã nghỉ hưu nhưng vẫn có ảnh hưởng trong chính phủ và trong Đảng), ban đầu, hy vọng rằng các cuộc biểu tình sẽ không kéo dài, hay những biện pháp cải cách trong nước và những cuộc điều tra sẽ làm hài lòng những người phản kháng. Họ hy vọng tránh được bạo lực nếu có thể, và ban đầu dựa vào các cơ quan Đảng để thuyết phục sinh viên từ bỏ cuộc biểu tình và quay lại với việc học tập. Một vật cản lớn với hành động ngăn chặn là chính giới lãnh đạo lại ủng hộ nhiều yêu cầu của sinh viên, đặc biệt với những lo ngại trước tình trạng tham nhũng. Tuy nhiên, một vấn đề lớn là các cuộc phản kháng liên quan tới nhiều giới với nhiều mục tiêu khác nhau và vì thế chính phủ không biết phải đàm phán với ai, và những yêu cầu của những người biểu tình là gì. Sự lẫn lộn và thiếu quả quyết trong số những người phản kháng cũng phản ánh sự lẫn lộn và thiếu quả quyết bên trong chính phủ. Tờ Nhân dân Nhật Báo đã đề cập tới tình trạng thiếu quả quyết này và thường thay đổi quan điểm giữa ủng hộ và lên án những người biểu tình.
Trong giới lãnh đạo hàng đầu, Tổng bí thư Triệu Tử Dương ủng hộ mạnh mẽ một cách tiếp cận mềm dẻo với những người biểu tình trong khi Lý Bằng được coi là người muốn đàn áp. Cuối cùng, quyết định đàn áp được một nhóm lãnh đạo lớn tuổi trong đảng, những người coi sự từ bỏ quản lý độc đảng là sự quay trở lại với tình trạng hỗn loạn thời Cách mạng Văn hóa[cần dẫn nguồn]. Dù đa số những thành viên đó không có vị trí chính thức, họ vẫn kiểm soát được quân đội. Đặng Tiểu Bình là chủ tịch Uỷ ban Quân sự Trung ương và có thể tuyên bố thiết quân luật; Dương Thượng Côn là chủ tịch nước, tuy chỉ là một chức vụ mang tính biểu tượng theo Hiến pháp năm 1982, nhưng về pháp lý là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Những lãnh đạo lớn tuổi tin rằng những cuộc biểu tình kéo dài là một mối đe doạ tới sự ổn định của đất nước. Những người biểu tình bị coi là công cụ ủng hộ cho "chủ nghĩa tự do tư sản" đang đứng núp phía sau, cũng như là công cụ của các phe phái trong đảng muốn thực thi hơn nữa các tham vọng cá nhân của họ[cần dẫn nguồn].
Sinh viên đại học tại Thượng Hải cũng xuống đường để kỷ niệm cái chết của Hồ Diệu Bang và phản đối một số chính sách của chính phủ. Trong nhiều trường hợp, họ được sự ủng hộ của các uỷ ban đảng của trường. Giang Trạch Dân, khi ấy là bí thư đảng uỷ thành phố, diễn thuyết trước các sinh viên, bày tỏ sự cảm thông bởi ông cũng từng là một sinh viên hoạt động tích cực trước năm 1949. Cùng lúc ấy, ông nhanh chóng hành động điều các lực lượng cảnh sát tới kiểm soát đường phố và thanh trừng các lãnh đạo Đảng Cộng sản ủng hộ sinh viên.
Ngày 19 tháng 4, các biên tập viên tờ Thế giới kinh tế đạo báo, một tạp chí có khuynh hướng cải cách, quyết định xuất bản, trong số 439 ngày 24 tháng 4, một mục bình luận về Hồ Diệu Bang. Bên trong là một bài viết của Nghiêm Gia Kỳ, với lời lẽ ủng hộ những sinh viên phản kháng tại Bắc Kinh ngày 18 tháng 4, và kêu gọi đánh giá lại việc thanh trừng ông năm 1987. Ngày 21 tháng 4, một quan chức Đảng tại Thượng Hải đã yêu cầu tổng biên tập, Khâm Bản Lập, thay đổi một số đoạn. Khâm Bản Lập từ chối và Trần phải quay sang Giang Trạch Dân, người yêu cầu kiểm duyệt bài báo. Tới thời điểm ấy, đợt báo in đầu tiên đã được phát hành. Số còn lại được xuất bản với một trang trống[6]. Ngày 26 tháng 4, Nhân dân Nhật báo xuất bản bài xã luận lên án cuộc phản kháng của sinh viên. Giang hành động theo hướng này và đình chỉ chức vụ của Khâm Bản Lập. Ông nhanh chóng nổi lên nắm quyền lực sau khi quả quyết dẹp yên những cuộc biểu tình năm 1989.
Tại Hương Cảng, ngày 27 tháng 5 năm 1989, hơn 300.000 người đã tụ họp tại trường đua ngựa Bào Mã Địa trong một sự kiện được gọi là "Những bài hát dân chủ dành cho Trung Quốc". Nhiều nhân vật nổi tiếng người Hồng Kông và Đài Loan đã cùng hát và thể hiện sự ủng hộ của họ với các sinh viên tại Bắc Kinh. Hôm sau, ngày 28 tháng 5, một đám diễu hành do Martin Lee, Szeto Wah và nhiều người khác dẫn đầu đã đi suốt hòn đảo Hồng Kông; 1.5 triệu người đã tham gia.
Cũng có những cuộc biểu tình tại Đài Loan. Chính phủ đã thông qua một điều luật cho rằng họ sẽ cung cấp một hộ chiếu Trung Hoa Dân quốc và hỗ trợ tài chính cho bất kỳ người Trung Quốc nào từ bỏ hộ chiếu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Trên khắp thế giới, ở những nơi có nhiều người Trung Quốc sinh sống, những cuộc tụ tập và tuần hành diễn ra. Nhiều chính phủ, như Hoa Kỳ, Nhật Bản... cũng đưa ra những cảnh báo, khuyến cáo công dân nước mình không tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Binh sĩ và xe tăng thuộc Quân đoàn 27 và 28 Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc được gửi tới kiểm soát thành phố. Quân đoàn 27 nằm dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan có quan hệ với Dương Thượng Côn. Trong một cuộc họp báo, Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush đã thông báo những lệnh trừng phạt với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sau những lời kêu gọi hành động từ phía các thành viên Nghị viện như Thượng nghị sĩ Jesse Helms. Tổng thống Bush cho rằng thông tin tình báo ông nhận được cho thấy một số chia rẽ trong giới chỉ huy quân sự Trung Quốc, và thậm chí cả khả năng những vụ xung đột bên trong quân đội trong những ngày đó. Các báo cáo tình báo cũng cho thấy các đơn vị thuộc Quân đoàn 27 và 28 đã được đưa tới từ các tỉnh bên ngoài bởi các đơn vị địa phương của Quân đội Giải phóng Nhân dân được cho là có cảm tình với những người phản kháng và nhân dân trong thành phố. Các phóng viên miêu tả các binh sĩ thuộc Quân đoàn 27 là nhân tố chủ chốt gây thương vong cho dân thường. Sau cuộc tấn công vào quảng trường, Quân đoàn 27 được cho là đã thiết lập các địa điểm phòng thủ tại Bắc Kinh - không phải là kiểu bố trí phòng ngự trước các cuộc tấn công của nhân dân, mà trước những cuộc tấn công của các đơn vị quân đội khác. Mặt khác, Quân đoàn 38 sở tại, được cho là có cảm tình với lực lượng phản kháng. Họ không được cung cấp đạn dược và được cho là đã tự đốt các xe cộ của mình khi từ bỏ chúng để tham gia cuộc phản kháng.[cần dẫn nguồn]
Hành động xâm nhập thành phố của quân đội bị nhiều công dân Bắc Kinh phản đối kịch liệt. Những người biểu tình đốt cháy các xe buýt và sử dụng chúng làm phương tiện cản bước quân đội. Cuộc chiến tiếp tục diễn ra trên các đường phố bao quanh quảng trường, nhiều người phản kháng được cho là đã tiến về phía Quân đội Giải phóng Nhân dân và xây dựng các luỹ bằng xe cộ, trong khi quân đội tìm cách giải toả vật cản bằng hơi cay, súng và xe tăng. Nhiều người bị thương đã được các lái xe đang ở trong vùng trống giữa binh sĩ và các đám đông cứu thoát, đưa tới bệnh viện. Sau cuộc tấn công vào quảng trường, chương trình truyền hình trực tiếp về sự kiện cho thấy nhiều người mang băng đen trên tay phản đối hành động của chính phủ, tụ tập ở nhiều đại lộ đốt cháy các chiến luỹ. Trong lúc ấy, Quân đội Giải phóng Nhân dân thiết lập một cách có hệ thống các điểm kiểm soát bên ngoài thành phố, lùng bắt những người phản kháng và phong toả các khu vực trường đại học.
Ngay bên trong quảng trường, đã có một cuộc tranh luận giữa những người muốn rút lui hòa bình, gồm Hàn Đông Phương, và những người muốn tiếp tục ở lại, như Sài Linh. Cuộc tấn công vào quảng trường bắt đầu lúc 10 giờ 30 phút tối ngày 3 tháng 6, khi xe bọc thép và quân đội vũ trang với lưỡi lê tiến vào từ nhiều hướng đi theo sau là máy ủi và xe bọc thép. Những chiếc xe bọc thép chạy trên đường, bắn thẳng về phía trước và xung quanh, có lẽ đã giết hại và làm bị thương cả một số binh sĩ. Phóng viên BBC Kate Adie đã nhắc đến hành động "bắn bừa bãi" của quân đội bên trong quảng trường. Các sinh viên chạy trốn trong các xe buýt bị các nhóm binh sĩ lôi ra và đánh đập bằng dùi cui. Những sinh viên đang tìm cách rời khỏi quảng trường cũng bị binh sĩ bao vây và đánh đập. Các lãnh đạo cuộc phản kháng bên trong quảng trường, nơi một số người đang tìm các thiết lập các luỹ ngăn xe bọc thép, được cho là đã "van xin" các sinh viên không sử dụng vũ khí (như chai xăng) chống lại quân lính đang tiến tới. Nhiều tiếng la hét của các sinh viên vang lên: "Sao các anh lại giết chúng tôi?". 4 giờ sáng ngày 4 tháng 6, xe tăng tràn vào quảng trường, cán nát các xe cộ và cả người trên đường di chuyển. Tới 5 giờ 40, quảng trường đã bị dẹp tan.
Cuộc đàn áp biểu tình đã trở thành bất tử trong truyền thông phương Tây với đoạn video và những bức ảnh nổi tiếng về một người đàn ông đơn độc mặc áo sơ mi trắng đứng trước một đoàn xe tăng đang tiến vào Quảng trường Thiên An Môn. Được chụp ngày 5 tháng 6 khi đoàn xe đang đi trên giao lộ thuộc Đại lộ Trường An, với hình ảnh một người không vũ khí đứng ở giữa đường, cản bước đoàn xe tăng. Anh ta được cho là đã nói: "Tại sao các anh lại ở đây? Các anh không mang lại gì ngoài sự nghèo khổ." Khi người lính lái tăng tìm cách đi vòng tránh, "Người biểu tình vô danh" tiếp tục cản đường. Anh ta tiếp tục đứng trước đoàn tăng trong một khoảng thời gian, sau đó leo lên tháp pháo chiếc xe dẫn đầu và nói chuyện với những người lính bên trong. Sau khi quay về vị trí chặn đường, anh ta bị những người xung quanh kéo ra, có lẽ họ sợ anh ta sẽ bị bắn hay bị đè nát. Time Magazine đã đặt cho anh cái tên "Người biểu tình vô danh" và sau này coi anh là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Bản tin ngắn trên tờ Sunday Express của Anh đã cho rằng đây là sinh viên Vương Duy Lâm, 19 tuổi, tuy nhiên, sự chân thực của tin này còn đang bị nghi ngờ. Điều gì đã xảy ra với "Người biểu tình vô danh" sau cuộc phản kháng vẫn chưa được biết. Trong một bài phát biểu trước President's Club năm 1999, Bruce Herschensohn — cựu phó trợ lý đặc biệt của Tổng thống Richard Nixon — đã thông báo rằng anh ta đã bị hành quyết 14 ngày sau đó. Trong cuốn Red China Blues: My Long March from Mao to Now (Những nỗi buồn Trung Quốc Cộng sản: Cuộc Trường chinh của tôi từ Mao tới Hiện tại), Jan Wong đã viết rằng người này vẫn đang sống và giấu mặt tại Trung Quốc đại lục. Trong Tử Cấm Thành, tác gia viết cho trẻ em người Canada William Bell tuyên bố rằng người đàn ông đó tên là Vương Ái Dân và đã bị giết hại ngày 9 tháng 6 sau khi bị bắt giam. Tuyên bố chính thức cuối cùng từ phía chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về "Người biểu tình vô danh" là của Giang Trạch Dân trong một cuộc phỏng vấn năm 1990 với Barbara Walters; khi được hỏi về "Người biểu tình vô danh", Giang đã trả lời "chàng thanh niên đó không bao giờ, không bao giờ bị giết."
Sau cuộc đàn áp tại Bắc Kinh ngày 4 tháng 6, những cuộc phản kháng tiếp tục diễn ra ở Trung Quốc lục địa trong nhiều ngày nữa. Có những cuộc biểu tình lớn tại Hồng Kông, nơi người dân mặc đồ đen tham gia biểu tình. Có những cuộc biểu tình tại Quảng Châu, và có những cuộc biểu tình lớn tại Thượng Hải và một cuộc tổng đình công. Cũng có những cuộc biểu tình tại các nước khác với nhiều người đeo băng tang đen. Tuy nhiên, chính phủ nhanh chóng giành lại quyền kiểm soát. Dù không có thông báo về những vụ giết hại với số lượng lớn khi các cuộc biểu tình chấm dứt ở những thành phố khác, một cuộc thanh trừng chính trị đã diễn ra trong đó các quan chức chịu trách nhiệm về việc tổ chức hay tha thứ cho những cuộc biểu tình đều bị mất chức, và các lãnh đạo cuộc biểu tình bị tống giam.
Chính phủ Trung Quốc vẫn cho rằng không có người chết bên trong quảng trường, dù những đoạn video được quay ở thời điểm đó cho thấy có những tiếng đạn bắn. Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện tuyên bố rằng "hàng trăm binh sĩ Quân đội Giải phóng Nhân dân đã chết và số người bị thương còn nhiều hơn thế"[cần dẫn nguồn]. Yuan Mu, phát ngôn viên Quốc vụ viện, đã nói tổng cộng khoảng 300 người chết, đa số họ là các binh sĩ, cùng với một số người được ông miêu tả là "những tên lưu manh"[7]. Theo Trần Hy Đồng, thị trưởng Bắc Kinh, 200 dân thường và vài chục binh sĩ thiệt mạng[8]. Các nguồn khác cho rằng 3.000 thường dân và 6.000 binh sĩ bị thương[9]. Tháng 5 năm 2007, thành viên Chính hiệp Toàn quốc Trung Quốc tại Hương Cảng, Chang Ka-mun, nói 300 tới 600 người bị giết tại quảng trường Thiên An Môn. Ông cho rằng "có những kẻ sát nhân vũ trang những người không phải là sinh viên"[10].
Tuy nhiên, các nhà báo nước ngoài, những người chứng kiến vụ việc đã tuyên bố có ít nhất 3.000 người chết. Một số bảng liệt kê con số thương vong do những nguồn bí mật cung cấp cho thấy con số lên tới 5.000[11].
Thống kê và ước tính từ nhiều nguồn và nhóm khác nhau cho thấy:
Các hoạt động biểu tình nhỏ hơn tiếp tục diễn ra ở các thành phố khác trong vài ngày. Một số cán bộ các trường đại học và sinh viên, những người đã chứng kiến các vụ giết hại tại Bắc Kinh đã tổ chức lại hay khuyến khích khác sự kiện tưởng nhớ khi họ quay về. Tuy nhiên, những hành động đó nhanh chóng bị dập tắt, và những người tổ chức bị thanh trừng.
Giới chức Trung Quốc nhanh chóng xét xử và hành quyết nhiều công nhân bị bắt giữ tại Bắc Kinh. Trái lại, các sinh viên - nhiều người trong số họ xuất thân từ các gia đình có ảnh hưởng và có quan hệ tốt với chính quyền - bị kết án nhẹ hơn. Thậm chí Vương Đan, lãnh đạo sinh viên và là người đứng đầu trong danh sách truy nã, cũng chỉ bị kết án bảy năm tù. Tuy thế, nhiều sinh viên và cán bộ các trường đại học bị ghi vào sổ đen chính trị, một số người không bao giờ được bổ dụng lần nữa.
Giới lãnh đạo Đảng trục xuất Triệu Tử Dương khỏi Ủy ban Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì ông phản đối thiết quân luật, Triệu Tử Dương bị quản thúc tại gia cho tới khi chết. Hồ Khởi Lập, một thành viên khác của Uỷ ban thường trực Bộ chính trị phản đối thiết quân luật bị tước quyền bỏ phiếu, và cũng bị trục xuất khỏi uỷ ban. Tuy nhiên, ông vẫn giữ được đảng tịch, và sau khi "thay đổi quan điểm", được tái bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Máy xây dựng và Điện tử. Những lãnh đạo Trung Quốc có đầu óc cải cách khác như Vạn Lý bị quản thúc tại gia ngay lập tức khi ra khỏi máy bay sau một chuyến công du nước ngoài bị cắt ngắn tại Sân bay Quốc tế Thủ đô Bắc Kinh, với lời giải thích chính thức vì "các lý do sức khoẻ". Khi Vạn Lý được bãi bỏ quản thúc tại gia sau khi "đã thay đổi ý kiến" ông ta, giống như Kiều Thạch, được chuyển tới một ví trí khác tương đương nhưng chỉ có thực quyền nghi lễ.
Sự kiện này giúp Giang Trạch Dân - khi ấy là thị trưởng Thượng Hải và không liên quan tới sự kiện này - trở thành Chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Các thành viên chính phủ đã chuẩn bị một sách trắng giải thích quan điểm của chính phủ về những cuộc biểu tình. Một nguồn không được tiết lộ bên trong chính phủ Trung Quốc đã đưa lậu văn bản ra khỏi Trung Quốc và Public Affairs đã xuất bản nó vào tháng 1 năm 2001 với tên gọi Tiananmen Papers (Hồ sơ Thiên An Môn). Hồ sơ này bao gồm một đoạn trích từ câu nói của cựu lãnh đạo Đảng Vương Chấn ám chỉ sự đối phó với cuộc biểu tình của chính phủ.
Hai phóng viên đưa tin về sự kiện này ngày 4 tháng 6 trong bản tin hàng ngày lúc 19 giờ (7 giờ tối) trên Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc đã bị sa thải bởi họ thể hiện tình cảm đau xót. Ngô Tiểu Dũng, con trai một thành viên Uỷ ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, và cựu bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc và phó thủ tướng Ngô Học Khiêm bị đuổi khỏi Ban tiếng Anh Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc. Tiền Lý Nhân, giám đốc Nhân dân Nhật báo (tờ báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc), cũng bị huyền chức vì các bài viết bày tỏ cảm tình với các sinh viên trên tờ báo này.
Sau này tất cả các mạng truyền thông quốc tế đều bị ra lệnh ngừng đưa tin từ thành phố trong cuộc đàn áp khi chính phủ ngăn cấm tất cả các cuộc truyền tin qua vệ tinh. Các phóng viên đã tìm cách lách luật, đưa tin qua điện thoại. Những đoạn phim nhanh chóng được đưa lậu ra khỏi Trung Quốc, gồm cả hình ảnh "Người biểu tình vô danh". Mạng truyền thông duy nhất ghi được một số hình ảnh trong đêm là TVE[15][16].
Phóng viên CBS Richard Roth và người quay phim của mình đã bị tống giam trong cuộc đàn áp. Roth bị bắt khi đang đưa tin từ quảng trường qua điện thoại di động. Với giọng nói như đang phát điên, mọi người nghe được anh ta kêu những tiếng giống như "Ôi, không! Ôi, không!" trước khi điện thoại bị tắt. Sau này anh ta đã được thả ra, chỉ bị thương nhẹ trên mặt sau một cuộc ẩu đả với các nhân viên an ninh Trung Quốc đang tìm cách tịch thu chiếc điện thoại. Roth sau này đã giải thích thực tế anh ta nói, "Đi thôi!"
Những hình ảnh về vụ biểu tình - cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản xảy ra cùng thời gian ấy tại Liên bang Xô viết và Đông Âu - đã góp phần mạnh mẽ hình thành nên các quan điểm và chính sách của phương Tây với Trung Quốc trong thập niên 1990 và trong cả thế kỷ 21. Các sinh viên biểu tình nhận được nhiều cảm tình từ phương Tây. Hầu như ngay lập tức, cả Hoa Kỳ và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu thông báo một lệnh cấm vận vũ khí, và hình ảnh một quốc gia đang cải cách cũng như một đồng minh giá trị chống lại Liên bang Xô viết của Trung Quốc đã bị thay thế bằng một chế độ độc tài. Các cuộc phản kháng tại Thiên An Môn thường dẫn tới các cuộc tranh luận về tự do hóa thương mại với Trung Quốc lục địa và bởi Blue Team của Hoa Kỳ như một bằng chứng rằng chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một mối đe doạ với hòa bình thế giới và các lợi ích của Hoa Kỳ.
Trong giới sinh viên Hoa kiều, các cuộc phản kháng tại Thiên An Môn đã dẫn tới việc thành lập các mạng lưới tin tức Internet như China News Digest và Tổ chức phi chính phủ China Support Network. Như một hậu quả từ sự kiện Thiên An Môn, các tổ chức như China Alliance for Democracy (Liên minh Trung Quốc vì Dân chủ) và Hiệp hội Tự trị Sinh viên và Học giả Trung Quốc đã được thành lập, dù các tổ chức này có ít ảnh hưởng chính trị từ sau thời gian giữa thập niên 1990.
Tại Hồng Kông, các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn đã dẫn tới những lo ngại rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ không thực hiện các cam kết một quốc gia, hai chế độ khi nhận lại hòn đảo này năm 1997. Một hậu quả của nó là việc vị toàn quyền mới, Chris Patten, đã tìm cách mở rộng quyền cho Hội đồng Lập pháp Hồng Kông dẫn tới sự xích mích với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đã có những cuộc thắp nến tưởng niệm thu hút hàng chục nghìn người ở Hồng Kông hàng năm từ năm 1989 và những cuộc tưởng niệm đó vẫn tiếp tục diễn ra sau khi quyền lực đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997.
Những cuộc phản kháng cũng đánh dấu một sự thay đổi trong các quy ước chính trị, là đầu mối của các chính sách tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trước cuộc phản kháng, theo hiến pháp năm 1982, Chủ tịch nước chủ yếu chỉ là một chức vụ mang tính biểu tượng. Theo quy ước, quyền lực được phân chia giữa ba chức vụ Chủ tịch, Thủ tướng và Tổng thư ký Đảng Cộng sản Trung Quốc, mỗi người trong số họ đều đại diện cho một nhóm khác nhau, nằm ngăn chặn sự độc quyền thái quá kiểu Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, sau khi Dương Thượng Côn sử dụng quyền lực người đứng đầu nhà nước của mình để huy động quân đội, chức Chủ tịch một lần nữa lại là chức vụ nắm quyền lực thực sự. Vì thế, Chủ tịch nước đồng thời là Tổng thư ký Đảng cộng sản Trung Quốc, và được coi là người nắm quyền thực sự.
Năm 1989, cả quân đội Trung Quốc và cảnh sát Bắc Kinh đều không có phương tiện chống bạo động thích hợp, như đạn cao su, hơi cay vẫn thường được sử dụng ở phương Tây đối phó với các cuộc bạo loạn[18]. Sau các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn, cảnh sát chống bạo động tại các thành phố Trung Quốc đã được trang bị các vũ khí không gây chết người để kiểm soát bạo loạn.
Các lãnh đạo cuộc biểu tình tại Thiên An Môn không thể lập ra một phong trào hay một ý thức hệ chặt chẽ có khả năng tồn tại sau khoảng giữa thập niên 1990. Đa số lãnh đạo sinh viên đều xuất thân từ tầng lớp khá cao trong xã hội và được coi là ngoài tầm với của người dân thường. Một số trong số họ là những người theo chủ nghĩa xã hội và muốn đưa Trung Quốc trở về với con đường của chủ nghĩa xã hội. Nhiều tổ chức bắt đầu xuất hiện sau sự kiện Thiên An Môn nhanh chóng tan rã vì những cuộc đấu đá lẫn nhau. Nhiều nhà hoạt động dân chủ ở nước ngoài ủng hộ việc hạn chế thương mại với Trung Quốc đại lục dần mất tần ảnh hưởng cả trong và ngoài Trung Quốc. Một số tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Hoa Kỳ, với mục tiêu đưa cải cách dân chủ vào Trung Quốc không ngừng đưa ra các cáo buộc vi phạm nhân quyền tại Trung Quốc vẫn còn đó. Một trong những tổ chức lâu đời và có ảh hưởng nhất là China Support Network (CSN), được thành lập năm 1989 bởi một nhóm nhà hoạt dộng người Mỹ và Trung Quốc sau sự kiện Quảng trường Thiên An Môn.
Trong giới trí thức ở Trung Hoa lục địa, dấu ấn của các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn dường như đã tạo nên một kiểu chia tách thế hệ. Giới trí thức, những người ở tuổi 20 khi các cuộc biểu tình diễn ra thường ít có cảm tình với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hơn những sinh viên trẻ sinh ra sau những cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình[cần dẫn nguồn].
Trong giới công nhân thành thị, việc tiếp tục các cuộc cải cách thị trường trong thập niên 1990 đã mang lại cho họ tiêu chuẩn sống cao hơn cũng như một đảm bảo kinh tế tốt hơn.
Năm 2006, chương trình "Frontline" trên kênh PBS của Mỹ phát sóng một đoạn phim được quay tại Đại học Bắc Kinh, nhiều sinh viên ở trường này từng tham gia vào cuộc biểu tình năm 1989. Bốn sinh viên được hỏi về bức ảnh "Người biểu tình vô danh" nhưng không ai trong số họ biết sự kiện đó là gì. Một số trả lời đó là một cuộc duyệt binh hay một bức hình minh hoạ.
Tuy nhiên, các chương trình đưa tin tại Trung Quốc chỉ coi việc đàn áp là một hành động cần thiết để đảm bảo sự ổn định. Với giới trẻ Trung Quốc, thông thường họ không biết gì về những người biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn[19]. Hàng năm, có một cuộc tuần hành lớn tại Hồng Kông, nơi mọi người tưởng niệm các nạn nhân và yêu cầu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay đổi quan điểm chính thức của mình.
Những bức thư thỉnh cầu về vụ việc vẫn thỉnh thoảng xuất hiện, đáng chú ý nhất là của Tiến sĩ Tưởng Ngạn Vĩnh và Những bà mẹ Thiên An Môn, một tổ chức được bà mẹ của một trong những nạn nhân bị giết hại năm 1989 lập ra để các gia đình tìm kiếm sự thực, sự bồi thường cho những đứa con đã mất, và quyền nhận quà tặng, đặc biệt là từ nước ngoài[20]. Quảng trường Thiên An Môn được tuần tra chặt chẽ trong ngày kỷ niệm mùng 4 tháng 6 hàng năm để ngăn chặn bất kỳ hành động tưởng niệm nào có thể diễn ra tại đây.
Sau khi chính phủ trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cải tổ nhân sự năm 2004, nhiều thành viên nội các đã đề cập tới sự kiện Thiên An Môn. Tháng 10 năm 2004, trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào tới Pháp, ông đã lặp lại rằng "chính phủ tiến hành biện pháp kiên quyết để dẹp yên cơn bão chính trị năm 1989, và cho phép Trung Quốc có một chính phủ ổn định". Ông nhấn mạnh rằng quan điểm của chính phủ về sự kiện này sẽ không thay đổi.
Tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã nói trong một cuộc họp báo rằng trong thập niên 1990 đã có một cơn bão chính trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong bối cảnh tan rã của Liên Xô và những thay đổi tận gốc rễ ở Đông Âu. Ông nói rằng Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản đã thành công trong việc đưa ra chính sách mở cửa ổn định và bảo vệ "Sự nghiệp Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc".
Năm 2005, Lý Ngao, một nhà hoạt động chính trị Đài Loan và một nhân vật truyền hình nổi tiếng, đã có một bài nói chuyện tại Đại học Bắc Kinh. Ông đã ám chỉ đến cuộc biểu tình năm 1989 khi nhắc tới sự kiện Bonus March[21] tại Hoa Kỳ gần 50 năm trước, trong cuộc Đại Khủng hoảng. Trong bài nói này, ông thêm rằng bất kỳ một chính phủ quốc gia nào trên thế giới đều phải dùng tới sức mạnh quân sự khi quyền lực của họ bị đe doạ.
Tháng 1 năm 2006, Google đã đồng ý kiểm duyệt site của họ tại Trung Quốc đại lục (http://www.google.cn/) để loại bỏ các thông tin về vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989[24], cũng như các chủ đề khác như Độc lập Tây Tạng, phong trào tinh thần đã bị cấm Pháp Luân Công và Vị thế chính trị Đài Loan. Khi mọi người tìm kiếm các thông tin bị kiểm duyệt đó, sẽ có thông báo sau xuất hiện ở cuối mỗi trang liệt kê kết quả tìm kiếm: "Theo pháp luật pháp quy và chính sách nơi này, một bộ phận kết quả tìm kiếm chưa thể hiển thị". Các bài viết của Wikipedia về cuộc biểu tình năm 1989 cả bằng tiếng Anh và trên Wikipedia Trung văn, là một nguyên nhân dẫn tới sự phong tỏa Wikipedia của chính quyền đại lục.
Ngày 15 tháng 5 năm 2007, lãnh đạo Liên minh Dân chủ về sự Cải tiến ở Hương Cảng ủng hộ Bắc Kinh đã bị nhiều người chỉ trích khi tuyên bố "đó không phải là một vụ thảm sát", bởi không có "phát bắn có chủ đích và bừa bãi nào". Ông nói điều này cho thấy Hương Cảng "chưa đủ chín chắn" khi tin vào những tuyên bố bừa bãi của nước ngoài rằng đã xảy ra một vụ thảm sát. Ông nói vì Hương Cảng thiếu chủ nghĩa yêu nước và tính đồng nhất quốc gia, nên "chưa sẵn sàng cho dân chủ cho tới năm 2022"[25]. Những lời tuyên bố của ông đã bị lên án mạnh mẽ.
Ngày 4 tháng 6 năm 2007, ngày kỷ niệm vụ thảm sát một đoạn quảng cáo với dòng chữ "Để tỏ lòng kính trọng tới những bà mẹ kiên cường của những nạn nhân ngày 4 tháng 6" đã xuất hiện trên Thành Đô vãn báo. Sự việc đang được chính phủ Trung Quốc điều tra, và ban biên tập viên đã bị sa thải[26][27]. Người thư ký thông qua đoạn quảng cáo này được cho là chưa từng nghe về vụ đàn áp ngày 4 tháng 6 và đã được nói rằng nó chỉ đề cập tới ngày kỷ niệm một thảm hoạ hầm mỏ[28].
Lệnh cấm vận vũ khí đã được thảo luận tại một cuộc họp thượng đỉnh Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa-EU tại Hà Lan từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 12 năm 2004. Trong khi cuộc họp thượng đỉnh diễn ra, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tìm cách gia tăng sức ép lên Hội đồng EU để dỡ bỏ lệnh cấm vận khi cảnh báo rằng lệnh này sẽ làm tổn hại tới những mối quan hệ Trung Hoa-EU. Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Zhang Yesui gọi lệnh này là "lỗi thời", và ông nói với các nhà báo "nếu lệnh cấm được duy trì, quan hệ song phương chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng". Cuối cùng, Hội đồng Châu Âu vẫn không dỡ bỏ lệnh cấm vận. Người phát ngôn EU Françoise le Bail nói vẫn còn có những lo ngại về cam kết của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về nhân quyền. Nhưng ở thời điểm đó, EU thực sự có cam kết đàn phán để dỡ bỏ lệnh cấm vận.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp tục gây áp lực đòi dỡ bỏ lệnh này, và một số quốc gia thành viên đã bắt đầu từ bỏ quan điểm của mình. Jacques Chirac đã yêu cầu hủy bỏ lệnh này từ giữa năm 2005. Tuy nhiên, "Luật Chống chia cắt đất nước" của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thông qua tháng 3 năm 2005 đã làm gia tăng căng thẳng giữa hai bờ eo biển Đài Loan, đe dọa những nỗ lực dỡ bỏ cấm vận, và nhiều thành viên Hội đồng Châu Âu đã thay đổi ý định. Các thành viên Hạ viện Hoa Kỳ cũng đã đề xuất những hạn chế trong việc chuyển giao các kỹ thuật quân sự cho EU nếu họ dỡ bỏ lệnh cấm vận. Vì thế Hội đồng Châu Âu không đạt được sự đồng nhất, dù Pháp và Đức vận động cho việc này, lệnh cấm vận vẫn được duy trì.
Anh Quốc nắm chức Chủ tịch EU tháng 7 năm 2005, khiến việc dỡ bỏ lệnh này trong thời gian giữ chức vụ của họ không thể diễn ra. Anh Quốc luôn giữ một số quan điểm trong việc dỡ bỏ cấm vận và muốn để nó sang một bên, hơn là làm xấu đi quan hệ EU-Hoa Kỳ. Các vấn đề khác như sự thất bại của Hiến pháp Châu Âu và sự bất đồng tiếp diễn về Ngân sách Châu Âu cũng như Chính sách Nông nghiệp chung khiến lệnh cấm vận càng ít được chú ý. Anh Quốc muốn dùng chức chủ tịch của mình để tăng cường cải cách bán xỉ trong EU, vì thế việc dỡ bỏ cấm vận càng không có cơ hội xảy ra. Việc José Manuel Barroso trúng cử chức Chủ tịch Ủy ban Châu Âu càng gây khó khăn cho việc dỡ bỏ cấm vận. Tại một cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo Trung Quốc hồi giữa tháng 7 năm 2005, ông nói thành tích nhân quyền kém cỏi của Trung Quốc sẽ cản trở bất kỳ thay đổi nào trong lệnh cấm bán vũ khí cho Trung Quốc của EU[29].
Chính trị cũng đã thay đổi tại các quốc gia từng ủng hộ việc dỡ bỏ cấm vận. Schröder thất bại trong cuộc bầu cử liên bang Đức năm 2005 trước Angela Merkel, bà trở thành Thủ tướng ngày 22 tháng 11 năm 2005 - Merkel tỏ rõ quan điểm phản đối việc dỡ bỏ lệnh cấm. Jacques Chirac đã tuyên bố ông không ra tranh cử chức Tổng thống Pháp một lần nữa năm 2007. Người kế nhiệm ông, Nicolas Sarkozy, có khuynh hướng thân Mỹ hơn và cũng không ủng hộ việc dỡ bỏ lệnh cấm.
Ngoài ra, Nghị viện Châu Âu luôn phản đối việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Trung Quốc. Dù việc không cần có sự đồng ý của cơ quan này trong việc hủy bỏ lệnh cấm, nhiều người cho rằng điều này phản ánh đúng lòng mong muốn của nhân dân Châu Âu hơn vì đây là cơ quan đại biểu do người dân Châu Âu trực tiếp bầu ra— Hội đồng Châu Âu được chỉ định bởi các quốc gia thành viên. Nghị viện Châu Âu đã nhiều lần phản đối bất kỳ một sự dỡ bỏ lệnh cấm buôn bán vũ khí nào với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Sơ khai
- Báo chí Việt Nam thời Pháp thuộc
- Báo chí Sài Gòn
- Chữ Quốc ngữ
- Sơ khai Việt Nam
- Khởi đầu năm 1865
- Chấm dứt năm 1897
- Chấm dứt năm 1909
RMS Titanic
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về tàu Titanic. Đối với bài về phim Titanic năm 1997, xem Titanic (phim 1997).
RMS Titanic | |
---|---|
RMS Titanic khởi hành đến Southampton ngày 10 tháng 4, 1912 |
|
Thông tin chung | |
Phục vụ | |
Số hiệu | Mã vô tuyến điện "MGY" |
Chủ sở hữu | White Star Line |
Cảng đăng ký | Liverpool, Liên hiệp Anh |
Đóng tàu | |
Hãng đóng tàu | Harland and Wolff, Belfast (số hiệu xưởng: 401) |
Đặt hàng | 17 tháng 9, 1908 |
Đặt lườn | 31 tháng 3, 1909 |
Hạ thủy | 31 tháng 5, 1911 |
Hoàn thành | 2 tháng 4, 1912 |
Đặt tên thánh | Không đặt tên thánh |
Hoạt động và tình trạng | |
Hoạt động | 10 tháng 4, 1912 |
Chuyến đi đầu tiên | 10 tháng 4, 1912 |
Lộ trình | Southampton đến thành phố New York |
Số phận | Đâm phải băng trôi và chìm vào ngày 15 tháng 4, 1912 trong chuyến đi đầu tiên |
Đặc điểm | |
Lớp và kiểu | Tàu hạng Olympic của White Star Line |
Dung tải | 46.328 GRT |
Trọng tải choán nước | 52.310 tấn |
Chiều dài | 882 ft 6 in (269,0 m) |
Sườn ngang | 92 ft 0 in (28,0 m) |
Chiều cao | 175 ft (53,3 m) (từ đáy đến đỉnh ống khói) |
Mớn nước | 34 ft 7 in (10,5 m) |
Độ sâu | 64 ft 6 in (19,7 m) |
Số boong tàu | 9 (A–G) |
Công suất lắp đặt | 24 nồi hơi kiểu Scotch double-ended và 5 single-ended ở mức 215 psi. Hai động cơ pít tông bốn xi lanh triple-expansion mỗi chiếc tạo ra 15.000 sức ngựa (12 MW) cho hai chân vịt bên ngoài với 75 vòng quay một phút. Một tuốc bin hơn nước áp suất thấp (khoảng 7 psi tối đa) sản xuất ra 16.000 sức ngựa (13,5 MW) cho chân vịt trung tâm. Tổng cộng 59.000 sức ngựa (37 MW) khi quay tối đa |
Động cơ đẩy | Hai chân vịt đồng ba cánh. Một chân vịt đồng bốn cánh ở trung tâm. |
Tốc độ |
|
Sức chứa | Hành khách: 2.435, thủy thủ đoàn: 892 |
Ghi chú | Thuyền cứu sinh: 20, chứa 1.178 người |
Thảm họa Titanic đã là đề tài cho hàng loạt các cuộc điều tra, kiện tụng, giả thuyết ly kì đồng thời dẫn đến các thay đổi lớn trong quy định an toàn hàng hải quốc tế. Titanic cũng trở thành bối cảnh và đề tài cho rất nhiều tác phẩm văn học, hội họa và điện ảnh.
Mục lục
- 1 Các đặc điểm
- 2 Hành khách
- 3 Thảm hoạ
- 4 Tái khám phá
- 5 Tranh chấp và sở hữu
- 6 Tình trạng hiện tại của xác tàu
- 7 Văn hóa đại chúng
- 8 Thư viện ảnh
- 9 Chú giải
- 10 Xem thêm
- 11 Ghi chú
- 12 Tham khảo
- 13 Liên kết ngoài
Các đặc điểm
Xưởng đóng tàu Harland and Wolff
Titanic là một chiếc tàu biển chở khách của Công ty White Star Line được đóng tại xưởng đóng tàu Harland and Wolff ở Belfast và được thiết kế để cạnh tranh với những chiếc tàu sang trọng và có tốc độ nhanh Lusitania và Mauretania của Công ty Cunard Line đối thủ trên Đại Tây Dương. Titanic và những chiếc tàu chị em với mình Olympic cùng Gigantic[1], đều thuộc lớp Olympic và được dự định trở thành những chiếc tàu lớn nhất, sang trọng nhất từng hoạt động. (Cái tên Gigantic theo kế hoạch đã được đổi thành Britannic sau thảm hoạ.) Titanic được chủ tịch của Harland and Wolff Lord Pirrie, lãnh đạo phòng thiết kế của Harland and Wolff Thomas Andrews và quản lý Alexander Carlisle thiết kế, các kế hoạch thường xuyên được gửi tới giám đốc quản lý của White Star Line J. Bruce Ismay để lấy ý kiến và sự đồng thuận. Việc đóng tàu Titanic, được J.P. Morgan và International Mercantile Marine Co. của ông hỗ trợ vốn bắt đầu từ ngày 31 tháng 3 năm 1909. Titanic No. 401 được hạ thủy hai năm hai tháng sau ngày 31 tháng 5 năm 1911. Việc lắp đặt trang bị cho tàu Titanic hoàn thành vào ngày 31 tháng 3 năm sau.Titanic dài 882 feet 9 inches (269 m) và rộng 92 feet 6 inches (28 m) ở sườn ngang (dài hơn 6 inches so với chiếc tàu chị em là RMS Olympic). Tổng lượng chất tải đăng ký là 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 60 feet (18 m). Nó có hai động cơ hơi nước ngược pít tông bốn xi lanh và một tuốc bin Parsons. Những động cơ này làm quay ba chân vịt. Có 25 nồi hơi hai đầu và 4 cái một đầu kiểu Scotch được đun nóng bởi 159 lò đốt than khiến nó có thể đạt tới tốc độ tối đa 23 knot (43 km/g). Chỉ ba trong số bốn chiếc ống khói cao 63 foot (19 m) của nó hoạt động; chiếc thứ tư được dùng thông gió, và được thêm vào để con tàu có hình dáng ấn tượng hơn. Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người gồm cả thủy thủ đoàn, và bởi vì nó có chở thư, tên của nó được thêm tiền tố RMS (Royal Mail Steamer) cũng như SS (Steam Ship).
Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải và là một tiến bộ công nghệ, và được tạp chí The Shipbuilder ca ngợi là "không thể chìm".[2]
Titanic có vỏ hai lớp, chứa 44 bể nước dùng cho nồi hơn và đồ dằn để giữ nó cân bằng trên biển [3] (những chiếc tàu sau này cũng có vỏ hai lớp). Titanic có số thuyền cứu sinh lớn hơn tiêu chuẩn, tổng số 20 chiếc (dù vẫn chưa đủ cho toàn bộ hành khách), và những nhà thiết kế đã thảo luận về việc lắp đặt thêm số thuyền cứu sinh, phụ thuộc vào các vấn đề về chi phí. Titanic được chia thành 16 khoang với cửa ngăn, đóng mở bằng các then cửa điện từ và hoạt động với động tác tắt bật đơn giản từ đài chỉ huy của thuyền trưởng. Tuy nhiên, tính kín nước của cửa ngăn không đạt tới toàn bộ chiều cao của boong, mà chỉ tới boong hạng hai (E-Deck). Titanic vẫn nổi khi bốn khoang bất kỳ ngập nước, hay mười một trong số mười bốn khu thuộc ba khoang ngập nước, hay bốn khoang đầu/cuối ngập nước, ngoài ra nó sẽ chìm.
Sự xa hoa tột bậc
Ở thời đó, Titanic là chiếc tàu xa hoa và lộng lẫy nhất. Nó có một bể bơi trên boong, một phòng tập thể dục, một nhà tắm Thổ Nhĩ Kỳ, một thư viện, và một sân squash.[4] Các phòng hạng nhất thông thường được ốp bằng những thanh gỗ chạm khắc tỉ mỉ, đồ đạc đắt tiền và các trang trí sang trọng khác. Hơn nữa, quán Café Parisienne cung cấp những món ăn tuyệt vời cho khách hạng nhất với một hàng hiên ngập nắng cùng những trang trí tinh xảo.[5]Trang bị tại các phòng hạng hai và hạng ba có lẽ cũng được xếp hàng sang trọng so với những phòng đồng hạng trên các con tàu khác thời ấy. Titanic có ba thang máy dành riêng cho những khách hạng nhất và một sự cải tiến khác, thêm một thang dành cho khách hạng hai.
Nơi được trang trí đẹp nhất trong nội thất con tàu chắc chắn là cầu thang khu vực hạng nhất, nằm giữa ống khói thứ nhất và thứ hai. Cầu thang kéo dài xuống boong hạng hai và được trang trí bằng các phiến gỗ sồi và có lan can mạ vàng, trên đỉnh là một vòm kim loại kính trang trí tỉ mỉ để lấy ánh sáng trời. Đỉnh cầu thang là một tấm gỗ lớn treo một chiếc đồng hồ với những chữ số biểu tượng theo Honour and Glory crowning Time. Một cầu thang tương tự nhưng ít được trang trí hơn nằm giữa ống khói thứ ba và thứ tư.
So sánh với chiếc Olympic
Titanic hầu như giống hệt với chiếc Olympic trước đó và chỉ có một chút khác biệt — một số khác biệt này đã được Bruce Ismay chỉ ra dựa trên những quan sát của ông với chiếc Olympic. Hai trong số những khác biệt đáng chú ý nhất là nửa phần đường đi dạo phía trước của chiếc Titanic trên boong hạng nhất (A-Deck) (dưới boong đặt thuyền cứu sinh) đã được bao kín cách biệt với thời tiết bên ngoài, và hình dạng boong hạng hai của nó hoàn toàn khác so với chiếc Olympic. Titanic có một nhà hàng đặc sản tên gọi Café Parisienne, một đặc điểm mãi tới năm 1913 chiếc Olympic mới có. Một số thiếu sót trên chiếc Olympic, như tiếng kẽo kẹt của khớp nối co giãn phía đuôi, đã được chỉnh sửa trên chiếc Titanic. Những khác biệt khác, như ánh sáng tự nhiên vào boong hạng nhất có hình tròn trong khi ở chiếc Olympic có hình oval. Phòng lái chiếc Titanic hẹp và dài hơn trên chiếc Olympic.[6] Những khác biệt này, và một số thay đổi khác khiến chiếc Titanic lớn hơn chiếc Olympic 1.004 tấn.Hành khách
Danh sách hành khách hạng nhất trên chuyến đi đầu tiên của Titanic gồm một số người giàu có và nổi tiếng nhất thế giới. Trong số họ có nhà triệu phú John Jacob Astor IV, người được coi là giàu nhất trên tàu và bà vợ Madeleine đang mang thai; nhà công nghiệp Benjamin Guggenheim; người sở hữu tập đoàn bán hàng Macy's Isidor Straus và vợ Ida; triệu phú người Denver Margaret "Molly" Brown người được xem là chưa bao giờ biết gục ngã; Ông Cosmo Duff Gordon và vợ, nhà thiết kế thời trang Lady Duff-Gordon chuyên thiết kế quần áo lót cho giới quý tộc; trùm dịch vụ xe chở khách công cộng George Dunton Widener, vợ Eleanor và con trai 27 tuổi, Harry Elkins Widener; Ủy viên Đường sắt Pennsylvania John Borland Thayer, vợ Marion và con trai 17 tuổi, Jack; nhà báo William Thomas Stead; Charles Hays, chủ tịch Grand Trunk Railway của Canada, với vợ, con gái, con rể và hai nhân viên, Noël Leslie, Nữ bá tước của Rothes; sĩ quan phụ tá Tổng thống Hoa Kỳ Archibald Butt; tác gia nổi tiếng Helen Churchill Candee; tác gia Jacques Futrelle, vợ ông May, và bạn bè, những đạo diễn sân khấu Broadway Henry và Rene Harris; nhà văn và họa sĩ Francis Davis Millet; doanh nhân hàng không Pierre Maréchal Sr.;[7] diễn viên phim câm Mỹ Dorothy Gibson, giám đốc điều hành White Star Line J. Bruce Ismay (sống sót sau vụ thảm hoạ) và, trong số những người tham gia đóng tàu, Thomas Andrews, có mặt trên boong để quan sát vấn đề có thể xảy ra và đánh giá mức độ hoạt động của con tàu mới.Những người khách hạng nhất khác, cũng nổi tiếng trong giai thoại về chiếc Titanic là Giáo sư A.P. Kiehl và Tướng Sam Hawkins đều là nhân vật tưởng tượng.
Trong số những hành khách khoang hạng hai có Lawrence Beesley, một nhà báo đã viết một trong những bài bình luận trực tiếp về chuyến đi và sự kiện đắm tàu. Ông rời tàu trên chiếc Thuyền cứu sinh số 13. Cha Thomas R.D. Byles là một linh mục Công giáo đang trên đường tới Hoa Kỳ tham gia lễ cưới của người em trai. Cũng trong số khách hạng hai còn có Michel Navratil, một người Pháp đã bắt cóc hai con trai của mình là Michel Jr. và Edmond và đang đưa chúng sang Mỹ.
Cả J. P. Morgan và Ton Hershey[8] đều có kế hoạch đi trên chiếc Titanic nhưng đã hủy chỗ trước chuyến đi.
Thảm hoạ
Đêm ngày 14-15 tháng 4, 1912, chiếc Titanic đâm phải một núi băng và chìm, với con số thiệt hại nhân mạng lớn.[9] Nhiều con số về số người hành khách và thủy thủ đoàn thiệt mạng đã được đưa ra. Điều tra của Thượng viện Hoa Kỳ đưa ra con số 1.517 người thiệt mạng trong vụ tai nạn,[10] trong khi cuộc điều tra của Anh cho con số này là 1.490 người.[11]Dù sao chăng nữa, mức độ thảm khốc của sự kiện này đã được xếp hạng là một trong những thảm hoạ hàng hải lớn nhất và nổi tiếng nhất trong thời bình. Thiết kế của Titanic sử dụng một số kỹ thuật tiên tiến nhất thời ấy, và chiếc tàu được hầu như tất cả mọi người tin rằng "không thể chìm". Đó là một cú sốc lớn, bởi dù có những kỹ thuật tiên tiến và thủy thủ đoàn giàu kinh nghiệm, chiếc Titanic đã chìm với số thiệt hại nhân mạng to lớn. Các phương tiện truyền thông đại chúng nóng lên vì những nạn nhân Titanic là người nổi tiếng, vì những huyền thoại về điều đã diễn ra trên boong tàu, vì những thay đổi sau đó của luật hàng hải, và sự khám phá xác tàu Titanic vào năm 1985 bởi một đội do Robert Ballard và Jean Louis Michel dẫn đầu khiến chiếc Titanic vẫn rất nổi tiếng dù đã nhiều năm trôi qua. Rõ ràng núi băng đã phá vỡ các tấm vỏ tàu, làm thủng một lỗ lớn khiến nước băng lạnh giá tràn vào trong Titanic.
Thảm họa và những mốc thời gian
Chiếc Carpathia tới New York
Chiếc Carpathia bỏ neo tại Bến 54 ở Đường số 12 Little West ở New York với những người sống sót. Nó tới vào buổi đêm và được hàng ngàn người chờ đón. Titanic đã dự định bỏ neo tại Bến 59 ở Đường số 20. Carpathia thả những chiếc thuyền cứu sinh rỗng của Titanic tại Bến 59, chúng thuộc sở hữu của White Star Line, trước khi đưa những hành khách còn sống sót xuống Bến 54.Cả hai bến đều thuộc Bến Chelsea được xây dựng dành riêng cho những con tàu chở khách hạng sang thời đó.
Khi tin tức về thảm họa lan đi, nhiều người bị sốc vì chiếc tàu Titanic có thể chìm với số thiệt hại nhân mạng lớn đến như vậy, dù nó được đóng với nhiều kỹ thuật tân tiến. Báo chí đầy những câu chuyện và những miêu tả về thảm họa và luôn săn lùng tin tức mới nhất. Nhiều hội từ thiện được lập ra để giúp các nạn nhân và gia đình họ, nhiều gia đình đã mất đi lao động chính, hay, trong trường hợp những người khách hạng ba còn sống sót, mọi thứ họ có. Người dân Southampton bị ảnh hưởng nhiều nhất vụ đắm tàu. Theo tờ Hampshire Chronicle ngày 20 tháng 4 năm 1912, hầu như 1.000 gia đình địa phương đều bị ảnh hưởng trực tiếp. Hầu như mọi con phố thuộc quận Chapel trong thị trấn đều mất ít nhất một người dân và hơn 500 gia đình mất một thành viên của họ.
Điều tra, các quy định an toàn và Californian
Thậm chí trước khi những người sống sót về tới New York, những cuộc điều tra đã được lên kế hoạch nhằm tìm hiểu điều gì đã xảy ra với Titanic, và điều cần làm để tránh một tai nạn tương tự. Thượng viện Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc điều tra về thảm hoạ Titanic ngày 19 tháng 4, một ngày sau khi chiếc Carpathia cập cảng New York.Chủ tịch cuộc điều tra, Thượng nghị sĩ William Alden Smith, muốn thu thập những lời chứng từ phía hành khách và thủy thủ đoàn khi các sự kiện vẫn còn nóng hổi trong tâm trí họ. Smith cũng cần yêu cầu trình diện tòa án đối với các công dân Anh khi họ vẫn đang trên lãnh thổ Mỹ. Cuộc điều tra của người Mỹ kéo dài tới ngày 25 tháng 5.
Sir Mersey được chỉ định lãnh đạo cuộc điều tra thảm họa của Phòng thương mại Anh Quốc. Cuộc điều tra của người Anh diễn ra từ ngày 2 tháng 5 tới 3 tháng 7. Mỗi cuộc điều tra đều lấy lời tường thuật từ cả các hành khách và thủy thủ đoàn Titanic, thủy thủ đoàn chiếc The Californian của Leyland Line, Thuyền trưởng Arthur Rostron chiếc Carpathia và các chuyên gia khác.
Những cuộc điều tra cho thấy nhiều quy định an toàn đã quá lỗi thời và cần thiết phải có các luật mới. Nhiều cải tiến về quy định an toàn hàng hải đối đã được áp dụng, gồm cả việc cải tiến thân tàu và thiết kế vách ngăn, quyền đi lại của hành khách trên toàn bộ con tàu, các yêu cầu về thuyền cứu sinh, thiết kế áo phao, huấn luyện an toàn, thông tin cho hành khách, luật về liên lạc radio, vân vân. Những nhà điều tra cũng thấy rằng Titanic có đủ chỗ trên thuyền cứu sinh cho toàn bộ hành khách hạng nhất, nhưng khách các hạng còn lại không hề được quan tâm. Trên thực tế, đa số hành khách ở khoang hạng ba, hay hạng bét, không hề biết vị trí các thuyền cứu sinh ở đâu, cũng không có nhiều lối để lên các boong trên nơi đặt thuyền. (Theo báo cáo của Lloyd's, tỷ lệ khách nam trên khoang hạng nhất sống sót cao hơn tỷ lệ này của phụ nữ và trẻ em ở khoang hạng ba[cần dẫn nguồn].)
Cả hai cuộc điều tra vụ tai nạn đều thấy rằng chiếc Californian và Thuyền trưởng Stanley Lord, đã không thể giúp đỡ Titanic một cách hiệu quả. Những lời chứng trước cuộc điều tra cho thấy, lúc 10:10 tối, chiếc Californian quan sát thấy ánh sáng của một con tàu ở phía nam; sau đó Thuyền trưởng Lord và sĩ quan hạng ba (người thay Lord chỉ huy lúc 10:10) đồng ý với nhau rằng đó là một chiếc tàu chở khách. Chiếc Californian đã cảnh báo con tàu kia về một núi băng khiến họ phải dừng lại trong đêm. Lúc 11:50 tối, sĩ quan đã thấy ánh sáng trên con tàu kia tắt đi, giống như con tàu bỗng nhiên biến mất nhưng lại thấy ánh sáng phía trái của nó. Các tín hiệu Morse gửi tới con tàu kia, theo lệnh của Lord, đã được đánh đi năm lần trong khoảng 11:30 và 1:00 sáng, nhưng không hề được nhận biết. (Theo lời khai, đèn tín hiệu Morse của chiếc Californian chỉ có tầm hoạt động bốn dặm.)
Thuyền trưởng Lord đã đi ngủ lúc 11:30; tuy nhiên, sĩ quan hạng nhì, khi ấy đang trực, đã thông báo cho Lord rằng lúc 1:15 sáng con tàu kia đã bắn một quả pháo hiệu, tiếp đó là bốn quả nữa. Lord ngờ vực không biết chúng có phải là những "tín hiệu nội bộ công ty" hay không, có nghĩa là màu sắc được sử dụng để xác nhận tên hiệu. Sĩ quan thứ hai nói rằng anh ta "không biết," và rằng toàn bộ những quả pháo hiệu đều màu trắng. Thuyền trưởng Lord ra lệnh cho thủy thủ đoàn tiếp tục đánh tín hiệu Morse cho con tàu kia, và đi ngủ tiếp. Ba phát pháo hiệu tiếp sau được quan sát thấy lúc 1:50 và sĩ quan hạng nhì thấy con tàu kia trông rất kỳ lạ, như đang nghiêng trên mặt nước. Lúc 2:15 sáng, Lord được thông báo không còn nhìn thấy con tàu kia nữa. Lord một lần nữa hỏi những phát pháo hiệu có màu gì, và được trả lời tất cả đều màu trắng.
Californian cuối cùng cũng đã trả lời. Lúc 5:30 sáng sĩ quan hạng nhất đánh thức sĩ quan điện tín, thông báo với anh ta việc quan sát thấy nhiều phát pháo hiệu trong đêm và yêu cầu anh ta liên lạc với một con tàu nào đó. Chiếc Frankfurt đã thông báo với anh ta việc tàu Titanic chìm, Thuyền trưởng Lord được thông tin và con tàu bắt đầu tới hỗ trợ.
Những cuộc điều tra cũng khám phá thực tế tàu Californian ở gần Titanic hơn con số 19½ dặm (36 km) mà Thuyền trưởng Lord tưởng, và rằng đúng ra Lord đã phải đánh thức sĩ quan điện tín ngay sau khi nhận được tin về những phát pháo hiệu, và vì thế có thể hành động kịp thời để ngăn chặn thảm hoạ. Trước việc sĩ quan điện tín trên Californian không làm việc, 29 quốc gia đã phê chuẩn Luật Radio năm 1912, hợp lý hóa thông tin radio, đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp.
Sống sót và tử nạn
Thống kê chung
Theo báo cáo của ủy ban điều tra thành lập bởi Thượng viện Hoa Kỳ, trong tổng số 2.223 người trên tàu, chỉ 706 người sống sót; 1.517 người thiệt mạng.[10] Trong số hành khách hạng nhất, 199 người được cứu (60,5%) và 130 người chết.[10] Trong số hành khách hạng hai, 119 (44%) người sống và 166 người chết.[10] Trong số hành khách hạng ba, 174 người được cứu (24,5%) và 536 người chết.[10] Thủy thủ đoàn, 194 người được cứu (22%) và 682 người chết.[10] Đặc biệt, toàn bộ nhân viên kỹ thuật 35 người (trong đó gồm 25 kỹ sư, 6 kỹ sư điện, 2 kỹ sư nồi hơi, một kỹ sư đường ống và một thư ký) đều thiệt mạng.Đa số người chết do không chịu nổi sự giảm thân nhiệt trong nước có nhiệt độ 28 °F (−2 °C). Ngoài ra, tỉ lệ tử vong cao cũng vì các thuyền cứu sinh đã không chở tối đa số người có thể. Cũng theo bản báo cáo trước Thượng viện Hoa Kỳ, Nếu các thuyền cứu sinh chở đủ sức chứa, 1.178 người có thể đã được cứu sống.[10]
Người sống sót cuối cùng
- Millvina Dean (sinh 2 tháng 2, 1912), là người nhỏ tuổi nhất trên tàu Titanic, bà đã mất vào ngày 31 tháng 5 2009, là hành khách qua đời cuối cùng của tàu Titanic.
- Barbara Joyce Dainton (họ tiền hôn West) (24 tháng 5, 1911 – 16 tháng 10, 2007)
- Lillian Gertrud Asplund (21 tháng 10, 1906 – 6 tháng 5, 2006) người Mỹ cuối cùng còn sống và cũng là người cuối cùng còn nhớ về vụ đắm tàu Titanic, mất tại nhà ở Shrewsbury, Massachusetts. Asplund, khi ấy mới 5 tuổi, đã mất cha và ba người anh em trai (một cặp sinh đôi) trong thảm hoạ. Mẹ bà Selma Asplund và người em trai Felix, khi ấy lên 3, sống sót.[12] Với cái chết của Lillian Gertrude Asplund, tất cả những người hành khách trải nghiệm thảm họa đắm tàu Titanic đều đã qua đời.
Những giả thuyết về nguyên nhân thảm họa
Sai lầm khi đóng tàu
Dù chủ đề này hiếm khi được tranh luận, có một số ý kiến về việc liệu Titanic có được chế tạo theo những tiêu chuẩn được coi là đáp ứng đủ những yêu cầu kỹ thuật thời ấy. Những lời đồn đại về những sai lầm trong khi đóng tàu gồm cả những vấn đề với các cửa an toàn và thiếu hay không có các bu lông riêng tại các tấm thân tàu. Một số người nói rằng đây là một nguyên nhân chính dẫn tới đắm tàu và rằng núi băng, cộng với sự thiếu hụt bu lông cùng các đinh vít, cuối cùng đã dẫn tới kết cục thảm họa. Nhiều người tin rằng nếu các vách ngăn nước đảm bảo ngăn kín các khoang với nhau (chúng chỉ cao 10 feet trên mực nước), con tàu đã có thể nổi.Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng vỏ tàu Titanic được liên kết bằng đinh tán (rivet), là cách thông thường để liên kết các tấm kim loại với nhau, trong khi các bu lông có thể tháo ra được và vì thế yêu cầu phải được xiết chặt định kỳ trừ khi đai ốc và bu lông được hàn sau khi đã được bắt vít. Kỹ thuật hàn năm 1912 còn ở mức sơ khai, vì thế điều đó đã không diễn ra. Tuy khi các vấn đề về đinh tán của Titanic đã được xác định thông qua những mẫu vỏ tàu còn lại, nhiều chiếc khác cùng thời được áp dụng kỹ thuật tương tự đã không chìm sau các vụ va chạm. Có ý kiến cho rằng các đinh tán của Titanic không được tôi đầy đủ, khiến chúng giòn và dễ gãy khi xảy ra va chạm.
Việc các cửa ngăn đảm bảo kín nước có thể tăng khả năng sống sót của con tàu như Titanic, nhưng chúng cũng không thể đảm bảo khả năng sống sót của một con tàu với nhiều hư hỏng ngầm dưới mặt nước như Titanic sau vụ va chạm như vậy với núi băng: một núi băng lớn. Thậm chí nếu các khoang vẫn hoàn toàn kín nước, trọng lượng nước sẽ vẫn kéo phần mũi tàu chìm xuống tới lúc các điểm không kín nước ở boong trên bị ngập và nước vẫn tràn được vào tàu qua các cửa mạn và tàu vẫn chìm. Cũng cần lưu ý rằng các boong kín nước sẽ ảnh hưởng tới việc đi xuống những khoang bên dưới tàu và lại cần phải có những cửa sập kín nước, tất cả chúng đều phải hoàn toàn kín để có thể ngăn nước không tràn vào những nơi khác trên tàu. Khi vấn đề các boong kín nước có thể làm tăng khả năng sống sót của tàu không vẫn còn là một câu hỏi, nói chung tới tận ngày nay kiểu boong này vẫn bị coi là không có tính thực tiễn đối với tàu thủy thương mại (dù một số tàu quân sự, với nhiều nguy cơ bị ngập hơn khi trúng phải thủy lôi hay các loại mìn khác của đối phương, có được áp dụng kiểu boong này).
Cũng cần lưu ý rằng chiếc Olympic, được chế tạo tương tự từ cùng một xưởng đóng tàu như Titanic, đã nhiều lần xảy ra va chạm trong suốt đời hoạt động của nó, một vụ xảy ra trước khi Titanic chìm; và vỏ chiếc Olympic's đã được sửa đổi để bảo vệ nó khỏi bị ngập khi có một vụ va chạm tương tự như con tàu em xấu số của nó. Không một vụ va chạm nào dẫn tới nguy cơ chìm tàu, cho thấy những chiếc tàu chở khách lớp Olympic được chế tạo đảm bảo yêu cầu và không hề có lỗi kỹ thuật.
Âm mưu phá hoại
Một lớp quan điểm nhỏ khác cho rằng đúng ra không phải Titanic mà chiếc Olympic đã chìm. Những người ủng hộ quan điểm này đưa ra bằng chứng của họ, gồm cả vụ tai nạn Hawke, hầu như đã làm hư hại chiếc Olympic. Động cơ được đưa ra là đánh đắm chiếc Olympic/Titanic để đòi tiền bảo hiểm. Những người này cũng nêu ra thực tế là cả hai chiếc đều được đưa lên ụ khô ở cùng xưởng tàu trong cùng một thời gian (có lẽ để sơn phết lại), và một con tàu với 3000 chiếc chăn trên boong (cho những người sống sót) đã đi trước tới điểm xảy ra va chạm, và những chi phí sửa chữa có lẽ được dành để chỉnh trang cho hai con tàu giống nhau hơn. Lý thuyết này đã bị bác bỏ hoàn toàn khi xác tàu được tìm thấy năm 1985.Bánh lái của Titanic và khả năng xoay trở
Dù bánh lái của Titanic không quá nhỏ theo yêu cầu đối với một con tàu ở cỡ của nó, thiết kế bánh lái không được áp dụng kỹ thuật tiên tiến. Theo những nhà nghiên cứu thuộc Hội Lịch sử Titanic: Bánh lái dài và mỏng của Titanic là bản copy của một chiếc tàu thép chạy buồm thế kỷ 19. So với thiết kế bánh lái chiếc Mauretania hay Lusitania của Cunard, bánh lái của Titanic quá nhỏ. Rõ ràng không nhà thiết kế nào chú ý tới những tiến bộ trong kỹ thuật chế tạo bánh lái bản rộng, và không chú ý nhiều tới việc một con tàu dài 882½ feet (269 m) như nó sẽ xoay trở thế nào trong tình huống khẩn cấp, hay để tránh va chạm với một núi băng. Đây chính là Gót chân Achilles của Titanic[13].Một sai lầm còn nghiêm trọng hơn với Titanic chính là định dạng động cơ ba chân vịt của nó, với hai động cơ hơi nước pittông truyền động cho hai chân vịt bên, và một tuốc bin hơi nước truyền động riêng cho chân vịt giữa. Các động cơ píttông có thể đảo chiều, còn động cơ tuốc bin không đảo chiều được. Khi Sĩ quan hạng nhất Murdoch ra lệnh đảo chiều động cơ để tránh núi băng, ông đã không lưu ý rằng việc này có thể gây ảnh hưởng tới khả năng quay của con tàu. Bởi vì động cơ giữa không thể đảo chiều khi tàu thực hiện "lùi hết tốc độ", đơn giản nó chỉ ngừng quay. Hơn nữa, chân vịt giữa được đặt phía trước bánh lái tàu, càng làm giảm hiệu quả quay của bánh lái.
Nếu Murdoch cho đảo chiều động cơ bên trái, và giảm tốc độ trong khi vẫn giữ chuyển động bình thường của hai chân vịt kia (như đã được đề nghị trong quy trình huấn luyện với kiểu tàu này), các chuyên gia đưa ra giả thuyết rằng Titanic có thể đã đi vòng quanh được núi băng và tránh được vụ va chạm. Tuy nhiên, với khoảng cách gần giữa con tàu với núi băng ở thời điểm phòng chỉ huy không hề được thông báo về vấn đề này, có lẽ nó cũng khó xảy ra.
Thêm nữa, các chuyên gia Titanic đưa ra giả thuyết nếu Titanic không đổi hướng chuyển động và lao thẳng về phía núi băng thì vụ va chạm chỉ ảnh hưởng tới khoang thứ nhất, hay nhiều nhất là hai khoang của tàu. Chiếc tàu chở khách Arizona của Guion cũng đã có vụ va chạm đối đầu với một núi băng năm 1879, và dù bị hư hại nặng nề nhưng vẫn cố về được St John's, Newfoundland để sửa chữa. Tuy nhiên, một số người cho rằng Titanic có lẽ không thể sống sót sau vụ va chạm như vậy bởi tốc độ của nó cao hơn và vỏ cũng lớn hơn chiếc Arizona và vì thế lực của cú đâm sẽ làm tổn hại tới tình trạng toàn vẹn kết cấu của nó.
Ảnh hưởng, tác động từ thảm họa
Vụ đắm tàu RMS Titanic là một yếu tố gây ảnh hưởng tới thủ tục, thiết kế tàu, và thay đổi văn hóa hàng hải sau đó, như được liệt kê dưới đây.Tuần tra cảnh báo núi băng Quốc tế
Thảm họa Titanic dẫn tới việc triệu tập Hội nghị Quốc tế về An toàn trên Biển tại London, ngày 12 tháng 11 năm 1913. Ngày 30 tháng 1 năm 1914, một hiệp ước được hội nghị thông qua dẫn tới sự hình thành quỹ quốc tế về Tuần tra Núi băng Quốc tế, một cơ quan của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Hoa Kỳ tới ngày nay vẫn đảm nhiệm việc quan sát và thông báo vị trí các núi băng ở Bắc Đại Tây Dương có thể là một mối đe dọa đối với giao thông xuyên Đại Tây Dương. Các bên tham gia cũng đồng ý đưa hành khách trên tàu đều được đảm bảo chỗ trên thuyền cứu sinh, các cuộc tập luyện an toàn phải được tiến hành đầy đủ, và liên lạc radio phải hoạt động 24/24 giờ và có thêm một nguồn điện dự phòng riêng, để không bao giờ bỏ qua bất kỳ một yêu cầu hỗ trợ nào. Thêm nữa, hội nghị cũng đồng thuận việc bắn pháo hiệu màu đỏ phải được hiểu là tín hiệu cầu cứu. Hiệp ước này theo dự định sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1915, nhưng đã bị trì hoãn bởi Thế chiến thứ nhất.Thiết kế của tàu thủy
Vụ đắm tàu Titanic cũng dẫn tới sự thay đổi trong thiết kế tàu thuỷ, và nhiều chiếc đang hoạt động như Olympic, cũng được tái trang bị để tăng độ an toàn. Bên cạnh việc tăng số lượng thuyền cứu sinh trên bong, những cải tiến khác như tăng cường độ thân vỏ và tăng chiều cao của các cửa kín nước. Các cửa kín nước trên Titanic chỉ cao 10 feet (3 m) trên mực nước, và sau khi Titanic đắm, các cửa kín nước trên những con tàu khác được kéo dài để đảm bảo các khoang kín nước hoàn toàn. Tuy Titanic có đáy hai lớp nhưng nó lại không có vỏ hai lớp; sau khi Titanic đắm, những con tàu mới được thiết kế với hai lớp vỏ; tương tự, những đáy hai lớp trên các con tàu khác (gồm cả Olympic) được kéo dài thêm lên trên mực nước biển, nhờ thế chúng cũng có vỏ hai lớp.Đổi tên
Sau thảm hoạ, cái tên Gigantic bị coi là không còn thích hợp cho chiếc tàu chở khách hạng sang lớp Olympic thứ ba nữa. Nó được đổi tên thành Britannic[1]. (Vì Thế chiến thứ nhất, chiếc Britannic không còn được dùng chở khách; nó đã đắm khi đang hoạt động như một chiếc tàu cứu thương.)Thuyền cứu sinh
Không một nguyên nhân nào liên quan tới số thiệt hại nhân mạng to lớn của thảm họa Titanic khiến mọi người giận dữ bằng nguyên nhân nó không mang theo đủ thuyền cứu sinh. Đây một phần do luật thời ấy, được đưa vào áp dụng từ năm 1894, chỉ yêu cầu phải có tối thiểu 16 thuyền cứu sinh đối với những chiếc tàu trên 10.000 tấn. Từ thời điểm ấy, kích thước các con tàu đã tăng lên nhanh chóng, có nghĩa theo luật Titanic chỉ bị yêu cầu phải mang theo số thuyền cứu sinh đủ cho chưa tới một nửa số người trên boong. Thực tế, White Star Line đã trang bị vượt yêu cầu khi thêm bốn chiếc thuyền gấp— đủ chỗ cho hơi nhỉnh hơn một nửa số hành khách và thủy thủ.Trên những con đường hàng hải đông đúc ở Bắc Đại Tây Dương, mọi người đều cho rằng nếu một thảm họa nghiêm trọng có xảy đến với một con tàu, thì nó sẽ nhanh chóng nhận được sự hỗ trợ từ các con tàu khác, và rằng thuyền cứu sinh chỉ để chở hành khách và thủy thủ từ con tàu bị nạn sang những con tàu cứu hộ. Vì thế việc mang theo số thuyền cứu sinh đủ cho toàn bộ số người trên boong bị coi là không cần thiết.
Khi thiết kế, Titanic cũng đã được dự đoán trước yêu cầu tăng số lượng thuyền cứu sinh của Phòng thương mại Anh Quốc trong tương lai. Vì thế các cần trục thả thuyền cứu sinh có khả năng thả bốn thuyền với mỗi hai cần trục đã được thiết kế và lắp đặt, khiến cho nó có tổng năng lực dự trữ lên tới 64 thuyền.[14] Nhưng những con thuyền cứu sinh dự phòng đã không bao giờ được trang bị. Thường có ý kiến cho rằng J. Bruce Ismay, Chủ tịch White Star, đã bác bỏ việc lắp đặt thêm những chiếc thuyền đó để tăng tối đa diện tích tản bộ trên boong của hành khách. Harold Sanderson, Phó chủ tịch International Merchantile Marine đã bác bỏ ý kiến này trong cuộc điều tra của người Anh.[15]
Thuyền cứu sinh thiếu không phải là nguyên nhân duy nhất khiến số tổn thất nhân mạng cao đến như vậy. Sau vụ va chạm với núi băng, thủy thủ đoàn đã mất tới một giờ để đánh giá mức độ hư hỏng, nhận biết được điều sắp xảy đến, thông báo tới những hành khách hạng nhất, và hạ chiếc thuyền cứu sinh đầu tiên. Sau đó, thủy thủ đoàn làm việc khá hiệu quả, mất tổng cộng 80 phút để hạ toàn bộ 16 thuyền cứu sinh. Vì số thủy thủ được chia làm hai đội, mỗi đội một phía mạn tàu, nên họ mất khoảng 10 phút để đưa người lên thuyền và hạ nó xuống biển.
Một nguyên nhân nữa gây ra tỷ lệ tử vong cao liên quan tới thuyền cứu sinh là sự chần chừ không muốn lên đó của hành khách. Xét cho cùng, họ cảm thấy mình đang trên một con tàu không có vẻ đang chìm. Và vì thế, một số thuyền cứu sinh được hạ xuống với rất ít người, đáng chú ý nhất là thuyền số 1, với sức chở 40 người nhưng chỉ được hạ xuống với 12 người bên trên.
Huyền thoại và bí ẩn
Sử dụng tín hiệu SOS
Vụ đắm tàu Titanic không phải là lần đầu tiên mã cấp cứu Morse "SOS" được công nhận quốc tế được sử dụng. Tín hiệu SOS (Save our Soul hay Save our ship) được đề xuất lần đầu tiên tại Hội nghị Quốc tế về Liên lạc Điện tín trên Biển ở Berlin năm 1906. Nó đã được cộng đồng quốc tế phê chuẩn năm 1908 và được sử dụng rộng rãi từ đó. Tuy nhiên, tín hiệu SOS hiếm khi được các điện tín viên Anh dùng, vì họ vẫn ưa thích mã CQD cũ hơn. Ban đầu sĩ quan điện tín Jack Phillips sử dụng mã CQD cho tới khi sĩ quan điện tín thứ hai Harold Bride nói nửa đùa nửa thật, "Dùng SOS đi; cách mới đấy, và có lẽ đây cũng là cơ hội cuối cùng để anh dùng nó." Phillips, người đã chết đuối trong vụ đắm tàu, sau đó dùng xen lẫn một số thông điệp bằng SOS giữa những mã CQD truyền thống.Huyền thoại ban nhạc Titanic
Không ai trong số thành viên ban nhạc sống sót sau vụ đắm tàu, và có nhiều quan điểm về bản nhạc cuối cùng của họ. Một số nhân chứng nói rằng bài cuối cùng được chơi là thánh ca "Nearer, My God, to Thee." Tuy nhiên, có ba luồng ý kiến về bài hát này và không ai biết chắc được chính xác bài nào, nếu quả thực như vậy, đã được chơi. Hartley được cho là đã kể với một người bạn rằng nếu mình ở trên một con tàu sắp chìm thì bài "Nearer, My God, to Thee" sẽ là một trong những bài được ông chơi. Cuốn sách A Night to Remember (Một đêm đáng nhớ) của Walter Lord lại đưa ra lời kể của sĩ quan điện tín Harold Bride rằng trước khi tàu chìm, ông đã nghe thấy bài "Autumn" (Mùa thu) (một bài thánh ca tương tự như bài kia nhưng có liên quan tới hàng hải với dòng viết về "những vùng nước rộng lớn").[16] Mọi người cho rằng Bride có thể nói bài hát đó là "Autumn" hay "Songe d'Automne," một bài hát ragtime phổ biến thời ấy. Những người khác nói họ đã nghe thấy bài "Roll out the Barrel."[cần dẫn nguồn]
Xác của Hartley đã được tìm thấy và nhận dạng. Được coi là một anh hùng, đám tang của ông tại Anh Quốc được hàng ngàn người tham dự.[cần dẫn nguồn]
Lời nguyền và các giả thuyết khác về nguyên nhân đắm tàu
Năm 2003 Thuyền trưởng L. M. Collins, một cựu thành viên của Ice Pilotage Service đã xuất bản cuốn The Sinking of the Titanic: The Mystery Solved cho rằng, dựa trên chính những kinh nghiệm thám sát băng của ông và những lời kể của nhân chứng ở hai vụ điều tra sau thảm họa, Titanic không phải đâm vào một núi băng mà là một tảng băng chìm. Kết luận của ông dựa trên ba phần lời chứng chính.
Một giả thuyết khác cho rằng Titanic đã bị hy sinh, bởi vì, khi việc đóng tàu hoàn tất, nó bị cho là một nguy cơ thua lỗ tài chính. Những người ủng hộ giả thuyết này đưa ra chứng cớ rằng, tất cả mọi người liên quan, cả công ty và những sĩ quan trên boong đều đã nhận được những lời cảnh báo núi băng và Titanic vẫn giữ hướng chạy chứ không đi chếch về phía nam.
Thậm chí còn có cả một huyền thoại về lời nguyền. Khi con tàu đang được đóng tại xưởng tàu ở Belfast, nhiều công nhân theo đạo Công giáo đã nhiều lần bỏ việc để để phàn đối những lời báng bổ kinh khủng với Giáo hội Công giáo và Đức Mẹ đồng trinh Maria do những công nhân theo đạo Tin lành dùng sơn phun lên trên vỏ tàu. Một trong những người công nhân đã nói, "Con tàu này sẽ không hoàn thành chuyến đi đầu tiên của nó". Những lời báng bổ đã được những người công nhân tiếp than khi con tàu dừng tại Cobh, Ireland nhìn thấy.[cần dẫn nguồn]
Một huyền thoại tương tự cho rằng Titanic được đánh số vỏ 390904 (con số này nếu viết ngược (nhìn qua gương) sẽ giống "no pope", nghĩa là "không cần có giáo hoàng"). Đây là một câu chuyện hoang đường.[17]
Một câu chuyện tưởng tượng khác trong quần chúng cho rằng Titanic chở theo một xác ướp Ai Cập đã bị nguyền rủa. Xác ướp, có tên hiệu Shipwrecker (Kẻ làm đắm tàu), sau khi nhiều lần đổi chủ đã gây ra những tai họa khủng khiếp cho những người sở hữu, và lần trả thù cuối cùng chính là vụ chìm tàu nổi tiếng này. Câu chuyện này không hề chính xác.[18]
Một câu chuyện hoang đường khác cho rằng chai sâm panh được dùng trong lễ rửa tội Titanic đã không vỡ trong lần thả đầu tiên, đây là điềm xui xẻo với một con tàu. Trên thực tế, Titanic không có lễ rửa tội, bởi theo lệ thường White Star Line hạ thủy tàu mà không cần làm lễ rửa tội.[19]
Sarnoff và các báo cáo điện tín
Một câu chuyện nửa thực nửa ngờ thường được nhắc tới cho rằng người đầu tiên nhận được tin tức về vụ đắm tàu là David Sarnoff, người sau này sẽ làm chủ đế chế truyền thông RCA. Sarnoff không phải là người đầu tiên biết tin (dù Sarnoff luôn quảng cáo điều này) nhưng ông và những người khác quả thật đã ở tại trạm điện tín Marconi bên trên Tòa nhà Wanamaker ở Thành phố New York, và trong ba ngày liên tục nhận và thông báo tin tức về thảm họa cũng như cung cấp tên những người còn sống sót cho những người thân đang chờ bên ngoài.[20]Sự vô dụng, hay là vụ đắm tàu Titan
Cuốn truyện ngắn xuất bản năm 1898 của Morgan Robertson có tên Sự vô dụng, hay là vụ đắm tàu Titan (Futility, or the Wreck of the Titan), viết 14 năm trước chuyến đi của Titanic xấu số, đã được tìm thấy với rất nhiều chi tiết giống với thảm họa Titanic: truyện của nói về một tàu viễn dương sang trọng tên là Titan, con tàu cuối cùng đã đâm vào một tảng băng và chìm trong một đêm tháng 4 yên ả trong khi đang trên đường đến New York; rất nhiều người đã chết vì thiếu thuyền cứu sinh. Cả Titan và cái cách nó "chết" có những nét tương đồng đến kinh ngạc với Titanic khiến cho truyện ngắn của Robertson vẫn tiếp tục được in ra cho đến ngày nay, gieo rắc sự sợ hãi.Lễ kỷ niệm lần thứ 100
Ngày 15 tháng 4, 2012, lễ kỷ niệm 100 năm ngày tàu Titanic đắm sẽ được tổ chức khắp thế giới. Vào ngày đó Khu Titanic tại Belfast sẽ được hoàn thành. Vùng này sẽ được khôi phục và một dự án tưởng niệm cũng được khánh thành để kỷ niệm những liên hệ của con tàu Titanic với Belfast, thành phố nơi con tàu được chế tạo.[21]Những thảm họa hàng hải có quy mô tương đương
Một thảm họa tương tự Titanic là vụ chiếc tàu Hans Hedtoft. Tháng 1 năm 1959 chiếc Hans Hedtoft, một chiếc tàu chở khách Đan Mạch xuất phát từ Greenland, đã đâm vào một núi băng và đắm. Hans Hedtoft cũng đang thực hiện chuyến đi biển đầu tiên của mình và cũng được quảng cáo "không thể chìm" vì những tiến bộ kỹ thuật áp dụng trong thiết kế. Năm 1987, chiếc MV Doña Paz, đắm tại Philippines sau khi va chạm với chiếc tàu chở dầu Vector và bắt lửa, số người chết được tuyên bố trong khoảng 1.500 tới 4.000 người. Năm 2002, chiếc phà MV Joola thuộc sở hữu chính phủ Senegal đã lật úp ngoài khơi Gambia gây ra cái chết của ít nhất 1.863 người.
Những thảm họa hàng hải lớn nhất diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiếc RMS Lancastria đã đắm khi sơ tán khỏi Dunkirk tháng 6 năm 1940 với hơn 4.000 người thiệt mạng. Đây là thảm họa hàng hải tồi tệ nhất Anh Quốc. Tuy nhiên, những thảm họa hàng hải có số lượng người chết lớn nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai thuộc về những chiếc tàu Đức. Vụ đắm tàu Wilhelm Gustloff với số người chết lên tới hơn 9.000 người vẫn là thảm họa ghê gớm nhất trong lịch sử hàng hải về số lượng người chết trên chỉ một chiếc tàu (đắm ngày 30 tháng 1, 1945 sau khi bị ngư lôi Xô viết tấn công). Chiếc SS Cap Arcona (trớ trêu thay, đóng vai chiếc Titanic trong bộ phim năm 1943 về thảm họa này) đã bị Không quân Hoàng gia Anh đánh đắm ngày 3 tháng 5, 1945, với số người chết lên tới hơn 7.700. Chiếc Goya cũng đắm với khoảng 7.000 người chết, sau trận chiến với tàu ngầm Liên Xô ngày 16 tháng 4, 1945.
Titanic không phải là chiếc tàu duy nhất của White Star Line đắm gây thiệt hại nhân mạng. Chiếc RMS Tayleur, cũng từng được đem so sánh với vụ đắm tàu Titanic, đã đắm sau khi mắc cạn tại Ireland. Tayleur cũng là chiếc tàu được chế tạo với những kỹ thuật tiên tiến khi nó chìm ngay trong lần đi biển đầu tiên năm 1854. Trong số 558 hành khách và thủy thủ, 276 người đã chết. White Star Line trước đó cũng đã mất chiếc RMS Atlantic trên vùng đá ngầm gần Nova Scotia năm 1873 với 546 người thương vong, và chiếc SS Naronic năm 1893, có lẽ vì va chạm với núi băng gần vị trí Titanic đắm, cả 74 người trên boong đều thiệt mạng. Ba năm trước Titanic, ngày 24 tháng 1, 1909, một chiếc tàu chở khách hạng sang và "không thể đắm được" của White Star Line, chiếc RMS Republic đã đắm 50 hải lý ngoài khơi Nantucket làm thiệt mạng sáu người. Chiếc tàu chị em của Titanic, chiếc Britannic đắm trên Biển Địa Trung Hải khi đang hoạt động như một chiếc tàu cứu thương trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhiều ý kiến trái ngược nhau về việc nó bị một quả ngư lôi tấn công hay đã không may mắn đâm vào một quả thủy lôi (vụ đắm tàu đã được chứng minh do mìn gây ra). Ba tư người đã chết khi một chiếc thuyền cứu sinh được đưa xuống trước khi tàu ngừng lại hoàn toàn và thuyền cứu sinh đã bị hút vào những chân vịt vẫn đang quay.
Tái khám phá
Ý tưởng tìm kiếm xác tàu Titanic và thậm chí trục vớt nó từ đáy biển đã xuất hiện chỉ một thời gian ngắn sau khi con tàu đắm. Nhưng những nỗ lực xác định vị trí chính xác của nó mãi tới ngày 1 tháng 9 năm 1985 mới mang lại thành công, khi một nhóm thám hiểm hỗn hợp Mỹ-Pháp do Jean-Louis Michel tại Ifremer và Tiến sĩ Robert Ballard tại Viện Hải dương Woods Hole dẫn đầu, trên con tàu tìm kiếm Knorr, đã phát hiện thấy xác tàu qua camera video trên tàu lặn Argo. Xác tàu được tìm thấy ở độ sâu 12.500 feet (3800 m), phía đông nam Newfoundland ở , cách 13 hải lý (24 km) so với vị trí mọi người thường cho là Titanic đang yên nghỉ.Khám phá đáng chú ý nhất của đội là việc chiếc tàu đã vỡ đôi, phần đuôi nằm cách phần mũi 1.970 feet (600 m) và nằm ngược chiều. Đã có nhiều lời tường thuật không đồng nhất từ phía các nhân chứng về việc chiếc tàu có bị vỡ ra hay không, và cả những cuộc điều tra của người Anh và người Mỹ đều cho rằng chiếc tàu chìm ở tình trạng nguyên vẹn. Tới tận khi xác tàu được tìm thấy, ý kiến chung vẫn cho rằng con tàu không hề bị vỡ. Năm 2005, một lý thuyết cho rằng một phần phía dưới của Titanic đã vỡ ra ngay trước khi con tàu vỡ làm đôi.[23] Lý thuyết này dựa trên cuộc khảo sát hai mảnh thân tàu do History Channel tài trợ.[24]
Phần mũi đã chìm sâu hơn 60 feet (18 m) trong lớp bùn đáy biển. Ngoài những phần gãy vỡ, mũi tàu hầu như còn nguyên vẹn, bởi nước bên trong đã cân bằng với áp lực nước bên ngoài. Phần đuôi ở tình trạng kém hơn. Khi phần đuôi chìm, nước đẩy không khí bên trong ra khiến vỏ và boong phần này bị xé rách. Tốc độ rơi xuống đáy biển của phần đuôi cũng khiến hư hại càng nặng thêm. Xung quanh xác tàu là một vùng rộng lớn những mảnh rác (gồm cả rất nhiều than), đồ đạc, đồ ăn và các vật dụng cá nhân trên diện tích hơn một dặm vuông (2.6 km²). Những vật liệu mềm, như gỗ và thảm, đã bị các sinh vật dưới đáy biển tiêu huỷ. Những xác người cũng cùng số phận.
Những lần khám phá sau vào khu vực boong thấp của tàu, như được tường thuật lại trong cuốn Ghosts of the Titanic của tiến sĩ Charles Pellegrino, cho thấy đa số đồ gỗ trong phòng khánh tiết của Titanic vẫn nguyên vẹn. Một lý thuyết mới đã xuất hiện cho rằng đa phần đồ gỗ tại các boong phía trên không bị các sinh vật biển phá hủy mà chỉ bị rơi ra và trôi mất. Lý thuyết này được lời chứng từ phía các nạn nhân còn sống sót ủng hộ. Tương tự, khi quay bộ phim Titanic của James Cameron, đồ vật tại Cầu thang chính rơi ra khi chúng bị nước tràn vào trong cảnh nước tràn vào tàu. Điều này khiến nhà sử học Don Lynch và nghệ sĩ Ken Marschall tin rằng điều xảy ra trên thực tế tại Cầu thang chính cũng tương tự (như được đề cập trong phần bình luận DVD của bộ phim).
Dù cuộc điều tra của Anh đã quả quyết rằng về mặt toán học hư hại xảy ra với con tàu không thể lớn hơn mười hai feet vuông, trong quan niệm của mọi người núi băng đã cắt một vệt dài 300 feet (90 m) vào sườn Titanic. Vì phần vỏ tàu bị núi băng làm hư hại đã chìm trong bùn, các nhà khoa học phải sử dụng siêu âm để xem xét khu vực và phát hiện núi băng đã làm vỡ vỏ tàu, khiến nước tràn vào trong Titanic giữa các tấm thép. Trong những lần lặn tiếp sau, các nhà khoa học đã mang lên nhiều mảnh nhỏ của vỏ tàu. Một cuộc phân tích chi tiết cho thấy tấm thép vỏ tàu đã mất tính dẻo và trở nên giòn trong nước băng lạnh, khiến nó có khả năng chống biến dạng kém. Hơn nữa, những đinh tán vỏ tàu còn mỏng manh hơn mọi người từng nghĩ. Không biết liệu những đinh tán làm bằng thép tốt hơn có thể cứu vãn con tàu được không.
Những mẫu thép lấy lên từ xác tàu cho thấy chúng chứa phần trăm phốt pho và lưu huỳnh rất cao (bốn lần và hai lần lớn hơn loại thép thông thường ngày nay), với tỷ lệ măng gan-sun phua là 6.8:1 (so với tỷ lệ 200:1 của thép hiện nay). Tỷ lệ phốt pho cao gây ra các vết nứt, sun phua hình thành các hạt thép sulphide khiến những vết nứt dễ kéo dài hơn, và việc thiếu măng gan khiến thép giảm tính dẻo. Các mẫu được tìm thấy trải qua quá trình chuyển đổi mềm-giòn ở nhiệt độ 32 °C (theo chiều dọc) và 56 °C (theo chiều ngang—so với nhiệt độ chuyển đổi −27 °C với thép ngày nay— thép ngày nay sẽ trở nên giòn như vậy trong khoảng nhiệt độ −60 và −70 °C). Tính không đẳng hướng như vậy có lẽ do quá trình cán nóng ảnh hưởng tới hướng kết hợp của sulphide. Có lẽ lọai thép này đã được sản xuất tại các lò acid-lined, open-hearth ở Glasgow, điều này có thể giải thích thành phần cao của phốt pho và sun phua, thậm chí so với cả thép thời ấy.[25]
Tiến sĩ Ballard và đội thám hiểm của ông không hề mang lên một đồ vật nào , vì coi đó như hành động cướp lăng mộ. Tuy nhiên, theo luật hàng hải quốc tế, việc phát hiện đồ vật còn lại là hành động cần thiết để thiết lập quyền khai thác đối với một xác tàu. Những năm sau khi được khám phá, Titanic đã trở thành chủ đề của một số vụ kiện tụng liên quan tới quyền sở hữu những đồ vật tại vị trí xác tàu.
Tranh chấp và sở hữu
Ngay khi được phát hiện năm 1985, một cuộc tranh cãi pháp lý về quyền sở hữu xác tàu cũng những thứ bên trong đã diễn ra. Ngày 7 tháng 6, 1994, RMS Titanic Inc. được trao quyền sở hữu và khai thác xác tàu[26] bởi Tòa án quận Đông Virginia, Hoa Kỳ. (Xem Admiralty law)[27] RMS Titanic Inc., một chi nhánh của Premier Exhibitions Inc., cùng các công ty tiền thân của nó đã tiến hành bảy chuyến thám hiểm xác tàu trong giai đoạn 1987 và 2004 và lấy đi hơn 5.500 đồ vật. Vật lớn nhất là một mảnh vỏ tàu nặng 17 tấn, được lấy đi năm 1998.[28] Nhiều vật trong số đó hiện đang được trưng bày trong các bảo tàng.Từ đầu năm 1987, một cuộc thám hiểm với sự cộng tác Pháp-Mỹ, gồm cả công ty tiền nhiệm của RMS Titanic Inc., đã tiến hành các chiến dịch thu gom đồ vật, trong 32 lần lặn, họ đã khám phá gần 1.800 vật và chúng đều được đưa về Pháp để lưu giữ và phục chế. Năm 1993, người quản lý của Pháp tại Văn phòng Hàng hải của Bộ vận tải, du lịch đã trao cho công ty tiền thân của RMS Titanic Inc quyền sở hữu đối với những đồ vật tìm được năm 1987.
Trong một bản kiến nghị ngày 12 tháng 2, 2004, RMS Titanic Inc. yêu cầu Tòa án địa phương trao cho họ "quyền đối với toàn bộ đồ vật (gồm cả những mảnh xác tàu) là đối tượng của văn kiện này theo luật về những đồ vật được tìm thấy" hay, đổi lại, một khoản bồi thường khai thác 225 triệu dollar. RMS Titanic Inc. không gộp trong kiến nghị này yêu cầu về quyền sở hữu những đồ vật được tìm thấy trong năm 1987. Nhưng họ thực sự yêu cầu tòa án tuyên bố rằng, dựa trên văn bản hành chính Pháp, "những đồ vật được trục vớt trong chuyến thám hiểm năm 1987 thuộc sở hữu một cách độc lập của RMST." Sau khi xem xét, tòa án đã ra văn bản ngày 2 tháng 7, 2004, theo đó từ chối trao quyền sử dụng điều lệ công nhận thân thiện giữa quốc gia và công nhận quyết định năm 1993 của vị quản lý Pháp, và bác bỏ yêu cầu của RMS Titanic Inc rằng họ phải được trao quyền sở hữu các vật được tìm thấy từ năm 1993 theo luật hàng hải về những đồ vật tìm được.
RMS Titanic Inc. kháng án tại Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ. Theo quyết định của tòa ngày 31 tháng 1, 2006[29] tòa án công nhận "sự thích đáng và rõ ràng trong việc áp dụng luật khai thác hàng hải đối với những xác tàu mang tính lịch sử như Titanic" và từ chối áp dụng luật hàng hải về những đồ vật tìm được. Tòa cũng phán xét rằng tòa án quận không có quyền phán xử đối với "những đồ vật năm 1987", và vì thế hủy bỏ phần phán quyết của tòa ngày 2 tháng 7, 2004. Nói cách khác, theo quyết định này, RMS Titanic Inc. có quyền sở hữu đối với những đồ vật được tòa án Pháp công nhận (có giá trị 16.5 triệu dollar Mỹ vào thời điểm ấy) và tiếp tục là bên xin sở hữu (salvor-in-possession) xác tàu Titanic. Tòa phúc thẩm đưa vụ này sang Tòa địa phương để phán quyết quyền khai thác (225 triệu dollar theo yêu cầu của RMS Titanic Inc.).[30]
Tình trạng hiện tại của xác tàu
Nhiều nha khoa học, trong đó có Robert Ballard, lo ngại rằng những lần viếng thăm của những người khách du lịch trong tàu lặn và việc tìm kiếm những đồ vật còn sót lại bên trong đang làm tình trạng hư hại của xác tàu trở nên nghiêm trọng hơn. Những vi khuẩn dưới nước đã liên tục ăn mòn vỏ thép của Titanic từ khi chiếc tàu đắm, nhưng vì những hư hại xảy ra sau này với những chiếc tàu lặn du lịch, Cơ quan Quản lý Hải dương và Khí quyển đã ước tính rằng "vỏ và cấu trúc tàu có thể sụp đổ xuống đáy biển trong vòng 50 năm tới." Nhiều nhà khoa học và nhà bảo tồn cũng phàn nàn về việc một đoàn thám hiểm Pháp đã lấy đi tháp canh trên cột buồm tàu.Cuốn sách Quay trở lại Titanic của Ballard, được Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ xuất bản có chứa nhiều bức hình cho thấy tình trạng xuống cấp của boong đi dạo và sự hư hại được cho là bởi những tàu lặn du lịch gây ra khi đỗ xuống; tuy nhiên, Ballard là người đầu tiên đưa một camera vào bên trong xác tàu, và cũng là người đầu tiên nhiều lần liên tục đi vào bên trong xác tàu bằng tàu lặn. Cột buồm hầu như đã hư hại hoàn toàn và Ballard đã nhiều lần đưa ra lời cáo buộc rằng chiếc chuông và đèn bằng đồng trên đó đã bị những kẻ hôi đồ lấy đi, dù trên chính những bức hình do ông ta chụp đều cho thấy chiếc chuông không bao giờ có mặt trên cột buồm -nó đã được phát hiện trên đáy biển. Thậm chí tấm biển ghi nhớ do Ballard để lại sau chuyến khảo sát lần thứ hai của ông ta cũng được cho là đã bị lấy đi; Ballard đã thay tấm biển này năm 2004. Những cuộc khảo sát gần đây, đáng chú ý nhất là của James Cameron, đã lặn xuống xác tàu để tìm hiểu kỹ về địa điểm và khám phá những phần chưa từng được xem xét của chiếc tàu trước khi Titanic bị phá hủy hoàn toàn.
Văn hóa đại chúng
Titanic đã là đề tài và bối cảnh của rất nhiều bộ phim nhựa và phim truyền hình. Nổi tiếng nhất trong số đó là:
- Saved from the Titanic (1912)
- In Nacht und Eis (1912)
- Atlantic (1929)
- Titanic (1943)
- Titanic (1953)
- A Night to Remember (1958)
- S.O.S. Titanic, TV movie (1979)
- Raise the Titanic! (1980)
- Titanic, TV mini-series (1996)
- Titanic (1997)
Câu chuyện cũng đã được đưa vào vở nhạc kịch, Titanic của Broadway, kịch bản Peter Stone với âm nhạc bởi Maury Yeston. Titanic được trình chiếu từ năm 1998 tới 2000. Vở nhạc kịch Broadway năm 1960 The Unsinkable Molly Brown nói về cuộc đời của người hành khách thoát nạn Margaret Brown, trong đó có một phần các sự kiện trên Titanic. Richard Morris viết kịch bản với nhạc của Meredith Willson. Phiên bản điện ảnh của tác phẩm này được phát hảnh năm 1964.
Một số loại hình giải trí khác bao gồm Titanic: Adventure Out of Time, một trò chơi trên máy tính lấy bối cảnh Titanic. Starship Titanic là một trò chơi khác diễn ra tại vũ trụ Hitchhiker's Guide to the Galaxy và là một sự nhái lại thảm họa Titanic. Nhiều xâu diễn truyền hình tại các nước phương Tây cũng đã đề cập đến thảm họa Titanic. Trong một số bộ phim như Time Bandits, Cavalcade và Ghostbusters II, Titanic có xuất hiện dù ngắn ngủi.
Trong một vở kịch truyền hình mang tên Upstairs, Downstairs, nhân vật Lady Marjorie Bellamy và người may đồ của cô, Maude Roberts, đã là những hành khách trên tàu Titanic khi nó chìm. Roberts đã được đưa lên một thuyền cứu sinh trong khi Lady Marjorie đã chìm cùng con tàu.
Titanic cũng đã trở thành chủ đề cho các nhạc phẩm, nổi tiếng nhất trong số đó có lẽ là The Sinking of the Titanic (1969), một tác phẩm của nhà soạn nhạc Gavin Bryars. Bản ghi đầu tiên của nhạc phẩm này xuất hiện trong Obscure Records của Brian Eno's vào năm 1975. Một bản thu âm khác vào năm 1994 được phối khí bởi Aphex Twin thành Raising the Titanic (sau đó được đưa vào album 26 Mixes for Cash).
Năm 1982, nhà soạn nhạc và ca sĩ nổi tiếng Francesco De Gregori xuất bản album Titanic, với ba nhạc phẩm (Titanic, I muscoli del capitano and L'abbigliamento di un fuochista) nói về con tàu cũng như thủy thủ đoàn.
Thư viện ảnh
Chú giải
a. ^ Thời gian đưa ra là thời gian của tàu, tức giờ địa phương cho vị trí của tàu Titanic trên Đại Tây Dương. Trong đêm đắm, nó đang ở khoảng một tiếng rưỡi trước EST và hai giờ sau GMT.
b. ^ Cuốn Titanic của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ và Leo Marriot xác định nó là tàu Olympic, cuốn Khám phá Titanic của Robert Ballard và cuốn Không thể chìm: Câu chuyện đầy đủ về RMS Titanic của Daniel Allen Butler xác định đó là Titanic.
b. ^ Cuốn Titanic của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ và Leo Marriot xác định nó là tàu Olympic, cuốn Khám phá Titanic của Robert Ballard và cuốn Không thể chìm: Câu chuyện đầy đủ về RMS Titanic của Daniel Allen Butler xác định đó là Titanic.
Xem thêm
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về RMS Titanic |
- Danh sách các xác tàu
- Danh sách hành khách trên tàu Titanic
- Danh sách thủy thủ trên tàu Titanic
- Danh sách các vụ tai nạn đường sắt và tàu thuỷ
- SS Nomadic
- RMS Carpathia
- Những con tàu chị em của Titanic
- Violet Jessop
Ghi chú
- ^ a ă Bonner, Kit & Bonner, Carolyn (2003). Great Ship Disasters, pp.60. MBI Publishing Company. ISBN 0-7603-1336-9.. Read this book on Google Print
- ^ Richard Howells The Myth of the Titanic, ISBN 0-333-72597-2
- ^ "TRMA Tech Feature of the Month: Titanic's Double Bottom" (analysis), Titanic Research & Modeling Association, June 2005, webpage: TMcom-Jun2005: accessed 2007-01-21].
- ^ “RMS Titanic facts”.
- ^ “Titanic:A voyage of discovery”.
- ^ “Titanic's Blueprints [Roy Mengot] db-09”. Titanic-model.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ Maréchal, a director of the Voisin Frères and Louis Paulhan aircraft companies, was travelling to America on Paulhan's behalf, to negotiate the French manufacturing rights to Glenn Curtiss’s float planes.Latitude 41 (publication of Association Française du Titanic) No. 23.
- ^ Hinkle, Marla, "Behind The Chocolate Curtain". The Morning News, February 8, 2004.
- ^ TModel-12sqft-PDF.
- ^ a ă â b c d đ "Titanic" Disaster. Report of the Committee on Commerce. United States Senate. Washington: Government Printing Office. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2007.. See table Summary of Passengers and Survivors.
- ^ Report on the loss of the S.S. Titanic. Westminster. 30 tháng 7 năm 1912. tr. 69–70. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2007. The inquiry was presented with 26 questions by the Board of Trade. Question 21 asked how many were saved (rather than how many were killed). A table in the answer gives "total on board saved" as 711 out of 2.201, implying that 1490 were killed. The answer also explains that 712 were rescued from Titanic's boats by the crew of Carpathia, but that one person died before Carpathia arrived at New York, leaving 711 survivors.
- ^ “Americas | Last US Titanic survivor is dead”. BBC News. 7 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ Edward Kamuda, Karen Kamuda, and Paul Louden-Brown, comps., "Titanic Myths," The Titanic Historical Society.
- ^ Testimony of Alexander Carlisle at British Inquiry
- ^ Testimony of Harold Sanderson at British Inquiry - Question #19398
- ^ "Gospel Song Lyrics" (with hymn "Autumn"), Events-in-Music.com, webpage: EIMcom-hymn: hymn "Autumn" contains lines "Hold me up in mighty waters, Keep my eyes on things above..."
- ^ “Titanic No Pope”. snopes.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Mummy on the Titanic”. snopes.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ [1][liên kết hỏng]
- ^ "More About Sarnoff, Part One," PBS.
- ^ “UK | Northern Ireland | Titanic tourist project unveiled”. BBC News. 11 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ Roy Stokes, Death in the Irish Sea: The Sinking of the RMS Leinster (Chester Springs, PA: Dufour Editions, 1999)
- ^ “Scientists ponder Titanic discoveries”. CNN. 5 tháng 12 năm 2005.
- ^ Lindsay, Jay (5 tháng 12 năm 2005). “Scientists unveil new discoveries from Titanic wreck”. Associated Press.
- ^ Katherine Felkins, A. Jankovic, and H.P. Leighly, Jr.,The Royal Mail Ship Titanic: Did a Metallurgical Failure Cause a Night to Remember?; Alan Bruzel, Analysis of Steel from the Titanic
- ^ Comprehensive resume of ownership questions
- ^ “Corporate Profile”. RMS Titanic, Inc. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ
|accessyear=
(trợ giúp) - ^ “Expeditions”. RMS Titanic, Inc. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ
|accessyear=
(trợ giúp) - ^ United States court of appeals for the fourth circuit, R.M.S. TITANIC, INCORPORATED vs. THE WRECKED AND ABANDONED VESSEL - January 31, 2006
- ^ Commented excerpts of the Court of Appeals decision
Tham khảo
- Beesley, Lawrence, The Loss of the SS Titanic: Its Story and Its Lessons, by One of the Survivors (June, 1912)
- Brander, Roy. The RMS Titanic and its Times: When Accountants Ruled the Waves. Elias P. Kline Memorial Lecture, October 1998 http://www.cuug.ab.ca/~branderr/risk_essay/Kline_lecture.html
- Brown, David G. (2000). The Last Log of the Titanic. McGraw-Hill Professional. ISBN 0071364471.
- Butler, Daniel Allen. Unsinkable: The Full Story of RMS Titanic. Stackpole Books, 1998, 292 pages
- Collins, L. M. The Sinking of the Titanic: The Mystery Solved Souvenir Press, 2003 ISBN 0-285-63711-8
- Eaton, John P. and Haas, Charles A. Titanic: Triumph and Tragedy (2nd ed.). W.W. Norton & Company, 1995 ISBN 0-393-03697-9
- Eaton, John P. and Haas, Charles A. Falling Star: The Misadventures of White Star Line Ships, c. 1990 W.W. Norton & Company, 1990 ISBN 0-3930-2873-7
- Gardener, R & van der Vat, D The Riddle of the Titanic Orion 1995
- Kentley, Eric. Discover the Titanic Ed. Claire Bampton and Sue Leonard. 1st ed. New York: DK, Inc., 1997. 22. ISBN 0-7894-2020-1
- Lord, Walter (1997). A Night to Remember Introduction by Nathaniel Philbrick. Bantam. ISBN 0-553-27827-4
- Lynch, Donald and Marschall, Ken. Titanic: An Illustrated History Hyperion, 1995 ISBN 1-56282-918-1
- Lynch, Donald and Marschall, Ken. Ghosts of the Abyss: A Journey into the Heart of The Titanic. A Hodder & Stoughton and Madison Press Books. 2003. ISBN 0-340-73416-7
- McCarty, Jennifer Hooper and Tim Foecke. (2008). What Really Sank the Titanic: New Forensic Discoveries. New York: Citadel Press. 10-ISBN 0-8065-2895-8; 13-ISBN 978-0-8065-2895-3 (cloth)
- O'Donnell, E. E. Father Browne's Titanic Album Wolfhound Press, 1997. ISBN 0-86327-758-6
- Quinn, Paul J. Titanic at Two A.M.: An Illustrated Narrative with Survivor Accounts. Fantail, 1997 ISBN 0-9655209-3-5
- Wade, Wyn Craig, The Titanic: End of a Dream Penguin Books, 1986 ISBN 0-14-016691-2
- US Coast Guard. International Ice Patrol History. Page viewed May 2006. http://www.uscg.mil/LANTAREA/IIP/General/history.shtml
- Beveridge, Bruce. Olympic & Titanic: The Truth Behind the Conspiracy
- Chirnside, Mark. The Olympic-Class Ships
- Layton, J. Kent. Atlantic Liners: A Trio of Trios
- Ballard, Robert B. Lost Liners
- Halpern, Samuel Somewhere About Twelve FeetPDF (170 KB)
- Pellegrino, Charles R. Her Name, Titanic Avon, 1990 ISBN 0-380-70892-2
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về RMS Titanic |
- BBC Archive: Titanic, Hear the survivors describe a night they could never forget.
- Titanic Historical Society
- Encyclopedia Titanica, an invaluable source of information concerning the sinking of the Titanic.
- RMS Titanic, Inc Corporate information and the official Titanic archive.
- Titanic Inquiry Project Complete transcripts of both the US Senate and British Board of Trade inquiries into the disaster, along with their final reports.
- PBS Online - Lost Liners
- RMS Titanic tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
|
|
Sự kiện Thiên An Môn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ này về sự kiện xảy ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Về sự kiện xảy ra cũng tại nơi này năm 1976, xem Sự kiện Thiên An Môn, 1976.
Sự kiện Thiên An Môn | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quảng trường Thiên An Môn năm 1988. | |||||||||||||
|
|||||||||||||
Các bên trong xung đột dân sự | |||||||||||||
Đảng Cộng sản Trung Quốc Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc |
Sinh viên đại học Công nhân nhà máy Trí thức thành phần khác |
||||||||||||
Nhân vật lãnh đạo | |||||||||||||
|
|||||||||||||
Thương và tử vong | |||||||||||||
|
Sự kiện Thiên An Môn | |||
---|---|---|---|
|
|||
Đám đông biểu tình tụ tập quanh tượng Nữ thần Dân chủ trước quảng trường Thiên An Môn. | |||
Tiếng Trung: | 六四事件 | ||
Nghĩa: | Sự kiện 6-4 (4 tháng 6) | ||
|
|||
Alternative Chinese name | |||
Phồn thể: | 八九民運 | ||
Giản thể: | 八九民运 | ||
Nghĩa: | phong trào ủng hộ dân chủ '89 | ||
|
Mục lục
Tên gọi
Sự kiện được đặt tên theo vị trí diễn ra sự đàn áp phong trào ở Quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Những người biểu tình thuộc nhiều nhóm khác nhau, từ các trí thức tin tưởng rằng chính phủ do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo quá tham nhũng và hà khắc, tới những công nhân thành thị tin rằng cải cách kinh tế Trung Quốc đã đi quá xa dẫn tới lạm phát tăng cao và tình trạng thất nghiệp lan tràn đe dọa cuộc sống của họ.Sau khi những người biểu tình bất chấp kêu gọi giải tán của chính phủ, một sự chia rẽ xảy ra bên trong Đảng cộng sản về việc giải quyết vấn đề với những người biểu tình theo cách nào. Trong những nhóm đang tranh cãi nhau, một phe cứng rắn nổi lên và quyết định đàn áp cuộc biểu tình mà không cần để ý tới những yêu cầu của họ.
Ngày 20 tháng 5, chính phủ tuyên bố thiết quân luật và vào đêm ngày 3 tháng 6, sáng ngày 4 tháng 6, xe tăng và bộ binh quân đội được gửi tới quảng trường Thiên An Môn để đàn áp phong trào và giải tán những người biểu tình. Những ước tính về con số thiệt mạng dân sự khác nhau: 4000-8000 (CIA), 2.600 (Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc) và một nguồn chưa được xác định khác là 5.000. Số người bị thương từ 7.000 đến 10.000. Tiếp sau cuộc bạo lực, chính phủ tiến hành nhiều cuộc bắt giữ để đàn áp những người ủng hộ phong trào, cấm đoán báo chí nước ngoài và kiểm soát nghiêm ngặt việc đưa tin các sự kiện của báo chí Trung Quốc. Cuộc đàn áp bằng bạo lực đối với những người biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn đã gây nên sự chỉ trích rộng rãi của quốc tế đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa[1].
Tại Trung Quốc, vụ này thường được gọi là Sự kiện mùng 4 tháng 6 (六四事件) hay Phong trào mùng 4 tháng 6 (六四运动). Tên sau được đặt theo tên của hai hành động phản kháng khác cũng xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn: Phong trào mùng 4 tháng 5 năm 1919 và Phong trào mùng 5 tháng 4 năm 1976.
Bối cảnh
Tháng 4 năm 1989, khi Hồ Diệu Bang qua đời, dân chúng Trung Quốc đã nhân tang lễ ông, tổ chức nhiều vụ xuống đường biểu tình. Chính thức là để tỏ lòng thương tiếc một người thuộc xu hướng cải cách, song các cuộc biểu tình này thực ra là để phản đối lạm phát và nạn tham nhũng. Vào thời điểm ấy, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô là Mikhail Gorbachyov đến thăm Bắc Kinh sau nhiều năm gián đoạn quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc.Đây là biến cố quốc tế nên đông đảo truyền thông thế giới có mặt để tường thuật. Các cuộc biểu tình kéo dài khiến lãnh đạo Bắc Kinh lúng túng. Vì muốn thách thức Gorbachyov tiến hành cải cách nên họ không dám ngăn chặn biểu tình, trong khi nhiều đảng viên cao cấp lại tỏ vẻ ủng hộ, thậm chí yểm trợ dân biểu tình.
Đến khi sự việc xảy ra quá tầm kiểm soát của chính quyền thì họ chỉ còn giải pháp là "tắt đèn nổ súng". Triệu Tử Dương muốn can cả hai, chính quyền và dân biểu tình, mà không nổi. Ông xuất hiện lần cuối, giữa đám biểu tình vào ngày 19 tháng 5 năm 1989, với nước mắt lưng tròng và tay cầm loa để nói là mình đến quá trễ.
Hơn 10 ngày sau, quân đội tiến vào thủ đô Bắc Kinh, yêu cầu báo chí rút lui và rạng ngày 4 tháng 6, đám biểu tình bị giải tán, hàng ngàn người bị tàn sát ngay tại Quảng trường Thiên An Môn. Con số chính thức là bao nhiêu thì Bắc Kinh không nói và không ai biết được. Con số bán chính thức từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là 2.600 người.
Những cuộc biểu tình bắt đầu
Những cuộc biểu tình ban đầu chỉ diễn ra trên quy mô nhỏ, ngày 16 và 17 tháng 4, dưới hình thức lễ tang dành cho Hồ Diệu Bang và những yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc phải sửa đổi các quan điểm chính thức của họ về ông. Ngày 18 tháng 4, 10.000 sinh viên tiến hành một cuộc biểu tình ngồi tại Quảng trường Thiên An Môn, phía trước Đại lễ đường Nhân dân. Cùng trong buổi chiều ngày hôm đó, vài ngàn sinh viên tụ tập trước Trung Nam Hải, trụ sở chính phủ, yêu cầu gặp mặt các lãnh đạo chính phủ. Họ đã bị lực lượng an ninh giải tán.Những cuộc biểu tình đã có xung lượng sau khi có tin tức về những cuộc xô xát giữa sinh viên và cảnh sát; sinh viên tin rằng truyền thông Trung Quốc đã bóp méo tính chất hành động của họ và nó càng khiến sự kiện được nhiều người ủng hộ hơn dù một tờ báo quốc gia, tờ Khoa học và Kỹ thuật (科技日报) xuất bản ngày 19 tháng 4, có một bài viết về cuộc biểu tình ngồi ngày 18 tháng 4.
Trong đêm ngày 21 tháng 4, ngày trước lễ tang Hồ Diệu Bang, khoảng 100.000 sinh viên đã tuần hành trên Quảng trường Thiên An Môn và tụ tập ở đó trước khi nơi này bị đóng cửa chuẩn bị cho lễ tang. Ngày 22 tháng 4, họ đã yêu cầu gặp mặt thủ tướng Lý Bằng nhưng không được đáp ứng (Lý Bằng là người được đa số cho là đối thủ chính trị của Hồ Diệu Bang). Cùng ngày hôm ấy, những cuộc phản kháng diễn ra tại Tây An (Thiểm Tây) và Trường Sa (Hồ Nam).
Từ 21 tháng 4 tới 23 tháng 4, sinh viên tại Bắc Kinh kêu gọi một cuộc bãi khoá. Những hồi chuông báo động đã gióng lên bên trong chính phủ, họ nhận thức rõ cơn bão chính trị do Sự kiện Thiên An Môn ngày 5 tháng Tư (四五天安门事件 Tứ ngũ Thiên An Môn sự kiện) năm 1976 khi ấy đã được hợp pháp hóa gây ra. Ngày 26 tháng 4, sau một bài diễn văn nội bộ của Đặng Tiểu Bình, tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nhân dân Nhật báo, ra một bài xã luận trang nhất với tiêu đề "Dương cao ngọn cờ phản đối bất kỳ sự xáo động nào" để tìm cách tập hợp công luận sau lưng chính phủ và buộc tội "một số kẻ cơ hội lạc lõng" đang âm mưu gây bất ổn dân sự[2]. Bài báo làm sinh viên nổi giận và vào ngày 27 tháng 4 khoảng 50.000 sinh viên tụ tập trên các đường phố Bắc Kinh, bất chấp lời cảnh báo đàn áp của chính phủ, yêu cầu chính phủ rút lại bài báo.
Tại Bắc Kinh, đa số sinh viên từ nhiều trường cao đẳng và đại học đã tham gia với sự ủng hộ của các giáo sư và giới trí thức khác. Sinh viên khước từ các thành viên chính thức từ các hiệp hội sinh viên do Đảng Cộng sản kiểm soát và lập lên những hiệp hội tự quản của riêng mình. Sinh viên tự coi mình là những người Trung Quốc yêu nước, bởi họ được thừa hưởng giá trị "khoa học và dân chủ" của Phong trào Ngũ Tứ năm 1919. Những cuộc biểu tình cũng khiến mọi người nhớ lại Phong trào Tứ Ngũ (四五运动 Tứ ngũ vận động) cuối cùng đã dẫn tới sự ra đi của bè lũ bốn tên. Ban đầu chỉ có mục đích tưởng niệm Hồ Diệu Bang, người được sinh viên coi là một nhân vật ủng hộ dân chủ, hành động của sinh viên dần phát triển thành phong trào phản đối tham nhũng và yêu cầu tự do báo chí và sự chấm dứt, hay cải cách, sự cầm quyền tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Đảng Cộng sản và Đặng Tiểu Bình, người lãnh đạo tối cao trên thực tế của Trung Quốc. Những nỗ lực liên lạc và liên kết với sinh viên và công nhân ở các thành phố khác cũng mang lại một số thành công.
Dù những cuộc biểu tình ban đầu là của sinh viên và giới trí thức, những người cho rằng các cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình vẫn chưa đủ tầm và Trung Quốc cần phải cải cách cả hệ thống chính trị, họ nhanh chóng có được sự ủng hộ của giới công nhân thành thị, những người cho rằng các cuộc cải cách đã đi quá xa. Điều này xảy ra bởi những người lãnh đạo cuộc phản kháng chú trọng vào vấn đề tham nhũng, vấn đề thống nhất cả hai nhóm và bởi sinh viên có thể viện dẫn các nguyên mẫu Trung Quốc của những người trí thức vị tha những người nói ra sự thực với giới cầm quyền.
Không giống những cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1987, gồm chủ yếu sinh viên và giới trí thức, các cuộc phản kháng năm 1989 có được sự hỗ trợ to lớn từ giới công nhân thành thị, những người đang lo lắng trước tình trạng lạm phát và tham nhũng ngày càng gia tăng. Tại Bắc Kinh, họ được rất nhiều người ủng hộ. Họ cũng được ủng hộ tại các thành phố lớn ở khắp Trung Quốc Đại lục như Urumqi, Thượng Hải và Trùng Khánh; và sau này là ở Hồng Kông, Đài Loan và các cộng đồng Hoa kiều ở Bắc Mỹ và châu Âu.
Biểu tình leo thang
Ngày 4 tháng 5, xấp xỉ 100.000 sinh viên và công nhân tuần hành ở Bắc Kinh yêu cầu cải cách tự do báo chí và một cuộc đối thoại chính thức giữa chính quyền và các đại biểu do sinh viên bầu ra. Chính phủ khước từ đối thoại, chỉ đồng ý đàm phán với các thành viên được chỉ định từ các tổ chức sinh viên. Ngày 13 tháng 5, hai ngày trước chuyến thăm cấp nhà nước được quảng cáo rầm rộ của vị lãnh đạo Liên Xô có đầu óc cải cách Mikhail Sergeyevich Gorbachyov, những đám đông sinh viên chiếm giữ quảng trường Thiên An Môn và bắt đầu một cuộc tuyệt thực, nhấn mạnh yêu cầu chính phủ rút lui lời cáo buộc đưa ra trong bài xã luận của Nhân dân Nhật báo và tiến hành các cuộc đàm phán với các đại diện sinh viên. Hàng trăm sinh viên tham gia cuộc tuyệt thực và được ủng hộ bởi hàng ngàn sinh viên khác như một phần của nhân dân Bắc Kinh, trong một tuần lễ.Những cuộc biểu tình và bãi khoá bắt đầu xuất hiện tại nhiều trường đại học ở các thành phố khác, nhiều sinh viên đi tới Bắc Kinh tham gia vào cuộc biểu tình. Nói chung các cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn được tổ chức khá tốt cộng với những cuộc tuần hành hàng ngày của sinh viên từ nhiều trường đại học Bắc Kinh đã thể hiện sự đoàn kết, tẩy chay các lớp học và với những yêu cầu ngày càng gia tăng. Các sinh viên hát "Quốc tế ca", bài thánh ca xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trên đường đi tới và tại quảng trường[3]. Sinh viên thậm chí còn thể hiện hành động tôn trọng đáng ngạc nhiên với chính phủ khi cảnh sát đã bắt giữ ba người từ tỉnh Hồ Nam, gồm cả Dụ Đông Nhạc, những người đã ném mực vào bức chân dung lớn của Mao treo tại phía bắc quảng trường[4].
Cuối cùng sinh viên quyết định rằng để duy trì phong trào của họ cần thiết phải tiến hành một cuộc tuyệt thực. Quyết định này của sinh viên là một thời điểm quyết định trong phong trào. Cuộc tuyệt thực bắt đầu tháng 5 năm 1989 và phát triển lên tới "hơn một nghìn người" (Lưu, 1994, 315). Cuộc tuyệt thực khiến sinh viên nhận được sự ủng hộ từ khắp đất nước và "người dân bình thường tại Bắc Kinh cũng tuần hành để bảo vệ những người tham gia tuyệt thực... bởi hành động tuyệt thực và đương đầu với những sự trả đũa của chính phủ đã thuyết phục được những người quan sát rằng sinh viên không chỉ đòi hòi những quyền lợi cá nhân mà còn cho cả nhân dân Trung Quốc" (Calhoun 1994, 113).
Ngày 19 tháng 5 lúc 4 giờ 50 phút sáng, Tổng bí thư Triệu Tử Dương tới quảng trường và đọc một bài diễn văn hối thúc sinh viên chấm dứt cuộc tuyệt thực. Một phần bài diễn văn của ông đã trở thành câu trích dẫn nổi tiếng, khi ông nói, ám chỉ tới thế hệ người lớn tuổi Trung Quốc, "Chúng tôi đã già, nó không còn là vấn đề với chúng tôi nữa." Trái lại, sinh viên còn trẻ và ông hối thúc họ giữ sức khoẻ và không tự hy sinh mình quá dễ dàng như vậy. Chuyến thăm của Triệu Tử Dương tới quảng trường là lần xuất hiện cuối cùng trước công chúng của ông.
Những nỗ lực đàm phán với chính phủ Trung Quốc, ở khu vực văn phòng lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Nam Hải ngay cạnh đó, đã thành công một phần. Nhờ chuyến thăm của Gorbachyov, báo chí quốc tế có mặt với số lượng lớn trên Lục địa Trung Quốc. Các bài báo phản ánh sự kiện của họ xuất hiện thường xuyên và nói chung ủng hộ những người phản kháng, nhưng tỏ vẻ bi quan rằng họ sẽ khó đạt mục đích. Tới cuối cuộc biểu tình, ngày 30 tháng 5, một bức tượng Nữ thần Dân chủ được dựng lên trên quảng trường và trở thành biểu tượng cho cuộc biểu tình với toàn thể khán giả truyền hình trên thế giới.
Uỷ ban Thường trực Bộ chính trị, cùng các cựu lãnh đạo đảng (đã nghỉ hưu nhưng vẫn có ảnh hưởng trong chính phủ và trong Đảng), ban đầu, hy vọng rằng các cuộc biểu tình sẽ không kéo dài, hay những biện pháp cải cách trong nước và những cuộc điều tra sẽ làm hài lòng những người phản kháng. Họ hy vọng tránh được bạo lực nếu có thể, và ban đầu dựa vào các cơ quan Đảng để thuyết phục sinh viên từ bỏ cuộc biểu tình và quay lại với việc học tập. Một vật cản lớn với hành động ngăn chặn là chính giới lãnh đạo lại ủng hộ nhiều yêu cầu của sinh viên, đặc biệt với những lo ngại trước tình trạng tham nhũng. Tuy nhiên, một vấn đề lớn là các cuộc phản kháng liên quan tới nhiều giới với nhiều mục tiêu khác nhau và vì thế chính phủ không biết phải đàm phán với ai, và những yêu cầu của những người biểu tình là gì. Sự lẫn lộn và thiếu quả quyết trong số những người phản kháng cũng phản ánh sự lẫn lộn và thiếu quả quyết bên trong chính phủ. Tờ Nhân dân Nhật Báo đã đề cập tới tình trạng thiếu quả quyết này và thường thay đổi quan điểm giữa ủng hộ và lên án những người biểu tình.
Trong giới lãnh đạo hàng đầu, Tổng bí thư Triệu Tử Dương ủng hộ mạnh mẽ một cách tiếp cận mềm dẻo với những người biểu tình trong khi Lý Bằng được coi là người muốn đàn áp. Cuối cùng, quyết định đàn áp được một nhóm lãnh đạo lớn tuổi trong đảng, những người coi sự từ bỏ quản lý độc đảng là sự quay trở lại với tình trạng hỗn loạn thời Cách mạng Văn hóa[cần dẫn nguồn]. Dù đa số những thành viên đó không có vị trí chính thức, họ vẫn kiểm soát được quân đội. Đặng Tiểu Bình là chủ tịch Uỷ ban Quân sự Trung ương và có thể tuyên bố thiết quân luật; Dương Thượng Côn là chủ tịch nước, tuy chỉ là một chức vụ mang tính biểu tượng theo Hiến pháp năm 1982, nhưng về pháp lý là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Những lãnh đạo lớn tuổi tin rằng những cuộc biểu tình kéo dài là một mối đe doạ tới sự ổn định của đất nước. Những người biểu tình bị coi là công cụ ủng hộ cho "chủ nghĩa tự do tư sản" đang đứng núp phía sau, cũng như là công cụ của các phe phái trong đảng muốn thực thi hơn nữa các tham vọng cá nhân của họ[cần dẫn nguồn].
Trên toàn quốc và ở bên ngoài Trung Quốc đại lục
Buổi đầu phong trào, truyền thông Trung Quốc có cơ hội hiếm hoi để thông tin một cách tự do và chính xác. Đa số họ được tự do viết và thông báo sự kiện đang diễn ra vì không bị các cơ quan địa phương và chính phủ quản lý. Tin tức nhanh chóng lan rộng trên khắp lục địa. Theo báo cáo của truyền thông Trung Quốc, sinh viên và công nhân tại hơn 400 thành phố, gồm cả các thành phố tại Nội Mông, cũng tổ chức lại và bắt đầu phản kháng[5]. Mọi người cũng kéo tới thủ đô để gia nhập cuộc phản kháng tại Quảng trường Thiên An Môn.Sinh viên đại học tại Thượng Hải cũng xuống đường để kỷ niệm cái chết của Hồ Diệu Bang và phản đối một số chính sách của chính phủ. Trong nhiều trường hợp, họ được sự ủng hộ của các uỷ ban đảng của trường. Giang Trạch Dân, khi ấy là bí thư đảng uỷ thành phố, diễn thuyết trước các sinh viên, bày tỏ sự cảm thông bởi ông cũng từng là một sinh viên hoạt động tích cực trước năm 1949. Cùng lúc ấy, ông nhanh chóng hành động điều các lực lượng cảnh sát tới kiểm soát đường phố và thanh trừng các lãnh đạo Đảng Cộng sản ủng hộ sinh viên.
Ngày 19 tháng 4, các biên tập viên tờ Thế giới kinh tế đạo báo, một tạp chí có khuynh hướng cải cách, quyết định xuất bản, trong số 439 ngày 24 tháng 4, một mục bình luận về Hồ Diệu Bang. Bên trong là một bài viết của Nghiêm Gia Kỳ, với lời lẽ ủng hộ những sinh viên phản kháng tại Bắc Kinh ngày 18 tháng 4, và kêu gọi đánh giá lại việc thanh trừng ông năm 1987. Ngày 21 tháng 4, một quan chức Đảng tại Thượng Hải đã yêu cầu tổng biên tập, Khâm Bản Lập, thay đổi một số đoạn. Khâm Bản Lập từ chối và Trần phải quay sang Giang Trạch Dân, người yêu cầu kiểm duyệt bài báo. Tới thời điểm ấy, đợt báo in đầu tiên đã được phát hành. Số còn lại được xuất bản với một trang trống[6]. Ngày 26 tháng 4, Nhân dân Nhật báo xuất bản bài xã luận lên án cuộc phản kháng của sinh viên. Giang hành động theo hướng này và đình chỉ chức vụ của Khâm Bản Lập. Ông nhanh chóng nổi lên nắm quyền lực sau khi quả quyết dẹp yên những cuộc biểu tình năm 1989.
Tại Hương Cảng, ngày 27 tháng 5 năm 1989, hơn 300.000 người đã tụ họp tại trường đua ngựa Bào Mã Địa trong một sự kiện được gọi là "Những bài hát dân chủ dành cho Trung Quốc". Nhiều nhân vật nổi tiếng người Hồng Kông và Đài Loan đã cùng hát và thể hiện sự ủng hộ của họ với các sinh viên tại Bắc Kinh. Hôm sau, ngày 28 tháng 5, một đám diễu hành do Martin Lee, Szeto Wah và nhiều người khác dẫn đầu đã đi suốt hòn đảo Hồng Kông; 1.5 triệu người đã tham gia.
Cũng có những cuộc biểu tình tại Đài Loan. Chính phủ đã thông qua một điều luật cho rằng họ sẽ cung cấp một hộ chiếu Trung Hoa Dân quốc và hỗ trợ tài chính cho bất kỳ người Trung Quốc nào từ bỏ hộ chiếu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Trên khắp thế giới, ở những nơi có nhiều người Trung Quốc sinh sống, những cuộc tụ tập và tuần hành diễn ra. Nhiều chính phủ, như Hoa Kỳ, Nhật Bản... cũng đưa ra những cảnh báo, khuyến cáo công dân nước mình không tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Chính phủ tiêu diệt cuộc biểu tình
Dù chính phủ đã tuyên bố thiết quân luật ngày 20 tháng 5, việc quân đội tiến vào Bắc Kinh vẫn không thể diễn ra bởi những đám đông người phản kháng, và quân đội cuối cùng nhận được lệnh rút lui. Trong lúc ấy, những cuộc biểu tình vẫn tiếp diễn. Cuộc tuyệt thực đang tiến dần tới tuần thứ ba và chính phủ đã giải quyết được nó trước khi có những người phải chết vì đói. Sau các cuộc bàn cãi trong giới lãnh đạo cộng sản, việc sử dụng lực lượng quân đội giải quyết khủng hoảng được đưa ra và dẫn tới một sự chia rẽ sâu sắc trong Bộ chính trị. Tổng thư ký Triệu Tử Dương bị gạt khỏi ban lãnh đạo chính trị vì ông ủng hộ hành động phản kháng của sinh viên. Quân đội cũng không thống nhất trong việc giải quyết vấn đề và thừa nhận không ủng hộ trực tiếp việc sử dụng vũ lực, khiến giới lãnh đạo phải tìm kiếm các cá nhân muốn thực hiện mệnh lệnh của họ[cần dẫn nguồn].Binh sĩ và xe tăng thuộc Quân đoàn 27 và 28 Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc được gửi tới kiểm soát thành phố. Quân đoàn 27 nằm dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan có quan hệ với Dương Thượng Côn. Trong một cuộc họp báo, Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush đã thông báo những lệnh trừng phạt với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sau những lời kêu gọi hành động từ phía các thành viên Nghị viện như Thượng nghị sĩ Jesse Helms. Tổng thống Bush cho rằng thông tin tình báo ông nhận được cho thấy một số chia rẽ trong giới chỉ huy quân sự Trung Quốc, và thậm chí cả khả năng những vụ xung đột bên trong quân đội trong những ngày đó. Các báo cáo tình báo cũng cho thấy các đơn vị thuộc Quân đoàn 27 và 28 đã được đưa tới từ các tỉnh bên ngoài bởi các đơn vị địa phương của Quân đội Giải phóng Nhân dân được cho là có cảm tình với những người phản kháng và nhân dân trong thành phố. Các phóng viên miêu tả các binh sĩ thuộc Quân đoàn 27 là nhân tố chủ chốt gây thương vong cho dân thường. Sau cuộc tấn công vào quảng trường, Quân đoàn 27 được cho là đã thiết lập các địa điểm phòng thủ tại Bắc Kinh - không phải là kiểu bố trí phòng ngự trước các cuộc tấn công của nhân dân, mà trước những cuộc tấn công của các đơn vị quân đội khác. Mặt khác, Quân đoàn 38 sở tại, được cho là có cảm tình với lực lượng phản kháng. Họ không được cung cấp đạn dược và được cho là đã tự đốt các xe cộ của mình khi từ bỏ chúng để tham gia cuộc phản kháng.[cần dẫn nguồn]
Hành động xâm nhập thành phố của quân đội bị nhiều công dân Bắc Kinh phản đối kịch liệt. Những người biểu tình đốt cháy các xe buýt và sử dụng chúng làm phương tiện cản bước quân đội. Cuộc chiến tiếp tục diễn ra trên các đường phố bao quanh quảng trường, nhiều người phản kháng được cho là đã tiến về phía Quân đội Giải phóng Nhân dân và xây dựng các luỹ bằng xe cộ, trong khi quân đội tìm cách giải toả vật cản bằng hơi cay, súng và xe tăng. Nhiều người bị thương đã được các lái xe đang ở trong vùng trống giữa binh sĩ và các đám đông cứu thoát, đưa tới bệnh viện. Sau cuộc tấn công vào quảng trường, chương trình truyền hình trực tiếp về sự kiện cho thấy nhiều người mang băng đen trên tay phản đối hành động của chính phủ, tụ tập ở nhiều đại lộ đốt cháy các chiến luỹ. Trong lúc ấy, Quân đội Giải phóng Nhân dân thiết lập một cách có hệ thống các điểm kiểm soát bên ngoài thành phố, lùng bắt những người phản kháng và phong toả các khu vực trường đại học.
Ngay bên trong quảng trường, đã có một cuộc tranh luận giữa những người muốn rút lui hòa bình, gồm Hàn Đông Phương, và những người muốn tiếp tục ở lại, như Sài Linh. Cuộc tấn công vào quảng trường bắt đầu lúc 10 giờ 30 phút tối ngày 3 tháng 6, khi xe bọc thép và quân đội vũ trang với lưỡi lê tiến vào từ nhiều hướng đi theo sau là máy ủi và xe bọc thép. Những chiếc xe bọc thép chạy trên đường, bắn thẳng về phía trước và xung quanh, có lẽ đã giết hại và làm bị thương cả một số binh sĩ. Phóng viên BBC Kate Adie đã nhắc đến hành động "bắn bừa bãi" của quân đội bên trong quảng trường. Các sinh viên chạy trốn trong các xe buýt bị các nhóm binh sĩ lôi ra và đánh đập bằng dùi cui. Những sinh viên đang tìm cách rời khỏi quảng trường cũng bị binh sĩ bao vây và đánh đập. Các lãnh đạo cuộc phản kháng bên trong quảng trường, nơi một số người đang tìm các thiết lập các luỹ ngăn xe bọc thép, được cho là đã "van xin" các sinh viên không sử dụng vũ khí (như chai xăng) chống lại quân lính đang tiến tới. Nhiều tiếng la hét của các sinh viên vang lên: "Sao các anh lại giết chúng tôi?". 4 giờ sáng ngày 4 tháng 6, xe tăng tràn vào quảng trường, cán nát các xe cộ và cả người trên đường di chuyển. Tới 5 giờ 40, quảng trường đã bị dẹp tan.
Cuộc đàn áp biểu tình đã trở thành bất tử trong truyền thông phương Tây với đoạn video và những bức ảnh nổi tiếng về một người đàn ông đơn độc mặc áo sơ mi trắng đứng trước một đoàn xe tăng đang tiến vào Quảng trường Thiên An Môn. Được chụp ngày 5 tháng 6 khi đoàn xe đang đi trên giao lộ thuộc Đại lộ Trường An, với hình ảnh một người không vũ khí đứng ở giữa đường, cản bước đoàn xe tăng. Anh ta được cho là đã nói: "Tại sao các anh lại ở đây? Các anh không mang lại gì ngoài sự nghèo khổ." Khi người lính lái tăng tìm cách đi vòng tránh, "Người biểu tình vô danh" tiếp tục cản đường. Anh ta tiếp tục đứng trước đoàn tăng trong một khoảng thời gian, sau đó leo lên tháp pháo chiếc xe dẫn đầu và nói chuyện với những người lính bên trong. Sau khi quay về vị trí chặn đường, anh ta bị những người xung quanh kéo ra, có lẽ họ sợ anh ta sẽ bị bắn hay bị đè nát. Time Magazine đã đặt cho anh cái tên "Người biểu tình vô danh" và sau này coi anh là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Bản tin ngắn trên tờ Sunday Express của Anh đã cho rằng đây là sinh viên Vương Duy Lâm, 19 tuổi, tuy nhiên, sự chân thực của tin này còn đang bị nghi ngờ. Điều gì đã xảy ra với "Người biểu tình vô danh" sau cuộc phản kháng vẫn chưa được biết. Trong một bài phát biểu trước President's Club năm 1999, Bruce Herschensohn — cựu phó trợ lý đặc biệt của Tổng thống Richard Nixon — đã thông báo rằng anh ta đã bị hành quyết 14 ngày sau đó. Trong cuốn Red China Blues: My Long March from Mao to Now (Những nỗi buồn Trung Quốc Cộng sản: Cuộc Trường chinh của tôi từ Mao tới Hiện tại), Jan Wong đã viết rằng người này vẫn đang sống và giấu mặt tại Trung Quốc đại lục. Trong Tử Cấm Thành, tác gia viết cho trẻ em người Canada William Bell tuyên bố rằng người đàn ông đó tên là Vương Ái Dân và đã bị giết hại ngày 9 tháng 6 sau khi bị bắt giam. Tuyên bố chính thức cuối cùng từ phía chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về "Người biểu tình vô danh" là của Giang Trạch Dân trong một cuộc phỏng vấn năm 1990 với Barbara Walters; khi được hỏi về "Người biểu tình vô danh", Giang đã trả lời "chàng thanh niên đó không bao giờ, không bao giờ bị giết."
Sau cuộc đàn áp tại Bắc Kinh ngày 4 tháng 6, những cuộc phản kháng tiếp tục diễn ra ở Trung Quốc lục địa trong nhiều ngày nữa. Có những cuộc biểu tình lớn tại Hồng Kông, nơi người dân mặc đồ đen tham gia biểu tình. Có những cuộc biểu tình tại Quảng Châu, và có những cuộc biểu tình lớn tại Thượng Hải và một cuộc tổng đình công. Cũng có những cuộc biểu tình tại các nước khác với nhiều người đeo băng tang đen. Tuy nhiên, chính phủ nhanh chóng giành lại quyền kiểm soát. Dù không có thông báo về những vụ giết hại với số lượng lớn khi các cuộc biểu tình chấm dứt ở những thành phố khác, một cuộc thanh trừng chính trị đã diễn ra trong đó các quan chức chịu trách nhiệm về việc tổ chức hay tha thứ cho những cuộc biểu tình đều bị mất chức, và các lãnh đạo cuộc biểu tình bị tống giam.
Số người chết
Số người chết và bị thương trong vụ này vẫn chưa rõ ràng vì những sự khác biệt lớn giữa những ước tính khác nhau. Chính phủ Trung Quốc không bao giờ đưa ra dữ liệu chính thức chính xác hay danh sách những người chết.Chính phủ Trung Quốc vẫn cho rằng không có người chết bên trong quảng trường, dù những đoạn video được quay ở thời điểm đó cho thấy có những tiếng đạn bắn. Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện tuyên bố rằng "hàng trăm binh sĩ Quân đội Giải phóng Nhân dân đã chết và số người bị thương còn nhiều hơn thế"[cần dẫn nguồn]. Yuan Mu, phát ngôn viên Quốc vụ viện, đã nói tổng cộng khoảng 300 người chết, đa số họ là các binh sĩ, cùng với một số người được ông miêu tả là "những tên lưu manh"[7]. Theo Trần Hy Đồng, thị trưởng Bắc Kinh, 200 dân thường và vài chục binh sĩ thiệt mạng[8]. Các nguồn khác cho rằng 3.000 thường dân và 6.000 binh sĩ bị thương[9]. Tháng 5 năm 2007, thành viên Chính hiệp Toàn quốc Trung Quốc tại Hương Cảng, Chang Ka-mun, nói 300 tới 600 người bị giết tại quảng trường Thiên An Môn. Ông cho rằng "có những kẻ sát nhân vũ trang những người không phải là sinh viên"[10].
Tuy nhiên, các nhà báo nước ngoài, những người chứng kiến vụ việc đã tuyên bố có ít nhất 3.000 người chết. Một số bảng liệt kê con số thương vong do những nguồn bí mật cung cấp cho thấy con số lên tới 5.000[11].
Thống kê và ước tính từ nhiều nguồn và nhóm khác nhau cho thấy:
- 4.000 tới 6.000 thường dân chết - Edward Timperlake[12]
- 2.600 đã chết chính thức vào buổi sáng ngày 4 tháng 6 (sau này bị bác bỏ) - Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc[8]. Một nhân viên Chữ thập Đỏ Trung Quốc giấu tên ước tính rằng tổng cộng 5.000 người chết và 30.000 bị thương[13]
- 1.000 người chết - Ân xá Quốc tế[8]
- 7.000 người chết (6.000 thường dân 1.000 binh sĩ) - tình báo NATO[12]
- Tổng cộng 10.000 người chết - các ước tính của Khối Xô viết[12]
- Hơn 3.700 người chết, gồm cả những người mất tích hoặc chết một cách bí mật hoặc những người từ chối được điều trị y tế - một người đào tẩu từ Quân đội Giải phóng Nhân dân nêu ra một tài liệu mật trong giới sĩ quan[12]
- 186 thường dân có tên tuổi được xác nhận đã chết vào cuối tháng 6 năm 2006 - Giáo sư Đinh Tử Lâm[14]
Hậu quả
Những vụ bắt giữ và thanh trừ
Trong và sau cuộc biểu tình, chính quyền đã tìm cách bắt giữ và truy tố một số sinh viên lãnh đạo Phong trào Dân chủ Trung Quốc, đáng chú ý nhất là Vương Đan, Sài Linh, Triệu Thường Thanh và Örkesh Dölet (ئۆركەش دۆلەت). Vương Đan đã bị bắt, kết án và tống giam, sau đó đã được phép di cư tới Hoa Kỳ vì lý do y tế. Vì là gương mặt kém nổi bật hơn của phong trào, Triệu Thường Thanh đã được thả chỉ sau sáu tháng ngồi tù. Tuy nhiên, anh ta một lần nữa bị tống giam vì tiếp tục yêu cầu cải cách chính trị tại Trung Quốc. Örkesh Dölet bỏ trốn sang Đài Loan. Anh ta đã lập gia đình và làm việc như một nhà bình luận chính trị trên kênh truyền hình quốc gia Đài Loan[cần dẫn nguồn]. Sài Linh bỏ trốn sang Pháp, và sau đó tới Hoa Kỳ.Các hoạt động biểu tình nhỏ hơn tiếp tục diễn ra ở các thành phố khác trong vài ngày. Một số cán bộ các trường đại học và sinh viên, những người đã chứng kiến các vụ giết hại tại Bắc Kinh đã tổ chức lại hay khuyến khích khác sự kiện tưởng nhớ khi họ quay về. Tuy nhiên, những hành động đó nhanh chóng bị dập tắt, và những người tổ chức bị thanh trừng.
Giới chức Trung Quốc nhanh chóng xét xử và hành quyết nhiều công nhân bị bắt giữ tại Bắc Kinh. Trái lại, các sinh viên - nhiều người trong số họ xuất thân từ các gia đình có ảnh hưởng và có quan hệ tốt với chính quyền - bị kết án nhẹ hơn. Thậm chí Vương Đan, lãnh đạo sinh viên và là người đứng đầu trong danh sách truy nã, cũng chỉ bị kết án bảy năm tù. Tuy thế, nhiều sinh viên và cán bộ các trường đại học bị ghi vào sổ đen chính trị, một số người không bao giờ được bổ dụng lần nữa.
Giới lãnh đạo Đảng trục xuất Triệu Tử Dương khỏi Ủy ban Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì ông phản đối thiết quân luật, Triệu Tử Dương bị quản thúc tại gia cho tới khi chết. Hồ Khởi Lập, một thành viên khác của Uỷ ban thường trực Bộ chính trị phản đối thiết quân luật bị tước quyền bỏ phiếu, và cũng bị trục xuất khỏi uỷ ban. Tuy nhiên, ông vẫn giữ được đảng tịch, và sau khi "thay đổi quan điểm", được tái bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Máy xây dựng và Điện tử. Những lãnh đạo Trung Quốc có đầu óc cải cách khác như Vạn Lý bị quản thúc tại gia ngay lập tức khi ra khỏi máy bay sau một chuyến công du nước ngoài bị cắt ngắn tại Sân bay Quốc tế Thủ đô Bắc Kinh, với lời giải thích chính thức vì "các lý do sức khoẻ". Khi Vạn Lý được bãi bỏ quản thúc tại gia sau khi "đã thay đổi ý kiến" ông ta, giống như Kiều Thạch, được chuyển tới một ví trí khác tương đương nhưng chỉ có thực quyền nghi lễ.
Sự kiện này giúp Giang Trạch Dân - khi ấy là thị trưởng Thượng Hải và không liên quan tới sự kiện này - trở thành Chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Các thành viên chính phủ đã chuẩn bị một sách trắng giải thích quan điểm của chính phủ về những cuộc biểu tình. Một nguồn không được tiết lộ bên trong chính phủ Trung Quốc đã đưa lậu văn bản ra khỏi Trung Quốc và Public Affairs đã xuất bản nó vào tháng 1 năm 2001 với tên gọi Tiananmen Papers (Hồ sơ Thiên An Môn). Hồ sơ này bao gồm một đoạn trích từ câu nói của cựu lãnh đạo Đảng Vương Chấn ám chỉ sự đối phó với cuộc biểu tình của chính phủ.
Hai phóng viên đưa tin về sự kiện này ngày 4 tháng 6 trong bản tin hàng ngày lúc 19 giờ (7 giờ tối) trên Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc đã bị sa thải bởi họ thể hiện tình cảm đau xót. Ngô Tiểu Dũng, con trai một thành viên Uỷ ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, và cựu bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc và phó thủ tướng Ngô Học Khiêm bị đuổi khỏi Ban tiếng Anh Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc. Tiền Lý Nhân, giám đốc Nhân dân Nhật báo (tờ báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc), cũng bị huyền chức vì các bài viết bày tỏ cảm tình với các sinh viên trên tờ báo này.
Phản ánh của truyền thông
Những vụ biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn gây ảnh hưởng rất nhiều tới danh tiếng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại phương Tây. Truyền thông phương Tây đã được mời tới để đưa tin cuộc viếng thăm của Mikhail Sergeyevich Gorbachyov trong tháng 5, và vì thế họ có cơ hội tuyệt vời để đưa tin trực tiếp về cuộc đàn áp của chính phủ thông qua các mạng lưới như BBC và CNN. Những người phản kháng cũng nắm lấy cơ hội này, tạo ra các biểu ngữ và biểu tượng được thiết kế đặc biệt cho khán giả truyền hình quốc tế. Việc đưa tin càng dễ dàng hơn nhờ những cuộc xung đột gay gắt trong chính phủ Trung Quốc về cách giải quyết vấn đề. Vì thế báo chí không bị ngăn cản ngay lập tức.Sau này tất cả các mạng truyền thông quốc tế đều bị ra lệnh ngừng đưa tin từ thành phố trong cuộc đàn áp khi chính phủ ngăn cấm tất cả các cuộc truyền tin qua vệ tinh. Các phóng viên đã tìm cách lách luật, đưa tin qua điện thoại. Những đoạn phim nhanh chóng được đưa lậu ra khỏi Trung Quốc, gồm cả hình ảnh "Người biểu tình vô danh". Mạng truyền thông duy nhất ghi được một số hình ảnh trong đêm là TVE[15][16].
Phóng viên CBS Richard Roth và người quay phim của mình đã bị tống giam trong cuộc đàn áp. Roth bị bắt khi đang đưa tin từ quảng trường qua điện thoại di động. Với giọng nói như đang phát điên, mọi người nghe được anh ta kêu những tiếng giống như "Ôi, không! Ôi, không!" trước khi điện thoại bị tắt. Sau này anh ta đã được thả ra, chỉ bị thương nhẹ trên mặt sau một cuộc ẩu đả với các nhân viên an ninh Trung Quốc đang tìm cách tịch thu chiếc điện thoại. Roth sau này đã giải thích thực tế anh ta nói, "Đi thôi!"
Những hình ảnh về vụ biểu tình - cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản xảy ra cùng thời gian ấy tại Liên bang Xô viết và Đông Âu - đã góp phần mạnh mẽ hình thành nên các quan điểm và chính sách của phương Tây với Trung Quốc trong thập niên 1990 và trong cả thế kỷ 21. Các sinh viên biểu tình nhận được nhiều cảm tình từ phương Tây. Hầu như ngay lập tức, cả Hoa Kỳ và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu thông báo một lệnh cấm vận vũ khí, và hình ảnh một quốc gia đang cải cách cũng như một đồng minh giá trị chống lại Liên bang Xô viết của Trung Quốc đã bị thay thế bằng một chế độ độc tài. Các cuộc phản kháng tại Thiên An Môn thường dẫn tới các cuộc tranh luận về tự do hóa thương mại với Trung Quốc lục địa và bởi Blue Team của Hoa Kỳ như một bằng chứng rằng chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một mối đe doạ với hòa bình thế giới và các lợi ích của Hoa Kỳ.
Trong giới sinh viên Hoa kiều, các cuộc phản kháng tại Thiên An Môn đã dẫn tới việc thành lập các mạng lưới tin tức Internet như China News Digest và Tổ chức phi chính phủ China Support Network. Như một hậu quả từ sự kiện Thiên An Môn, các tổ chức như China Alliance for Democracy (Liên minh Trung Quốc vì Dân chủ) và Hiệp hội Tự trị Sinh viên và Học giả Trung Quốc đã được thành lập, dù các tổ chức này có ít ảnh hưởng chính trị từ sau thời gian giữa thập niên 1990.
Nhận thức của phương Tây
Các học giả đã chỉ ra rằng tuy nhiều người ở Châu Âu và Châu Mỹ đánh giá các sự kiện đó theo các quan điểm văn hóa của riêng họ, phong trào này không tách biệt khỏi văn hóa Trung Quốc là khởi nguồn của nó. Đây không phải là một cuộc thể hiện của chủ nghĩa tự do tư sản mang hơi hướng dân chủ kiểu phương Tây[17]. Như một nhà sử học đã lưu ý "Các sinh viên đưa nguyên tắc thống nhất lên trên tất cả các quy luật chính khác, trong khi nhận thức về dân chủ của họ không cho phép một sự cạnh tranh tự do giữa các ý tưởng khác nhau và chính nó mang khuynh hướng chủ nghĩa ưu thế. Theo nhiều cách các sinh viên trong sự kiện năm 1989, như các học giả Khổng giáo truyền thống, tiếp tục chấp nhập rằng quyền chỉ huy xã hội thuộc về một nhóm ưu thế có đạo đức và có giáo dục"[17]. Một poster được treo lên trong những cuộc biểu tình tháng 4 thể hiện tình cảm chung của những người biểu tình rằng người dân nông thôn không phải là lực lượng nắm quyền lực hàng đầu mà "ít nhất các công dân đô thị, các trí thức và các thành viên Đảng Cộng sản đã sẵn sàng cho dân chủ như bất kỳ một công dân nào sẵn sàng sống trong các xã hội dân chủ. Vì thế chúng ta phải tiến hành dân chủ toàn diện bên trong Đảng Cộng sản và bên trong các vùng đô thị"[17]. Chủ nghĩa ưu thế thành thị này đã làm ảnh hưởng tới việc khuấy động phong trào tại các vùng nông thôn[17].Ảnh hưởng trên các khuynh hướng chính trị trong nước
Các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn đã làm mất đi quan niệm tự do hóa chính trị đang phát triển trong dân chúng hồi cuối thập niên 1980; vì thế, nhiều cải cách dân chủ được đề xuất trong thập niên 1980 đã bị bãi bỏ. Dù có đã có một số quyền tự do cá nhân được ban hành từ thời điểm đó, những cuộc tranh luận về những sự thay đổi cơ cấu trong chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và vai trò của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn là một chủ đề cấm kỵ.Tại Hồng Kông, các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn đã dẫn tới những lo ngại rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ không thực hiện các cam kết một quốc gia, hai chế độ khi nhận lại hòn đảo này năm 1997. Một hậu quả của nó là việc vị toàn quyền mới, Chris Patten, đã tìm cách mở rộng quyền cho Hội đồng Lập pháp Hồng Kông dẫn tới sự xích mích với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đã có những cuộc thắp nến tưởng niệm thu hút hàng chục nghìn người ở Hồng Kông hàng năm từ năm 1989 và những cuộc tưởng niệm đó vẫn tiếp tục diễn ra sau khi quyền lực đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997.
Những cuộc phản kháng cũng đánh dấu một sự thay đổi trong các quy ước chính trị, là đầu mối của các chính sách tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trước cuộc phản kháng, theo hiến pháp năm 1982, Chủ tịch nước chủ yếu chỉ là một chức vụ mang tính biểu tượng. Theo quy ước, quyền lực được phân chia giữa ba chức vụ Chủ tịch, Thủ tướng và Tổng thư ký Đảng Cộng sản Trung Quốc, mỗi người trong số họ đều đại diện cho một nhóm khác nhau, nằm ngăn chặn sự độc quyền thái quá kiểu Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, sau khi Dương Thượng Côn sử dụng quyền lực người đứng đầu nhà nước của mình để huy động quân đội, chức Chủ tịch một lần nữa lại là chức vụ nắm quyền lực thực sự. Vì thế, Chủ tịch nước đồng thời là Tổng thư ký Đảng cộng sản Trung Quốc, và được coi là người nắm quyền thực sự.
Năm 1989, cả quân đội Trung Quốc và cảnh sát Bắc Kinh đều không có phương tiện chống bạo động thích hợp, như đạn cao su, hơi cay vẫn thường được sử dụng ở phương Tây đối phó với các cuộc bạo loạn[18]. Sau các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn, cảnh sát chống bạo động tại các thành phố Trung Quốc đã được trang bị các vũ khí không gây chết người để kiểm soát bạo loạn.
Ảnh hưởng kinh tế
Các cuộc biểu tình Thiên An Môn không đánh dấu sự chấm dứt của cải cách kinh tế. Như một hậu quả trực tiếp sau những cuộc phản kháng, phe bảo thủ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách xoá bỏ một số cải cách thị trường tự do đang được tiến hành như một phần của cải cách kinh tế Trung Quốc, và tái lập quyền kiểm soát hành chính với nền kinh tế. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã gặp phải sự phản đối kiên quyết của các quan chức địa phương và đã hoàn toàn mất tác dụng hồi đầu thập niên 1990 sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và chuyến đi về phương nam của Đặng Tiểu Bình. Sự tiếp tục của cải cách kinh tế dẫn tới tăng trưởng kinh tế trong thập niên 1990, cho phép chính phủ giành lại hầu hết sự ủng hộ của dân chúng mà họ đã mất năm 1989. Ngoài ra, không một lãnh đạo nào hiện nay của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đóng vai trò chủ chốt trong quyết định đàn áp biểu tình, và một gương mặt chính trị quan trọng là Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã từng là trợ thủ của Triệu Tử Dương tháp tùng ông tới gặp các sinh viên biểu tình.Các lãnh đạo cuộc biểu tình tại Thiên An Môn không thể lập ra một phong trào hay một ý thức hệ chặt chẽ có khả năng tồn tại sau khoảng giữa thập niên 1990. Đa số lãnh đạo sinh viên đều xuất thân từ tầng lớp khá cao trong xã hội và được coi là ngoài tầm với của người dân thường. Một số trong số họ là những người theo chủ nghĩa xã hội và muốn đưa Trung Quốc trở về với con đường của chủ nghĩa xã hội. Nhiều tổ chức bắt đầu xuất hiện sau sự kiện Thiên An Môn nhanh chóng tan rã vì những cuộc đấu đá lẫn nhau. Nhiều nhà hoạt động dân chủ ở nước ngoài ủng hộ việc hạn chế thương mại với Trung Quốc đại lục dần mất tần ảnh hưởng cả trong và ngoài Trung Quốc. Một số tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Hoa Kỳ, với mục tiêu đưa cải cách dân chủ vào Trung Quốc không ngừng đưa ra các cáo buộc vi phạm nhân quyền tại Trung Quốc vẫn còn đó. Một trong những tổ chức lâu đời và có ảh hưởng nhất là China Support Network (CSN), được thành lập năm 1989 bởi một nhóm nhà hoạt dộng người Mỹ và Trung Quốc sau sự kiện Quảng trường Thiên An Môn.
Một hố sâu ngăn cách thế hệ
Lớn lên với ít kỷ niệm về sự kiện Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và không biết gì về cuộc Cách mạng Văn hóa, nhưng lại được tận hưởng sự thịnh vượng và tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang có trên trường quốc tế cũng như trước những khó khăn nước Nga đang gặp phải từ cuối cuộc Chiến tranh Lạnh, nhiều người Trung Quốc không còn coi việc tự do hóa chính trị là một vấn đề bức thiết nữa, thay vào đó là những chuyển đổi từ từ sang sự dân chủ hóa[cần dẫn nguồn]. Nhiều thanh niên Trung Quốc, trước sự trỗi dậy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, hiện quan tâm nhiều hơn tới phát triển kinh tế, chủ nghĩa quốc gia, bảo vệ môi trường, việc duy trì tầm ảnh hưởng trên các sự kiện quốc tế và nhận thức những sự yếu kém của chính phủ như trong vấn đề Vị thế chính trị Đài Loan hay quần đảo Điếu Ngư (Nhật Bản gọi là quần đảo Senkaku) đang tranh cãi với Nhật Bản[cần dẫn nguồn].Trong giới trí thức ở Trung Hoa lục địa, dấu ấn của các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn dường như đã tạo nên một kiểu chia tách thế hệ. Giới trí thức, những người ở tuổi 20 khi các cuộc biểu tình diễn ra thường ít có cảm tình với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hơn những sinh viên trẻ sinh ra sau những cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình[cần dẫn nguồn].
Trong giới công nhân thành thị, việc tiếp tục các cuộc cải cách thị trường trong thập niên 1990 đã mang lại cho họ tiêu chuẩn sống cao hơn cũng như một đảm bảo kinh tế tốt hơn.
Năm 2006, chương trình "Frontline" trên kênh PBS của Mỹ phát sóng một đoạn phim được quay tại Đại học Bắc Kinh, nhiều sinh viên ở trường này từng tham gia vào cuộc biểu tình năm 1989. Bốn sinh viên được hỏi về bức ảnh "Người biểu tình vô danh" nhưng không ai trong số họ biết sự kiện đó là gì. Một số trả lời đó là một cuộc duyệt binh hay một bức hình minh hoạ.
Các vấn đề liên quan tới Sự kiện Thiên An Môn ngày nay
Chủ đề cấm tại Lục địa Trung Quốc
Đây vẫn là một chủ đề cấm bởi chính phủ Trung Quốc, tuy một nhà chức trách Trung Quốc nói rằng "đây không phải một chủ đề nhạy cảm" và không nhạy cảm bằng cuộc Cách mạng Văn hóa[10]. Trong khi thông tin về Cách mạng Văn hóa có thể thấy trên sách báo, trang web của chính phủ Trung Quốc thì sự kiện này hoàn toàn bị biến mất trên các phương tiện truyền thông.Tuy nhiên, các chương trình đưa tin tại Trung Quốc chỉ coi việc đàn áp là một hành động cần thiết để đảm bảo sự ổn định. Với giới trẻ Trung Quốc, thông thường họ không biết gì về những người biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn[19]. Hàng năm, có một cuộc tuần hành lớn tại Hồng Kông, nơi mọi người tưởng niệm các nạn nhân và yêu cầu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay đổi quan điểm chính thức của mình.
Những bức thư thỉnh cầu về vụ việc vẫn thỉnh thoảng xuất hiện, đáng chú ý nhất là của Tiến sĩ Tưởng Ngạn Vĩnh và Những bà mẹ Thiên An Môn, một tổ chức được bà mẹ của một trong những nạn nhân bị giết hại năm 1989 lập ra để các gia đình tìm kiếm sự thực, sự bồi thường cho những đứa con đã mất, và quyền nhận quà tặng, đặc biệt là từ nước ngoài[20]. Quảng trường Thiên An Môn được tuần tra chặt chẽ trong ngày kỷ niệm mùng 4 tháng 6 hàng năm để ngăn chặn bất kỳ hành động tưởng niệm nào có thể diễn ra tại đây.
Sau khi chính phủ trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cải tổ nhân sự năm 2004, nhiều thành viên nội các đã đề cập tới sự kiện Thiên An Môn. Tháng 10 năm 2004, trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào tới Pháp, ông đã lặp lại rằng "chính phủ tiến hành biện pháp kiên quyết để dẹp yên cơn bão chính trị năm 1989, và cho phép Trung Quốc có một chính phủ ổn định". Ông nhấn mạnh rằng quan điểm của chính phủ về sự kiện này sẽ không thay đổi.
Tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã nói trong một cuộc họp báo rằng trong thập niên 1990 đã có một cơn bão chính trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong bối cảnh tan rã của Liên Xô và những thay đổi tận gốc rễ ở Đông Âu. Ông nói rằng Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản đã thành công trong việc đưa ra chính sách mở cửa ổn định và bảo vệ "Sự nghiệp Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc".
Năm 2005, Lý Ngao, một nhà hoạt động chính trị Đài Loan và một nhân vật truyền hình nổi tiếng, đã có một bài nói chuyện tại Đại học Bắc Kinh. Ông đã ám chỉ đến cuộc biểu tình năm 1989 khi nhắc tới sự kiện Bonus March[21] tại Hoa Kỳ gần 50 năm trước, trong cuộc Đại Khủng hoảng. Trong bài nói này, ông thêm rằng bất kỳ một chính phủ quốc gia nào trên thế giới đều phải dùng tới sức mạnh quân sự khi quyền lực của họ bị đe doạ.
Lịch sử bị xoá bỏ tại Lục địa Trung Quốc
Hiện tại, vì chính sách kiểm duyệt của chính phủ Trung Quốc gồm cả việc kiểm duyệt Internet, truyền thông bị cấm đưa bất kỳ tin nào liên quan tới chủ đề này. Phần lịch sử này đã biến mất trên hầu hết các phương tiện truyền thông Trung Quốc, gồm cả internet. Không ai được phép tạo bất kỳ một website nào liên quan tới sự kiện[cần dẫn nguồn]. Mọi lệnh tìm kiếm trên Internet tại Trung Quốc đại lục đa phần sẽ chỉ là con số không, ngoài một phiên bản chính thức của chính phủ với quan điểm của họ, chủ yếu thuộc website của Nhân dân Nhật báo và các phương tiện truyền thông bị kiểm soát chặt chẽ khác [22][23].Tháng 1 năm 2006, Google đã đồng ý kiểm duyệt site của họ tại Trung Quốc đại lục (http://www.google.cn/) để loại bỏ các thông tin về vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989[24], cũng như các chủ đề khác như Độc lập Tây Tạng, phong trào tinh thần đã bị cấm Pháp Luân Công và Vị thế chính trị Đài Loan. Khi mọi người tìm kiếm các thông tin bị kiểm duyệt đó, sẽ có thông báo sau xuất hiện ở cuối mỗi trang liệt kê kết quả tìm kiếm: "Theo pháp luật pháp quy và chính sách nơi này, một bộ phận kết quả tìm kiếm chưa thể hiển thị". Các bài viết của Wikipedia về cuộc biểu tình năm 1989 cả bằng tiếng Anh và trên Wikipedia Trung văn, là một nguyên nhân dẫn tới sự phong tỏa Wikipedia của chính quyền đại lục.
Ngày 15 tháng 5 năm 2007, lãnh đạo Liên minh Dân chủ về sự Cải tiến ở Hương Cảng ủng hộ Bắc Kinh đã bị nhiều người chỉ trích khi tuyên bố "đó không phải là một vụ thảm sát", bởi không có "phát bắn có chủ đích và bừa bãi nào". Ông nói điều này cho thấy Hương Cảng "chưa đủ chín chắn" khi tin vào những tuyên bố bừa bãi của nước ngoài rằng đã xảy ra một vụ thảm sát. Ông nói vì Hương Cảng thiếu chủ nghĩa yêu nước và tính đồng nhất quốc gia, nên "chưa sẵn sàng cho dân chủ cho tới năm 2022"[25]. Những lời tuyên bố của ông đã bị lên án mạnh mẽ.
Ngày 4 tháng 6 năm 2007, ngày kỷ niệm vụ thảm sát một đoạn quảng cáo với dòng chữ "Để tỏ lòng kính trọng tới những bà mẹ kiên cường của những nạn nhân ngày 4 tháng 6" đã xuất hiện trên Thành Đô vãn báo. Sự việc đang được chính phủ Trung Quốc điều tra, và ban biên tập viên đã bị sa thải[26][27]. Người thư ký thông qua đoạn quảng cáo này được cho là chưa từng nghe về vụ đàn áp ngày 4 tháng 6 và đã được nói rằng nó chỉ đề cập tới ngày kỷ niệm một thảm hoạ hầm mỏ[28].
Cấm vận vũ khí Hoa Kỳ-Liên minh châu Âu
Lệnh cấm bán vũ khí cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu đã được đưa ra sau sự đàn áp bằng bạo lực những cuộc phản kháng ủng hộ dân chủ trên Quảng trường Thiên An Môn, hiện vẫn có hiệu lực. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kêu gọi dỡ bỏ lệnh cấm từ nhiều năm nay và đang được một số ủng hộ từ phía các thành viên Hội đồng Liên minh Châu Âu. Đầu năm 2004, Pháp đã dẫn đầu một phong trào vận động dỡ bỏ lệnh cấm bên trong EU. Cựu Thủ tướng Đức Gerhard Schröder đã công khai ủng hộ lập trường của cựu Tổng thống Pháp Jacques Chirac về việc xóa bỏ cấm vận.Lệnh cấm vận vũ khí đã được thảo luận tại một cuộc họp thượng đỉnh Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa-EU tại Hà Lan từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 12 năm 2004. Trong khi cuộc họp thượng đỉnh diễn ra, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tìm cách gia tăng sức ép lên Hội đồng EU để dỡ bỏ lệnh cấm vận khi cảnh báo rằng lệnh này sẽ làm tổn hại tới những mối quan hệ Trung Hoa-EU. Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Zhang Yesui gọi lệnh này là "lỗi thời", và ông nói với các nhà báo "nếu lệnh cấm được duy trì, quan hệ song phương chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng". Cuối cùng, Hội đồng Châu Âu vẫn không dỡ bỏ lệnh cấm vận. Người phát ngôn EU Françoise le Bail nói vẫn còn có những lo ngại về cam kết của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về nhân quyền. Nhưng ở thời điểm đó, EU thực sự có cam kết đàn phán để dỡ bỏ lệnh cấm vận.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp tục gây áp lực đòi dỡ bỏ lệnh này, và một số quốc gia thành viên đã bắt đầu từ bỏ quan điểm của mình. Jacques Chirac đã yêu cầu hủy bỏ lệnh này từ giữa năm 2005. Tuy nhiên, "Luật Chống chia cắt đất nước" của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thông qua tháng 3 năm 2005 đã làm gia tăng căng thẳng giữa hai bờ eo biển Đài Loan, đe dọa những nỗ lực dỡ bỏ cấm vận, và nhiều thành viên Hội đồng Châu Âu đã thay đổi ý định. Các thành viên Hạ viện Hoa Kỳ cũng đã đề xuất những hạn chế trong việc chuyển giao các kỹ thuật quân sự cho EU nếu họ dỡ bỏ lệnh cấm vận. Vì thế Hội đồng Châu Âu không đạt được sự đồng nhất, dù Pháp và Đức vận động cho việc này, lệnh cấm vận vẫn được duy trì.
Anh Quốc nắm chức Chủ tịch EU tháng 7 năm 2005, khiến việc dỡ bỏ lệnh này trong thời gian giữ chức vụ của họ không thể diễn ra. Anh Quốc luôn giữ một số quan điểm trong việc dỡ bỏ cấm vận và muốn để nó sang một bên, hơn là làm xấu đi quan hệ EU-Hoa Kỳ. Các vấn đề khác như sự thất bại của Hiến pháp Châu Âu và sự bất đồng tiếp diễn về Ngân sách Châu Âu cũng như Chính sách Nông nghiệp chung khiến lệnh cấm vận càng ít được chú ý. Anh Quốc muốn dùng chức chủ tịch của mình để tăng cường cải cách bán xỉ trong EU, vì thế việc dỡ bỏ cấm vận càng không có cơ hội xảy ra. Việc José Manuel Barroso trúng cử chức Chủ tịch Ủy ban Châu Âu càng gây khó khăn cho việc dỡ bỏ cấm vận. Tại một cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo Trung Quốc hồi giữa tháng 7 năm 2005, ông nói thành tích nhân quyền kém cỏi của Trung Quốc sẽ cản trở bất kỳ thay đổi nào trong lệnh cấm bán vũ khí cho Trung Quốc của EU[29].
Chính trị cũng đã thay đổi tại các quốc gia từng ủng hộ việc dỡ bỏ cấm vận. Schröder thất bại trong cuộc bầu cử liên bang Đức năm 2005 trước Angela Merkel, bà trở thành Thủ tướng ngày 22 tháng 11 năm 2005 - Merkel tỏ rõ quan điểm phản đối việc dỡ bỏ lệnh cấm. Jacques Chirac đã tuyên bố ông không ra tranh cử chức Tổng thống Pháp một lần nữa năm 2007. Người kế nhiệm ông, Nicolas Sarkozy, có khuynh hướng thân Mỹ hơn và cũng không ủng hộ việc dỡ bỏ lệnh cấm.
Ngoài ra, Nghị viện Châu Âu luôn phản đối việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Trung Quốc. Dù việc không cần có sự đồng ý của cơ quan này trong việc hủy bỏ lệnh cấm, nhiều người cho rằng điều này phản ánh đúng lòng mong muốn của nhân dân Châu Âu hơn vì đây là cơ quan đại biểu do người dân Châu Âu trực tiếp bầu ra— Hội đồng Châu Âu được chỉ định bởi các quốc gia thành viên. Nghị viện Châu Âu đã nhiều lần phản đối bất kỳ một sự dỡ bỏ lệnh cấm buôn bán vũ khí nào với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa:
- Nghị quyết ngày 28 tháng 4 năm 2005, về Báo cáo hàng Năm về Nhân quyền trên Thế giới năm 2004 và chính sách của EU về vấn đề này,
- Nghị quyết ngày 23 tháng 10 năm 2003, về báo cáo hàng năm từ Ủy ban thuộc Nghị viện Châu Âu về các khía cạnh chính và các lựa chọn cơ bản của CFSP, nhấn mạnh trên một giải pháp hòa bình cho vấn đề Đài Loan thông qua thương lượng giữa hai bờ Eo biển Đài Loan và kêu gọi Trung Quốc rút tên lửa khỏi các tỉnh ven eo biển Đài Loan, và
- Nghị quyết về quan hệ giữa EU, Trung Quốc và Đài Loan và an ninh vùng Viễn Đông ngày 7 tháng 7 năm 2005. EP đã nhiều lần lưu ý rằng tình trạng nhân quyền hiện tại ở Trung Quốc, với những quyền dân sự căn bản, quyền tự do văn hóa và chính trị không đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế được Trung Quốc công nhận.
Bồi thường
Dù chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ chấp nhập đã hành động sai, trong tháng 4 năm 2006 đã có một khoản chi cho gia đình của một trong những nạn nhân, trường hợp bồi thường công khai đầu tiên của chính phủ với gia đình nạn nhân liên quan tới sự kiện Thiên An Môn. Khoản chi được gọi là "hỗ trợ khó khăn" cho Đường Đức Anh, con trai của bà Chu Quốc Thông, chết khi 15 tuổi trong khi bị cảnh sát giam giữ tại Thành Đô ngày 6 tháng 6 năm 1989, hai ngày sau khi Quân đội Trung Quốc giải tán những người phản kháng trên quảng trường Thiên An Môn. Người phụ nữ này được thông báo đã nhận được 70.000 tệ (xấp xỉ $8.700 USD). Hành động này đã được nhiều nhà hoạt động người Trung Quốc đón nhận, nhưng bị một số người coi là hành động giữ ổn định xã hội và không tin có sự thay đổi trong quan điểm chính thức của Đảng Cộng sản[30].Dấu ấn trong văn hóa
Các cuốn sách, phim và chương trình TV bị kiểm duyệt tại Lục địa Trung Quốc
Năm Dương khi bị quản thúc tại gia cũng bị cấm tại Trung Quốc.Bài hát
- Ban nhạc The Hooters đã ghi âm bài hát "500 Miles" (500 dặm) thời Nội chiến Mỹ năm 1989 trong album Zig Zag của họ, với bộ ba nhạc dân gian Peter, Paul and Mary, và thêm vào những lời mới đề cập tới cuộc biểu tình (A hundred tanks along the square, One man stands and stops them there - Một trăm chiếc xe tăng dọc theo quảng trường, Một người đứng chặn chúng ở đó).
- Bài hát với chủ đề lịch sử "We Didn't Start the Fire" (Chúng ta không khởi động trận bắn giết) ("Trung Quốc dưới thiết quân luật") của Billy Joel
- "Democracy" của Leonard Cohen ("...from those nights in Tiananmen Square" -...từ những đêm đó trên Quảng trường Thiên An Môn)
- Bài hát "Trung Quốc" của Joan Baez năm 1989
- "The Tiananmen Man" của Nevermore
- "Watching TV" trong album solo Amused to Death của Roger Waters năm 1992
- "Karate" của Tenacious D
- "Hypnotize" của System of a Down
- "Faith" của The Cure cùng ngày với vụ thảm sát, dành tặng những người đã mất
- Cùng khoảng thời gian diễn ra sự kiện, nhiều ca sĩ nhạc pop Đài Loan đã tụ họp hát một bài ca đặc biệt với tên gọi "Vết thương của lịch sử". Bài hát này đã trở thành một trong những bài hát cho tới ngày nay vẫn làm dâng tràn cảm xúc trong lòng những người Hoa ở nước ngoài, đặc biệt là những người ủng hộ dân chủ, vì ảnh hưởng sâu sắc của của cuộc phản kháng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|Trung Quốc.
- "Arrested in Shanghai" của Rancid trong album Indestructible có một dòng: So I protest the massacres at the Tiannamen Square (Vì thế tôi phản đối các vụ thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn)
- "Roll Right" của Rage Against the Machine gồm đoạn: Lick off the shot my stories shock you like Ellison, main line adrenalin, Gaza to Tiananme
- "Tin Omen" của nhóm nhạc Canada Skinny Puppy có những lời nói tới những cuộc phản kháng cũng như cuộc phản kháng tại Đại học Kent State
- Trong video ca nhạc "They Don't Care About Us" của ca sĩ Michael Jackson cũng có một số hình ảnh của sự kiện Thiên An Môn.
Truyền hình
- Trong The Simpsons, phần "Goo Goo Gai Pan", có một cảnh với một tấm bảng viết "On this spot in 1989, nothing happened" (Ở nơi này năm 1989, không có điều gì xảy ra). Ngoài ra, Selma còn xuất hiện phía trước một chiếc xe tăng do một sĩ quan Trung Quốc điều khiển. Cảnh quay từ cùng góc như bức ảnh "Người biểu tình vô danh" nổi tiếng.
- Phóng viên tin tức kỳ cựu của CNN Kyra Phillips đã đưa ra những lời chỉ trích vào tháng 3 năm 2006 khi bà so sánh Các cuộc phản kháng lao động tại Pháp năm 2006, trong đó không một người nào thiệt mạng, với những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn, nói "Phần nào thấy lại những kỷ niệm về Quảng trường Thiên An Môn, khi bạn thấy những nhà hoạt động đó phía trước những chiếc xe tăng".[31] Chris Burns của CNN đã nói với Bộ trưởng ngoại giao Pháp Philippe Douste-Blazy rằng những lời so sánh của bà là "đáng tiếc".[32]
Ghi chú
- ^ Andrew J. Nathan, The Tiananmen Papers, Foreign Affairs, January/February, 2001
- ^ Tân Hoa xã: Full text of the 4-26 Editorial
- ^ Amnesty International, 30 August, 1989. Preliminary Findings on Killings of Unarmed Civilians, Arbitrary Arrests and Summary Executions Since 3 June 1989, p.19
- ^ The Gate of Heavenly Peace, movie script, 1995
- ^ http://www.pbs.org/wgbh/pages/frontline/tankman/view/ Tens of Millions of Protestors
- ^ Kate Wright, the Political Fortunes of the World Economic Herald, Australian Journal of Chinese Affairs, nr 23, pp 121-132 (1990)
- ^ China Makes Zhao Purge Formal, But He Still Gets to Be a Comrade, New York Times, July 1, 1989
- ^ a ă â How Many Really Died? Time magazine, June 4, 1990
- ^ “六四民運 (June4th 1989 Archive)”.
- ^ a ă Damon Pang, `Massacre' remarks trigger sharp exchange at City Forum, The Standard, May 21, 2007
- ^ CSN warns Americans about the AP's "climb down" on Tiananmen numbers, CSN, May 18, 2004
- ^ a ă â b Timperlake, Edward. [1999] (1999). Red Dragon Rising. Regnery Publishing. ISBN 0-89526-258-4
- ^ Sino-American Relations: One Year After the Massacre at Tiananmen Square. [2005] (1991). US congress publishing. No ISBN digitized archive via Stanford University
- ^ 六四死難者名單
- ^ Interview with Eugenio Bregolat, Spanish ambassador in Beijing during the Tiananmen Square protests (tiếng Tây Ban Nha) (2007-08-09)
- ^ Eugenio Bregolat (4 tháng 6 năm 2007). “TVE in Tiananmen” (bằng tiếng Tây Ban Nha). La Vanguardia. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
- ^ a ă â b Paul John Bailey (2001). China in the Twentieth Century. Oxford, UK: Blackwell Publishers, Inc.
- ^ Chinese human rights official says the crackdown 'completely correct' Rebecca MacKinnon, "Tiananmen Ten Years Later." CNN, 2 June 1999.
- ^ The Tank Man, Part 6:The Struggle to Control Information, Frontline, April 11, 2006
- ^ Relatives of dead at Tiananmen seek review, The Associated Press, International Herald Tribune, May 31, 2006
- ^ Jordy, Daniel (21 tháng 5 năm 2000). “Bonus March Episode”.
- ^ [1]
- ^ [2]
- ^ Google censors itself for China, BBC News, January 25, 2006
- ^ Ambrose Leung, "Fury at DAB chief's Tiananmen tirade", Nam Hoa tảo báo, trang 1, ngày 16 tháng Năm năm 2007
- ^ “China investigates Tiananmen ad”. Reuters. 5 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2007.
- ^ “Chengdu Evening News editors fired over Tiananmen ad”. Reuters. 7 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007.
- ^ “Young clerk let Tiananmen ad slip past censors: paper”. Reuters. 6 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007.
- ^ Daniel Griffiths, EC leader urges China to reform, BBC News, July 15, 2005
- ^ “China makes 1989 Tiananmen payout”. BBC News. 30 tháng 4 năm 2006.
- ^ “French protests 'Tiananmen'”. FIN24. 28 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2007.
- ^ “OBSERVER: Just a little comment”. Financial Times. 30 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ
|pagesr=
(trợ giúp)
Xem thêm
- Danh sách phim tài liệu về Sự kiện Thiên An Môn năm 1989
- Lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
- Phong trào Chỉnh phong
- Liên minh Hương Cảng hỗ trợ các Phong trào Yêu nước Dân chủ tại Trung Quốc
- Đài Hổ thẹn
- Trương Chí Tân
- Lệnh hành pháp 12711
- Thảm sát Canidrome
- Vụ tự sát tại Quảng trường Thiên An Môn
- Người biểu tình vô danh
Đọc thêm
- The New Emperors: China in the Era of Mao and Deng, Harrison E. Salisbury, New York, 1992, Avon Books, ISBN 0-380-72025-6.
- The Tiananmen Papers, The Chinese Leadership's Decision to Use Force Against their Own People—In their Own Words, Compiled by Zhang Liang, Edited by Andrew J. Nathan and Perry Link, with an afterword by Orville Schell, PublicAffairs, New York, 2001, hardback, 514 pages, ISBN 1-58648-012-X An extensive review and synopis of The Tiananmen papers in the journal Foreign Affairs may be found at Review and synopsis in the journal Foreign Affairs.
- June Fourth: The True Story, Tian'anmen Papers/Zhongguo Liusi Zhenxiang Volumes 1–2 (Chinese edition), Zhang Liang, ISBN 962-8744-36-4
- Red China Blues: My Long March from Mao to Now, Jan Wong, Doubleday, 1997, trade paperback, 416 pages, ISBN 0-385-48232-9 (Contains, besides extensive autobiographical material, an eyewitness account of the Tiananmen crackdown and the basis for an estimate of the number of casualties.)
- Spence, Jonathan D. The Search for Modern China. New York: Norton, 1999.
- Craig C. Calhoun. "Science, Democracy, and the Politics of Identity." In Popular Protest and Political Culture in Modern China. Edited by Jeffrey N. Wasserstrom and Elizabeth J. Perry, 140-7. Boulder, Col.: Westview Press, 1994.
- Liu Xiaobo. "That Holy Word, "Revolution." In Popular Protest and Political Culture in Modern China. Edited by Jeffrey N. Wasserstrom and Elizabeth J. Perry, 140-7. Boulder, Col.: Westview Press, 1994.
- Spence, Jonathan D. "Testing the Limits." In "The Search for Modern China". 701. New York, NY: W.W. Norton & Company, 1999
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về Sự kiện Thiên An Môn |
- "The Tank Man", phim tài liệu trên PBS 2006 và "Tank man" trên BBC (video)
- Lát cắt về nhân quyền tại Trung Quốc từ phong trào dân chủ 1989.
- BBC Creative archive footage Clip 1, Clip 2 (đường dẫn chỉ xem được từ Liên bang Anh)
- Bài báo "Ngày này năm xưa" của đài BBC tường thuật về cuộc biểu tình Thiên An Môn
- BBC's "Witnessing Tiananmen: Clearing the square" with eyewitness accounts of Tiananmen
- The U.S. "Tiananmen Papers" - US Perceptions of the crisis
- Nhân chứng Graham Earnshaw nói về sự kiện đêm 4 tháng 6
- Eyewitness account of the massacre from a Marxist's Perspective
- Bí ẩn Thiên An Môn và cái giá của sự đàn áp của Jay Mathews, nhà báo Columbia
- The Tiananmen Square Confrontation, Alternative Insight
- Bảo tàng Thị giác Trung Quốc năm 89
- Tuyển tập hình ảnh thảm sát quảng trường Thiên An Môn
- Tienanmen Square, 1989 The Declassified History
- Hình ảnh các nạn nhân của cuộc thảm sát ngày 4 tháng 6
- The Gate of Heavenly Peace - Feature-length Documentary
- Hình ảnh video về sự kiện này tại New Tang Dynasty Television
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment