CNM365 Chào ngày mới 24 tháng 1 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Thống nhất tại Romania. Năm 901 – Một số sĩ quan tiến hành phản binh biến tại kinh thành Trường An của triều Đường, Đường Chiêu Tông phục vị sau gần hai tháng bị buộc phải thiện vị cho trưởng tử Lý Dụ. Năm 1848 – James Marshall tìm thấy một viên vàng nhỏ tại California, Hoa Kỳ, thông tin này gây ra Cơn sốt vàng California (hình), thu hút rất nhiều người đổ xô đến tìm vàng. Năm 1908 – Robert Baden-Powell tổ chức đội Thiếu sinh Hướng đạo đầu tiên tại Anh Quốc. Năm 1918 – Hội đồng Uỷ viên Nhân dân tại Nga ra sắc lệnh chuyển từ sử dụng lịch Julius sang lịch Gregory, theo đó sau ngày 31 tháng 1 là ngày 14 tháng 2. Năm 1984 – Steve Jobs giới thiệu Macintosh 128K, loại máy tính cá nhân đầu tiên của Macintosh, dòng máy tính cá nhân đầu tiên được thương mại hóa thành công.
<iframe width="420" height="315" src="//www.youtube.com/embed/mlv9dWT_0cc" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Steve Jobs
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Steve Jobs | |
---|---|
Jobs cầm trên tay iPhone 4 tại Hội thảo các nhà phát triển toàn cầu 2010 |
|
Sinh | Steven Paul Jobs 24 tháng 2, 1955[1] San Francisco, California, Hoa Kỳ[1] |
Mất | 05 tháng 10, 2011 (56 tuổi)[2] |
Nơi cư trú | Palo Alto, California, Hoa Kỳ[3] |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Học vấn | Reed College (bị đuổi năm 1972) |
Công việc | Chủ tịch và CEO, Apple Inc.[4] Board of Directors, Walt Disney Company[5] |
Lương | 1 $[6][7][8][9] |
Tài sản | 8,3 tỷ $ (2011)[10] |
Tín ngưỡng | Phật giáo[11] |
Vợ/chồng | Laurene Powell (1991–nay) |
Con cái | 4 |
Chữ ký | |
Cuối những năm 1970, Steve Jobs cùng nhà đồng sáng lập Apple Steve Wozniak, Mike Markkula,[12] và một số người khác, thiết kế, phát triển và đưa ra thị trường một trong những dòng máy tính cá nhân thành công thương mại đầu tiên, dòng Apple II. Đầu những năm 1980, Jobs là một trong những người đầu tiên nhìn thấy tiềm năng thương mại của giao diện người dùng điều khiển đồ họa bằng cách sử dụng chuột dẫn đến việc ra đời Macintosh.[16][17] Sau khi thất bại trong một cuộc đấu tranh quyền lực với ban giám đốc vào năm 1984,[18][19] Jobs rút khỏi Apple và sáng lập NeXT, một công ty phát triển nền tảng máy tính chuyên về giáo dục và kinh doanh cao hơn. Việc Apple mua lại NeXT vào năm 1996 đưa Steve Jobs trở lại công ty mà ông là đồng sáng lập, sau đó làm việc ở đó trong vai trò tổng giám đốc điều hành từ năm 1997 cho đến năm 2011. Năm 1986, ông mua lại bộ phận đồ họa vi tính của công ty Lucasfilm, sau đó tách ra thành hãng phim hoạt hình Pixar.[20] Ông vẫn là tổng giám đốc điều hành và cổ đông lớn nắm 50,1% cổ phần của Pixar cho đến khi hãng Walt Disney mua lại vào năm 2006.[4] Do đó Jobs trở thành cổ đông cá nhân lớn nhất nắm 7% cổ phần và là thành viên của Hội đồng quản trị của Disney.[21][22][23][24]
Quá trình hoạt động kinh doanh của Steve Jobs đã đóng góp nhiều cho các hình ảnh biểu tượng mang phong cách riêng, nhà doanh nghiệp tiêu biểu của Thung lũng Silicon, nhấn mạnh tầm quan trọng của thiết kế và hiểu biết vai trò thiết yếu của tính thẩm mỹ trong việc thu hút công chúng. Công việc của ông thúc đẩy sự phát triển của các sản phẩm mà chức năng và tính thanh lịch của chúng đã thu hút những người ủng hộ hết mình.[25]
Ngày 24 tháng 8 năm 2011, Steve Jobs tuyên bố từ chức tổng giám đốc điều hành của Apple. Trong thư từ chức, Jobs mạnh mẽ gửi gắm rằng Tim Cook là người kế nhiệm ông. Do yêu cầu này, Jobs được bổ nhiệm làm chủ tịch hội đồng quản trị của Apple.[26][27] Ngày 5 tháng 10, 2011, Apple loan tin Steve Jobs đã qua đời ở tuổi 56.[28][29]
Mục lục
Tiểu sử
Jobs sinh ra tại thành phố San Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ và được nhận nuôi bởi cặp vợ chồng người Mỹ là Paul Reinhold Jobs (1922–1993) và Clara Jobs (1924–1986).[30][31]Paul và Clara sau đó còn nhận nuôi một đứa con gái đặt tên là Patti. Cha ruột của ông là Abdulfattah Jandali, một sinh viên đại học người Syria,[32] sau này là giáo sư khoa học chính trị,[33]. Mẹ ruột của ông là Joanne Simpson, một sinh viên đại học người Mỹ[32] sau này trở thành nhà ngôn ngữ học.[34] Khi đã lập gia đình, bà sinh và nuôi dưỡng đứa em ruột của Jobs, tiểu thuyết gia Mona Simpson.[35][36][37][38][39][40]
Jobs theo học trường trung học Cupertino và Homestead tại thành phố Cupertino, tiểu bang California.[25] Sau giờ học, ông thường đến công ty Hewlett-Packard tại Palo Alto, California. Ông nhanh chóng được thuê và làm việc cùng Steve Wozniak trong vai trò là những nhân viên thời vụ mùa hè.[41] Năm 1972, Jobs tốt nghiệp trung học và ghi danh học tại Reed College, một trong số 10 đại học mỹ thuật hàng đầu của Hoa Kỳ[42] ở thành phố Portland, tiểu bang Oregon. Mặc dù Steve Jobs bỏ học sau chỉ một học kì bán niên (semester) vì học phí đại học tư quá cao,[43] ông vẫn tiếp tục dự thính các lớp học tại Reed trong khi phải ngủ dưới sàn nhà của những người bạn, đổi lon nước ngọt để lấy tiền ăn và nhận các suất ăn miễn phí mỗi tuần tại đền Hare Krishna.[19] Sau này Jobs bày tỏ rằng: "Nếu tôi chưa từng dự lớp học thư pháp riêng lẽ đó tại đại học thì Mac sẽ không bao giờ có nhiều kiểu chữ hay phông chữ có tỉ lệ cân xứng như vậy."[19]
Mùa thu năm 1974, Jobs quay trở lại California và bắt đầu tham dự các buổi gặp mặt của câu lạc bộ Homebrewe Computer cùng với Wozniak. Ông làm kĩ sư cho hãng Atari, một nhà sản xuất trò chơi điện tử, đồng thời tích góp tiền bạc cho chuyến đi thần thánh sang Ấn Độ.
Sau đó, Jobs đến Ấn Độ cùng với Daniel Kottke, người bạn học tại trường Reed (sau này là nhân viên đầu tiên của Apple), để tìm kiếm sự khai sáng tâm hồn. Ông trở về như một tín đồ Phật giáo, đầu cạo trọc và mặc đồ truyền thống của Ấn Độ.[44][45] Trong thời gian này, Jobs đã thử nghiệm ma tuý, cho biết rằng trải nghiệm LSD là "một trong số hai hay ba thứ quan trọng nhất từng làm trong đời"".[46] Jobs khẳng định rằng, đối với những người quanh nhưng không muốn chia sẻ những nguồn gốc nền văn hoá của ông, họ sẽ không thể nào hiểu được suy nghĩ của ông.[46]
Jobs quay lại công việc trước đây của mình tại hãng Atari và được giao nhiệm vụ tạo một mạch điện tử cho trò chơi Breakout. Nolan Bushnell, nhà sáng lập Atari, cho biết Atari trả 100 đô la Mỹ cho mỗi con chip được loại ra khỏi chiếc máy. Do không hứng thú và cũng không có nhiều kinh nghiệm về thiết kế mạch điện, Jobs đã thoả thuận với Wozniak chia đôi số tiền thưởng nếu Mozniak có thể giảm đến mức thấp nhất số lượng chip.
Vượt quá sự mong đợi của Atari, Wozniak đã giảm lượng chip xuống còn 50, một thiết kế quá nhẹ khiến cho nó không thể tái sản xuất trên một dây chuyền lắp ráp. Vào thời điểm đó, Jobs nói với Wozniak rằng Atari chỉ đưa cho họ 700 USD (thay vì con số thật sự là 5.000 USD) và Wozniak chỉ nhận được con số phân nửa là 350 USD.[47][48][49][50][51][52]
Sự nghiệp
Khởi nghiệp với công ty máy tính Apple
Năm 1976, khi Jobs 21 tuổi và Wozniak 26 tuổi, họ sáng lập công ty Apple Computer trong ga-ra nhà Jobs. Sản phẩm đầu tiên của họ là máy tính cá nhân Apple I. Năm 1977 Apple tung ra sản phẩm tiếp theo, Apple II, một thành quả to lớn đã làm nên tiếng vang cho một công ty còn non trẻ Apple. Năm 1980 Jobs và Wozniak trở thành triệu phú. Họ đã phát triển công ty chỉ 2 người thành một công ty tầm cỡ quốc tế với cả ngàn nhân viên khắp toàn cầu.Steve Jobs muốn một người cùng quản lý công ty Apple cùng mình nên đã thuyết phục giám đốc điều hành của Pepsi lúc đó là John Sculley: "ông có muốn dùng cả đời mình bán thứ nước có đường đó hay muốn có cơ hội thay đổi thế giới?". Năm 1983, John Sculley thay thế Jobs làm giám đốc điều hành do 2 người có những hướng đi khác nhau trong việc điều hành và Apple đang lâm vào tình cảnh khó khăn và hội đồng quản trị Apple lại đứng về phía John Sculley. Jobs từ bỏ công ty, nhưng trước đó vào năm 1984 Apple đã đưa ra một sản phẩm gây tiếng vang, máy tính cá nhân Macintosh.
Công ty máy tính NeXT
Trong cùng thời điểm, Jobs thành lập nên một công ty khác mang tên NeXT Computer. Cũng như Apple Lisa, máy trạm NeXT ứng dụng công nghệ kĩ thuật cao. Tuy nhiên phần lớn chúng bị ngành công nghiệp đào thải do chi phí cao không cho phép chúng trở nên phổ biến. Mặc dù trong số những người có đủ khả năng mua được, máy trạm NeXT nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ vì những điểm mạnh kỹ thuật của nó, đứng đầu trong số đó là hệ thống phát triển phần mềm hướng đối tượng được cài đặt bên trong.Jobs bán ra sản phẩm NeXt cho những người trong lĩnh vực học thuật và khoa học vì tính công nghệ mới sáng tạo và thực nghiệm mà nó tích hợp, bao gồm kernel (phần mềm, ứng dụng ở mức thấp trong hệ thống, có khả năng thay đổi linh hoạt để phù hợp với phần cứng) Mach, chip xử lý tín hiệu kỹ thuật số và cổng Ethernet.
Jobs bày tỏ rằng NeXTcube là một máy tính "tương tác – giao tiếp thông minh", ông tin rằng chiếc máy này là bước tiếp theo sau máy tính "cá nhân". Điều này có nghĩa là, nếu máy tính có thể cho phép con người dễ dàng giao tiếp và cộng tác với nhau, nó sẽ giúp giải quyết nhiều vấn đề mà máy tính "cá nhân" phải đối mặt.
Trong thời kỳ mà thư điện tử mà con người gửi cho nhau thường là những đoạn văn bản đơn thuần, Jobs muốn giới thiệu hệ thống thư điện tử của NeXT, với tên gọi NeXTMail, như một ví dụ cho triết lý "tương tác – giao tiếp thông minh" của ông. NeXTMail là một trong những dịch vụ đầu tiên hỗ trợ đồ hoạ và âm thanh tích hợp mà người dùng có thể nhúng vào trong thư điện tử.
Jobs điều hành NeXT với một nỗi ám ảnh về việc hoàn thiện thẩm mỹ. Điều này đặt ra căng thẳng đáng kể lên bộ phận phần cứng của NeXT. Trong năm 1993, sau khi chỉ bán bán ra được 50.000 máy, NeXT chuyển hoàn toàn sang phát triển phần mềm với việc phát hành NeXTSTEP/Intel.
Pixar và Disney
Năm 1986, Steve Jobs mua hãng phim đồ họa Lucasfilm (sau là Pixar Studios) với giá 10 triệu đô la, trong đó 5 triệu đô la dùng làm vốn cho hãng.[53] Hãng mới, ban đầu đặt tại xưởng Kerner của Lucasfilm tại San Rafael, California; sau này di dời đến Emeryville, California. Hãng này theo dự định ban đầu được xây dựng để trở thành một nhà phát triển phần cứng đồ hoạ công nghệ cao. Sau hàng năm buôn bán máy tính Pixar Image không thu về lợi nhuận, hãng đã kí hợp đồng với Disney để sản xuất ra những bộ phim hoạt hình đồ hoạ, trong đó Disney sẽ cộng tác tài chính và phân phối.Bộ phim đầu tiên hợp tác do sản xuất mang tên Câu chuyện đồ chơi đã đem lại danh tiếng và sự khen ngợi đối với xưởng phim khi ra mắt vào năm 1995. Hơn 10 năm sau đó, dưới điều hành của giám đốc sáng tạo John Lasseter của Pixar, hãng phim đã cho ra đời những phim hoạt hình nổi tiếng như A Bug's Life (1998), Câu chuyện đồ chơi 2 (1999), Monsters, Inc. (2001), Đi tìm Nemo (2003), Gia đình siêu nhân (2004), Cars (2006), Chú chuột đầu bếp (2007), WALL-E (2008), Up (2009) và Câu chuyện đồ chơi 3 (2010). Trong số đó, Đi tìm Nemo, Gia đình siêu nhân, Chú chuột đầu bếp, WALL-E, Up và Câu chuyện đồ chơi 3 đều nhận được Giải Oscar dành cho phim hoạt hình hay nhất - giải thưởng được đưa ra vào năm 2001.
Ông đổi tên hãng thành Pixar (sau là Pixar Studios). Pixar sản xuất những bộ phim rất thành công biến Jobs trở thành tỷ phú.
Trong năm 2003 và 2004, vì hợp đồng của Pixar với Disney dần hết hạn, Jobs và giám đốc điều hành Disney là Michael Eisner đã cố gắng nhưng thất bại trong việc thương lượng quan hệ cộng tác mới.[54] Đầu năm 2004, Jobs tuyên bố rằng Pixar sẽ tìm kiếm một đối tác mới để sản xuất phim khi hợp đồng với Disney hết hạn.
Vào tháng 10 năm 2005, Bob Iger lên thay thế Eisner tại Disney, sau đó Iger nhanh chóng nối lại quan hệ với Jobs và Pixar. Ngày 24 tháng 1 năm 2006, Jobs và Iger thông báo Disney đã đồng ý mua Pixar với việc chuyển giao toàn bộ cổ phần trị giá 7,4 tỷ đô la Mỹ. Khi thoả thuận kết thúc, Jobs trở thành cổ đông cá nhân lớn nhất của hãng Walt Disney, nắm trong tay khoảng 7% cổ phần của hãng.[21] Trong khi đó, Eisner chỉ nắm 1,7% và Roy E. Disney, thành viên của gia đình Disney, cho đến khi qua đời chỉ có khoảng 1% cổ phần của hãng. Jobs tham gia vào ban lãnh đạo công ty dựa trên sự hợp nhất hãng Pixar. Ông cũng đảm trách trông nom vấn đề kinh doanh hoạt hình phối hợp giữa Disney và Pixar với một ghế trong hội đồng lãnh đạo đạo gồm 6 người.
Trở lại Apple
Năm 1996, Apple tuyên bố sẽ mua NeXT với giá 429 triệu đô la Mỹ. Thoả thuận mua bán đạt được vào cuối năm 1996,[55] đưa Jobs trở lại công ty mà ông là đồng sáng lập. Jobs trở thành người đứng đầu trên thực tế, sau đó tổng giám đốc điều hành Gil Amelio bị tước chức vào tháng 7. Ông chính thức mang danh là giám đốc điều hành tạm thời trong tháng 9 năm 1997.[56] Tháng 3 năm 1998, nhằm tập trung cho việc thu lại lợi nhuận cho Apple, Jobs cho ngừng một số dự án như Newton, Cyberdog và OpenDoc. Trong những tháng tiếp theo, nhiều nhân viên có nỗi sợ hãi tăng dần khi gặp Jobs trong thang máy, "lo sợ rằng họ có thể không có một công việc làm khi cánh cửa mở ra. Thực tế là những hành quyết vắn tắt của Jobs hiếm khi xảy ra, nhưng một vài nạn nhân cũng đủ để khủng bố toàn bộ công ty."[57] Jobs cũng thay đổi điều khoản trong bản quyền chế tạo các máy tính dòng Macintosh, khiến chúng trở nên quá tốn kém cho các nhà sản xuất tiếp tục chế tạo.Qua việc mua lại NeXT, hầu hết công nghệ của công ty được ứng dụng cho các sản phẩm của Apple, nổi bật nhất là NeXTSTEP, sau này đã trở thành hệ điều hành Mac OS X. Dưới sự chỉ huy của Jobs, công ty từng bước tăng doanh thu đáng kể qua việc ra mắt iMac và những sản phẩm mới khác. Kể từ đó, những thiết kế kế đầy sức hút và thương hiệu quyền lực vận hành trôi chảy phục vụ cho sự phát triển của Apple. Tại Triển lãm và Hội thảo Macworld 2000, Jobs chính thức từ bỏ chức vụ mang tính lâm thời và trở thành tổng giám đốc điều hành của Apple.[58]
Trong những năm gần đây, công ty đã mở rộng các chi nhánh, liên tục đưa ra giới thiệu và cải tiến những thiết bị kĩ thuật số tiên tiến. Bằng việc giới thiệu máy nghe nhạc cầm tay iPod, phần mềm nghe nhạc kĩ thuật số iTunes và iTunes Store, công ty đánh mạnh vào nhu cầu âm nhạc và điện tử phổ biến của người tiêu dùng. Năm 2007, Apple gia nhập thị trường điện thoại di động với sản phẩm iPhone, một loại điện thoại di động cảm ứng đa chạm, chứa đựng hầu hết các tính năng của iPod, có trình duyệt riêng dành cho điện thoại và màn hình trình duyệt mang tính cách mạng. Tuy khuyến thích sự đổi mới, Jobs cũng nhắc nhở nhân viên của mình về "con thuyền nghệ thuật"[59] mà ông cho rằng việc tạo ra những sản phẩm vào đúng thời điểm cũng quan trọng ngang với việc phải thiết kế cho nó thật sáng tạo và hấp dẫn.
Jobs vừa nhận được ngưỡng mộ vừa bị phê phán vì kĩ năng thuyết phục và nghệ thuật bán hàng tài ba của ông.
Tháng 4 năm 2005, Jobs trả lời vụ việc Apple bị chỉ trích vì có quy trình tái chế rác thải điện tử kém tại Hoa Kỳ bằng cách mắng mỏ những người ủng hộ môi trường và một số khác tại buổi gặp gỡ hàng năm của Apple tại Cupertino. Tuy nhiên, vài tuần sau, Apple thông báo rằng sẽ nhận lại iPods và trao đổi miễn phí tại các cửa hàng bán lẻ. Chiến dịch thu hồi máy tính phát động bằng cách cho một chiếc máy bay treo băng rôn ngay phía trên địa điểm diễn ra buổi lễ tốt nghiệp của Đại học Stanford, nơi Jobs là phát ngôn cho phần khai mạc.[19] Trên băng rôn ghi "Steve — Don't be a mini-player — recycle all e-waste" (Steve — Đừng là một chiếc máy chơi nhạc nhỏ bé — hãy tái chế tất cả rác thải điện tử). Năm 2006, ông mở rộng chương trình tái chế của Apple đến bất kì khách hàng Mỹ nào mua một chiếc Mac mới. Chương trình này bao gồm phí giao hàng tận nhà và loại bỏ những thành phần không thân thiện với môi trường trong sản phẩm cũ của hãng.[60]
Năm 2005 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử công ty Apple khi Steve Jobs tuyên bố giã từ IBM sau 10 năm gắn bó để kết hợp với Intel sản xuất chip cho máy Macintosh. 2 chiếc máy đầu tiên được chuyển sang nền Intel là iMac và MacBook Pro, trước đó khi sử dụng chip IBM tên của chúng là iMac G5 và PowerBook G4. Đến hơn giữa năm 2006 tất cả máy tính Apple đều sử dụng chip Intel, đó là các máy Mac Mini, MacBook, Mac Pro. Các máy tính nền Intel này có khả năng chạy được Windows của Microsoft với phần mềm Boot Camp miễn phí của Apple. Steve Jobs cũng đã giới thiệu hệ điều hành tiếp theo Mac OS 10.5 "Leopard" và thiết bị xem phim, hình, nhạc trên TV kết nối không dây với vi tính mang tên iTV, cả iTV lẫn Leopard đều sẽ được tung ra năm 2007.
Rút khỏi Apple
Tháng 8 năm 2011, Jobs rút khỏi chức vị tổng giám đốc điều hành của Apple, nhưng vẫn hoạt động tại công ty trên danh phận chủ tịch hội đồng quản trị.[26][61][62] Vài giờ sau tuyên bố này, giá cổ phiếu của Apple trên thị trường giảm 5%[63] Trước đó, mỗi cổ phiếu của Apple đang ở mức tăng.[64] Sự mất giá nhẹ này là do các nhà đầu tư xem xét tầm quan trọng của Jobs đối với Apple, kết hợp với việc tình hình sức khoẻ của ông luôn trong vòng tin tức trong những năm gần đây; hơn nữa ông đã ngừng điều trị y tế từ tháng 1 năm 2011.[65] Theo Forbes, có thể khẳng định rằng tác động này sẽ dẫn đến một con đường tiêu cực hơn cho Apple, ngay cả tại hãng Pixar nơi Jobs giữ vai trò là giám đốc.[66] Trong những giờ giao dịch sau vào ngày Jobs đưa ra tuyên bố rút khỏi Apple, cổ phiếu của hãng Walt Disney giảm xuống 1,5%.[67]Đời sống kinh doanh
Tài sản
Mặc dù Jobs chỉ kiếm được 1 đô la Mỹ mỗi năm trong vai trò tổng giám đốc điều hành của Apple[68], ông nắm giữ 5,426 triệu cổ phần của Apple, cũng như 138 triệu cổ phần của Disney (mà ông đã nhận được đổi lại với việc Disney mua Pixar).[69] Forbes ước tính toàn bộ tài sản của ông vào khoảng 5,1 tỉ đô la Mỹ vào năm 2009, điều này khiến ông được xếp vào hạng 43 trong những người Mỹ giàu có nhất.[70] Sau khi truyền hình Bloomberg nhầm lẫn tai hại đưa ra cáo phó của ông vào năm 2008, phóng viên Arik Hesseldahl của tạp chí BusinessWeek ghi rằng "Jobs không nổi tiếng nhiều về những việc làm từ thiện của ông", so với những gì mà Bill Gates đạt được.[71] Sau khi trở lại quyền kiểm soát Apple trong năm 1997, Jobs lờ đi tất cả các chương trình từ thiện đoàn thể.[72] Vào tháng 6/2011, ông được xếp vị trí 109 trong bảng xếp hạng những tỷ phú giàu nhất - theo Tạp chí Forbes bình chọn, với giá trị tài sản ròng ước tính lên tới 8,3 tỷ USD[73].Vụ gian lận cổ phiếu
Năm 2001, Steve được Apple ưu tiên quyền mua cổ phần với số lượng lên tới 7,5 triệu cổ phiếu với đơn giá khi mua vào là 18,3 đô la Mỹ một cổ phiếu, dù giá trị thị trường 1 cổ phiếu tại thời điểm đó là 21,1 đô la Mỹ, do đó phát sinh thu nhập chịu thuế từ 20 triệu đô la Mỹ mà ông không báo cáo trong phần thu nhập. Điều này là do việc ghi lùi ngày quyền mua cổ phần. Nếu tìm ra khả năng pháp lý, Jobs có thể đã phải đối mặt với một số trách nhiệm hình sự và tiền phạt dân sự. Apple cho biết rằng quyền chọn mua cổ phần ban đầu chỉ được ưu tiên tại hội nghị ban quản trị đặc biệt mà có thể sẽ không bao giờ diễn ra. Hơn nữa, các điều tra đang tập trung về việc ghi ngày sai lầm về quyền chọn mua dẫn đến việc dư ra 20 triệu đô la Mỹ. Vụ kiện từ phía cổ đông đối với ban lãnh đạo Apple vì sự thiếu minh bạch vụ việc này là đối tượng của các cuộc điều tra hình sự và dân sự của chính phủ.[74] Mặc dù cuộc điều tra nội bộ riêng của Apple hoàn thành vào ngày 29 thấng 12 năm 2006 đưa kết quả rằng Jobs không có ý thức về việc này và quyền chọn mua cổ phiếu từng cấp cho ông được thu hồi lại mà chưa được áp dụng vào năm 2003, đồng thời số tiền thất thoát được trả lại.[75] Ngày 1 tháng 7 năm 2008 diễn ra một vụ kiện về việc thất thu 7 tỉ đô la Mỹ từ phía các cổ đông đối với một vài thành viên ban lãnh đạo Apple vì dính líu vào vụ gian lận chứng khoán này.[76][77]Tác phong quản lý
Phần lớn tác phong quản lý của Jobs dựa trên tính khắt khe và đòi hỏi cao của bản thân ông. Tạp chí Fortune viết rằng ông "được xem là nhà tự cao tự đại hàng đầu của Thung lũng Silicon."[78] Có thể tìm thấy các bình luận về phong cách nóng nảy của ông trong quyển The Little Kingdom (Tiểu vương quốc); một trong những tiểu sử được Jobs ủy quyền; The Second Coming of Steve Jobs (Sự trở lại lần hai của Jobs) của tác giả Alan Deutschman; và iCon: Steve Jobs (Biểu tượng: Steve Jobs) của tác giả Jeffre S. Young và William L.Simon. Năm 1993, Jobs lọt vào danh sách những ông chủ khó tính nhất của tạp chí Fortune trong vấn đề lãnh đạo Next. Tạp chí Fortune trích dẫn lời của nhà đồng sáng lập Dan'l Lewin cho biết thời gian đó, "Lúc cao độ ở mức không thể tin được... nhưng lúc thấp thì lại không thể tưởng tượng nổi", văn phòng của Jobs trả lời rằng tính cách của ông đã thay đổi kể từ đó.[79]Jef Raskin, bạn học trước đây của Jobs, từng nói rằng Jobs "hẳn sẽ là một vị vua Pháp tuyệt vời", ám chỉ đến đặc trưng con người hơn đời và thuyết phục của Jobs.[80]
Jobs luôn luôn mong muốn vị thế của Apple và các sản phẩm của công ty được đặt ở vị trí hàng đầu của ngành công nghiệp công nghệ thông tin bằng cách dự báo và thiết lập các xu hướng, ít nhất là trong sự đổi mới và phong cách. Ông tổng kết quan điểm bản thân ở cuối bài phát biểu tại Triển lãm và Hội thảo Macworld diễn ra vào tháng 1 năm 2007 bằng cách trích lời huyền thoại hockey trên băng Wayne Gretzky:[81]
Hoạ sĩ phim hoạt hình Floyd Norman nói rằng tại Pixar, Jobs là một "nhân vật già dặn, chín chắn" và không bao giờ can thiệp vào quá trình sáng tạo của các nhà làm phim.[82]Có một câu nói của Wayne Gretzky mà tôi yêu thích. 'Tôi sẽ trượt đến nơi bóng băng sẽ lăn đến, không phải đến nơi bóng đã lăn qua.' Và chúng tôi luôn luôn nỗ lực làm điều đó tại Apple. Ngay từ thuở khởi đầu sơ khai. Và chúng tôi sẽ luôn luôn làm như vậy.—Steve Jobs
Năm 2005, Steve Jobs cấm tất cả những quyển sách do công ty John Wiley & Sons xuất bản tại các cửa hàng bán lẻ của Apple để phản ứng lại việc xuất bản tiểu sử trái phép iCon: Steve Jobs (Biểu tượng: Steve Jobs).[83] Trong báo cáo doanh thu hàng năm năm 2010, Wiley cho biết việc này đã "đóng lại một giải pháp... để dùng tên gọi ấy cho iPad."[84]
Phát minh
Jobs là chủ sở hữu hoặc đồng sở hữu của hơn 230 bằng sáng chế được trao giải hoặc các ứng dụng được cấp bằng sáng chế trong lĩnh vực rộng lớn của công nghệ, từ máy tính cho tới thiết bị di động, giao diện người dùng (bao gồm giao diện dựa trên nền cảm ứng), loa, bàn phím, bộ chuyển năng lượng, cầu thang, móc cài, ống bọc ngoài, dây buộc và bao bì đóng gói sản phẩm.[85][86]Đời sống cá nhân
Steve làm đám cưới với Laurene Powell ngày 18 tháng 3 năm 1991, và họ có ba đứa con. Ông cũng có một đứa con gái từ mối quan hệ trước.Sức khoẻ và sự qua đời
Vào giữa năm 2004, Jobs thông báo cho nhân viên của mình rằng kết quả chẩn đoán cho biết ông có một khối u ung thư trong tuyến tụy.[87] Các dự đoán về bệnh ung thư tuyến tụy thường không khả quan, tuy nhiên, Jobs tuyên bố rằng ông bị một loại ung thư ít xâm thực hiếm có gọi là u tuỵ nội tiết.[87] Ban đầu ông phản đối việc áp dụng các biện pháp can thiệp y tế thông thường và bắt tay vào một chế độ ăn uống đặc biệt để ngăn chặn căn bệnh. Nhưng sau đó trong tháng 7 năm 2004, Jobs trải qua một dạng phẫu thuật phổ biến nhất trong việc điều trị ung thư tuyến tuỵ gọi là pancreaticoduodenectomy (hay "thủ tục Whipple"), kết quả cho thấy đã thành công việc cắt bỏ khối u.[88][89] Jobs dường như đã không yêu cầu hay không được trải qua hóa trị hoặc xạ trị.[87][90] Trong thời gian Jobs vắng mặt, Timothy D. Cook, người chịu trách nhiệm đứng đầu về hoạt động và bán hàng trên toàn thế giới tại Apple điều hành công ty.[87]Vào đầu tháng 8 năm 2006, Jobs tuyên bố một phát biểu quan trọng trong Hội thảo Phát triển Toàn cầu diễn ra hàng năm của Apple. Vẻ ngoài "ốm, gần như gầy", phát biểu thiếu sức sống bất thường,[91][92] cùng với tuyên bố quyết định uỷ quyền những phần quan trọng trong vai trò then chốt mà ông vốn đảm đương đã làm dấy lên một làn sóng phương tiện truyền thông và internet xoáy vào vấn đề sức khỏe của ông.[93] Ngược lại, theo tường thuật trên nhật báo Ars Technica, những người có mặt tại Hội thảo các nhà phát triển toàn cầu thấy rằng Jobs "trông có vẻ khoẻ".[94] Người đại diện của Apple cho biết rằng "Sức khoẻ của Steve rất tốt"[95]
Hai năm sau, những nghi vấn tương tự lại diễn ra sau tuyên bố của Jobs tại Hội thảo các nhà phát triển toàn cầu 2008.[96] Apple chính thức tuyên bố rằng Jobs là nạn nhân của một loại vi trùng thông thường và hiện đang dùng thuốc kháng sinh,[97] trong khi những người khác phỏng đoán dấu hiệu về bệnh suy nhược của ông là do các thủ tục Whipple trong điều trị.[98] Tại một cuộc họp tháng 7 thảo luận về doanh thu của Apple, những người tham gia trả lời cho những câu hỏi không ngừng về sức khỏe của Steve Jobs nhấn mạnh rằng đó là một "vấn đề riêng tư". Tuy nhiên, những người khác bày tỏ ý kiến rằng các cổ đông có quyền được biết nhiều hơn, họ muốn biết phương pháp chuyển giao để tiếp tục vận hành công ty của ông.[99] Tờ New York Times xuất bản một bài báo dựa trên một cuộc trò chuyện điện thoại phá kỷ lục với Jobs, cho biết rằng các vấn đề sức khỏe của ông "không đe dọa tính mạng và ông không bị ung thư tái phát".[100]
Ngày 28 tháng 8 năm 2008, truyền hình Bloomberg nhầm lẫn đưa ra bản cáo phó 2500 từ của Jobs trong phần tin tức doanh nghiệp, nhưng không cho biết về độ tuổi và nguyên nhân cái chết (các nhà truyền tin thường lưu trữ các bản cáo phó luôn được cập nhật để dễ dàng đưa tin sự kiện về cái chết không rõ thời điểm của một người nổi tiếng). Mặc dù lỗi được kịp thời sửa chữa, nhiều người đưa tin và các blog đã góp phần thuật lại điều này,[101][102][103] tăng cường các tin đồn liên quan đến sức khỏe của Jobs.[104] Jobs phản ứng trong bài tuyên bố tại Let's Rock vào tháng 9 năm 2008 của Apple bằng cách trích dẫn lời của Mark Twain: "Những tin tức về cái chết của tôi bị cường điệu quá mức. "[105] Tại một sự kiện truyền thông tiếp theo, Jobs kết thúc phần trình bày với màn trình chiếu "110/70", đề cập đến huyết áp của ông, khẳng định rằng sẽ không tiếp tục trả lời các câu hỏi về sức khỏe.[106]
Ngày 16 tháng 12 năm 2008, Apple thông báo rằng phó chủ tịch marketing Phil Schiller sẽ chuyển giao những vị trí chủ chốt cuối cùng của công ty tại Triển lãm và Hội thảo Macworld 2009, một lần nữa làm sống lại các câu hỏi về sức khỏe của Jobs.[107][108][109] Trong tuyên bố đưa ra vào ngày 5 tháng 1 năm 2009 trên trang Apple.com,[110] Jobs cho biết ông đang bị mất cân bằng hóc môn trong vài tháng.[111] Ngày 14 tháng 1 năm 2009, trong một bản ghi nhớ nội bộ của Apple, Jobs viết rằng vào tuần trước, ông đã "nghiệm ra rằng các vấn đề liên quan đến sức khỏe của tôi phức tạp hơn so với suy nghĩ ban đầu" và tuyên bố nghỉ 6 tháng vắng mặt cho đến khi kết thúc tháng 6 năm 2009 để tập trung chăm sóc tốt hơn cho sức khoẻ. Tim Cook, từng đảm nhiệm vai trò tổng giám đốc điều hành khi Jobs vắng mặt năm 2004, trở thành tổng giám đốc điều hành của Apple,[112] trong khi đó Jobs vẫn còn tham gia vào những quyết định chiến lược chủ chốt.[112]
Trong tháng 4 năm 2009, Jobs trải qua ca cấy ghép gan tại Viện Cấy ghép Bệnh viện Đại học Methodist ở Memphis, Tennessee.[113][114] Dự báo của Jobs về kết quả của việc này là "tuyệt vời".[114]
Ngày 17 tháng 1 năm 2011, một năm rưỡi sau khi Jobs trở về từ ca ghép gan, Apple thông báo rằng ông đã được cấp giấy nghỉ phép dưỡng bệnh. Jobs tuyên bố việc ra đi của mình trong một lá thư gửi các nhân viên, cho biết quyết định là để ông có thể tập trung vào tình hình sức khoẻ. Trong thời gian nghỉ dưỡng bệnh của ông vào năm 2009, Apple thông báo rằng Tim Cook sẽ điều hành các hoạt động hàng ngày và Jobs sẽ tiếp tục được tham gia vào các quyết định quan trọng chiến lược của công ty.[115][116] Mặc dù đã rời khỏi, ông vẫn xuất hiện tại sự kiện ra mắt iPad 2 vào ngày 2 tháng 3, tại tuyên bố giới thiệu iCloud trong Hội thảo các nhà phát triển toàn cầu Apple diễn ra vào ngày 6 tháng 6, và tại hội đồng thành phố Cupertino vào ngày 7 tháng 6.[117]
Ngày 24 tháng 8 năm 2011, Jobs tuyên bố từ chức tổng giám đốc điều hành của Apple. Trong thư từ chức, Jobs đã viết rằng ông có thể "không còn đáp ứng các nhiệm vụ và mong đợi trong vai trò CEO của Apple nữa".[118]
Vào ngày 05 tháng 10 năm 2011, trong một tuyên bố của gia đình anh có nói Jobs "đã ra đi thanh thản bên gia đình vào ngày hôm nay..." [119]
Apple đưa ra tuyên bố rằng Jobs đã qua đời.[28][120] Nội dung như sau: "Chúng tôi vô cùng thương tiếc thông báo rằng Steve Jobs qua đời ngày hôm nay. Nhiệt tình, đam mê và vinh quang của Steve là nguồn gốc cho vô số sáng kiến đã làm giàu và cải thiện đời sống của chúng ta. Thế giới trở nên vô cùng tốt đẹp hơn vì Steve. Tình yêu lớn nhất của ông dành riêng cho người vợ, bà Laurene, và gia đình. Tâm hồn chúng ta hướng đến họ và đến tất những những ai có cùng niềm rung động trước món quà đặc biệt mà ông đã trao trong cuộc đời."
Cũng từ ngày 5 tháng 10 năm 2011, trang chủ Apple chào đón khách ghé thăm bằng một thông điệp đơn giản: bức hình trắng đen của Steve Jobs, tên, năm sinh và mất của ông. Nhấp chuột vào hình ảnh của Jobs sẽ dẫn đến cáo phó với nội dung: "Apple đã mất đi một thiên tài sáng tạo và nhìn xa trông rộng, thế giới đã mất đi một con người tuyệt vời. Chúng tôi, những người đã may mắn quen biết và làm việc với Steve đã mất đi một người bạn thân thiết và người cố vấn đầy cảm hứng. Steve để lại sau lưng một công ty mà chỉ duy nhất ông là người có thể gầy dựng nên, và tinh thần của ông mãi mãi sẽ là nền tảng của Apple." Một địa chỉ email cũng được đăng lên công khai để chia sẻ những kỷ niệm, gửi lời chia buồn và cảm nghĩ.[121]
Jobs qua đời để lại người vợ mà ông đã kết hôn hơn 20 năm, bà Laurene, cùng ba đứa con. Ngoài ra còn một đứa con thứ tư, Lisa Brennan-Jobs từ mối quan hệ trước đó.[122]
Những phát biểu về việc Steve Jobs qua đời
Nhiều người nổi tiếng tại Mỹ đã đưa ra những lời phát biểu về sự ra đi của ông, trong đó bao gồm Bill Gates của Microsoft, Bob Iger của Walt Disney, nhà sáng lập Facebook Mark Zuckerberg và Tổng thống Barack Obama.[123]Bill Gates nói rằng:[124][125]
Tôi vô cùng đau buồn khi nghe tin về cái chết của Steve Jobs. Melinda và tôi xin gửi lời chia buồn chân thành đến gia đình và bạn bè của ông, và đến tất cả mọi người có mối liên hệ với Steve trong công việc. Steve và tôi gặp nhau lần đầu tiên cách đây gần 30 năm, và từ lâu đã là cộng sự, người cạnh tranh và bạn bè suốt hơn nửa cuộc đời của chúng tôi. Hiếm ai trên thế giới gây được những tác động sâu sắc như Steve, và những hiệu quả mang lại từ đó sẽ được nhiều thế hệ sau ghi nhận. Đối với những ai trong chúng ta đủ may mắn từng làm việc với ông, đó là một vinh dự tột cùng. Tôi sẽ nhớ Steve rất nhiều.Chủ tịch Walt Disney, Bob Iger bày tỏ thương tiếc với Jobs:[126]
Steve Jobs là một người bạn tuyệt vời và là một cố vấn đáng tin tưởng. Di sản ông để lại sẽ vượt xa các sản phẩm ông đã tạo ra hoặc các doanh nghiệp ông mà đã xây dựng nên. Hàng triệu người đã được ông truyền cảm hứng, hàng triệu cuộc sống đã thay đổi vì ông và nền văn hóa ông xác lập ra. Steve là một tấm gương xác thực, với tâm trí đầy sáng tạo và trí tưởng tượng đã định một kỷ nguyên mới. Bất chất những gì lớn lao ông đã thực hiện, chúng dường như chỉ mới là sự bắt đầu. Sự qua đời của ông đồng nghĩa với thế giới đã mất đi một tấm gương, Disney đã mất đi một thành viên gia đình, và tôi đã mất một người bạn tuyệt vời. Xin dành những tâm tư và lời cầu nguyện của chúng tôi đến người vợ Laurene và con cái của ông trong thời gian khó khăn này.Đạo diễn người Mỹ Steven Spielberg cho biết: "Steve Jobs là nhà sáng chế lỗi lạc nhất từ sau Thomas Edison. Ông đưa thế giới đến đầu ngón tay của chúng ta."[127]
Vinh danh
Ông được Tổng thống Ronald Reagan trao tặng Huân chương Quốc gia về Công nghệ vào năm 1984 cùng với Steve Wozniak (nằm trong số những người đầu tiên từng nhận được vinh dự này),[128] và một Giải thưởng Jefferson cho Dịch vụ công ở hạng mục "Dịch vụ công tuyệt vời nhất do một cá nhân 35 năm tuổi trở xuống" (hay còn gọi là giải thưởng Samuel S. Beard) vào năm 1987.[129]Ngày 27 tháng 11 năm 2007, Jobs được tạp chí Fortune mệnh danh là người có quyền lực nhất trong giới kinh doanh.[130]
Ngày 5 tháng 12 năm 2007, Thống đốc bang California Arnold Schwarzenegger và Đệ nhất phu nhân Maria Shriver đưa nhân vật Jobs vào California Hall of Fame, tọa lạc tại Bảo tàng California về Lịch sử, Phụ nữ và Nghệ thuật.[131]
Tháng 8 năm 2009, Jobs được bầu là doanh nhân được giới trẻ ngưỡng mộ nhiều nhất theo một cuộc khảo sát của tổ chức thanh thiếu niên phi lợi nhuận Junior Achievement.[132]
Ngày 5 tháng 11 năm 2009, tạp chí Fortune mệnh danh Jobs là tổng giám đốc điều hành của thập kỷ.[133]
Tháng 11 năm 2009, Jobs được xếp hạng thứ 57 tronng danh sách những người quyền lực nhất thế giới của công ty truyền thông và xuất bản Forbes.[134]
Tháng 12 năm 2010, thời báo tài chính Financial Times gọi Jobs là nhân vật tiêu biểu của thời báo này trong năm 2010, phần cuối của bài luận đề cập đến trích dẫn trong tự truyện của John Sculley - cựu giám đốc điều hành PepsiCo, người từng điều hành Apple - như sau: "Apple được dự định sẽ trở thành một công ty sản phẩm tiêu dùng tuyệt vời. Đây quả là một kế hoạch điên cuồng. Công nghệ cao không thể được thiết kế và bán như một sản phẩm tiêu dùng." Bài báo kết luận rằng làm thế nào Sculley có thể sai lầm đến vậy.[135]
Trong văn hoá đại chúng
Dựa vào tuổi trẻ, tài sản lớn uy tín cá nhân, cùng với việc thành lập Apple, Jobs trở thành một biểu tượng của nền công nghiệp và công ty Apple. Khi tạp chí Time vinh danh máy tính là "Cỗ máy của năm", tạp chí này đăng kèm theo một tiểu sử dài về Jobs, đánh giá ông là "nhạc trưởng nổi tiếng nhất về những vật tinh vi ở tỉ lệ siêu nhỏ."[136][137] Jobs nổi bật đặc trưng trong ba bộ phim về lịch sử của ngành công nghiệp máy tính cá nhân, bao gồm:- Triumph of the Nerds — phim tài liệu 3 phần năm 1996 chiếu trên PBS, nói về sự trỗi dậy của máy tính gia đình/máy tính cá nhân.
- Nerds 2.0.1 — phim tài liệu 3 phần 1998 của chiếu trên PBS, (tiếp theo của Triumph of the Nerds) ghi lại sự phát triển của internet.
- Pirates of Silicon Valley (Những tên cướp tại thung lũng Silicon) — phim phóng sự dựa trên những sự kiện có thật, sản xuất năm 1999, ghi lại sự phát triển của Apple và Microsoft. Trong phim này, Noah Wyle thủ vai Jobs.
Tham khảo
- ^ a b “Smithsonian Oral and Video Histories: Steve Jobs”. Smithsonian Institution. 20 tháng 4 năm 1995. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2006.
- ^ “Apple Visionary Steve Jobs Dies At 56”. NPR. 5 tháng 10 năm 2011.
- ^ Gauvin, P and Arrington, V. (Aug 9, 1996). WAVERLEY STREET: Clinton stops by Palo Alto for dinner: Excited residents greet president in front of Steve Jobs' house. Palo Alto Online. Retrieved on: 2010-07-19.
- ^ a b “Apple — Press Info — Bios — Steve Jobs”. Apple Inc. May năm 2006. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2006.
- ^ “The Walt Disney Company and Affiliated Companies – Board of Directors”. Walt Disney Company. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Putting Pay for Performance to the Test”. New York Times. 8 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Apple again pays Jobs $1 salary”. CNET News.com. 13 tháng 3 năm 2006. Đã bỏ qua tham số không rõ
|df=
(trợ giúp) - ^ “Jobs' salary remained at $1 in 2005”. AppleInsider. 14 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Steve Jobs banks his $1 salary, loses $500m”. The Independent (London). 8 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Forbes 400 Richest Americans”. Forbes. Tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
- ^ Elkind, Peter (15 tháng 3 năm 2008). “The trouble with Steve Jobs”. Fortune. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2008.
- ^ a b Markoff, John (1 tháng 9 năm 1997). “An 'Unknown' Co-Founder Leaves After 20 Years of Glory and Turmoil”. New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Steve Jobs Resigns as CEO of Apple” (Thông cáo báo chí). Apple Inc. 24 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Steve Jobs Resigns as Apple CEO”. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2011.
- ^ IMDB, "Toy Story" Credits
- ^ Kahney, Leander (6 tháng 1 năm 2004). “Wired News: We're All Mac Users Now”. Wired News. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2006.
- ^ “America's Most Admired Companies: Jobs' journey timeline”. CNNMoney.com. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010. Jobs and a team of engineers visit Xerox PARC, where they see a demo of mouse and graphical user interface
- ^ Vivek Kaul (11 tháng 5 năm 2009). “What Steve Jobs did when he was fired from Apple”. DNA (newspaper).
- ^ a b c d “'You've got to find what you love,' Jobs says”. Stanford Report. 14 tháng 6 năm 2005. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2006."I didn't see it then, but it turned out that getting fired from Apple was the best thing that could have ever happened to me".
- ^ “Pixar History – 1986”. Pixar. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2008.
- ^ a b January 25, 2006 Disney buys Pixar for $7.4 bn, rediff.com
- ^ “The Walt Disney Company — Steve Jobs Biography”.
- ^ Holson, Laura M. (25 tháng 1 năm 2006). “Disney Agrees to Acquire Pixar in a $7.4 Billion Deal”. The New York Times. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Pixar Becomes Unit of Disney”. The New York Times & The Associated Press. 6 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
- ^ a b Cringely, Robert X. (1 tháng 4 năm 2004). “Steve Jobs – Apple Computer, Pixar”. Inc. Magazine. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2006.
- ^ a b http://wordswithmeaning.org/2011/08/apple-co-founder-steve-jobs-resigns.html#axzz1VuPez1aE.
|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ http://www.apple.com/pr/library/2011/08/24Letter-from-Steve-Jobs.html.
|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ a b “Remembering Steve Jobs”. Cupertino, California: Apple Inc. 5 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Apple Co-Founder Steve Jobs Dies at 56”. Chicago Tribune. 5 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
- ^
- Joan Ferrante (2012). Sociology: A Global Perspective. Cengage Learning. tr. 218. ISBN 1111833907.
- Shirin Sadeghi (6 tháng 10 năm 2011). “Steve Jobs' Arab-American background and the story of his adoption”. New America Media.
- “Steve Jobs Dies: He Was The Most Famous Arab in the World”. International Business Times. 5 tháng 10 năm 2011.
- ^ The Federal Bureau of Investigations; The Federal Bureau of Investigations Staff (20 tháng 2 năm 2012). The FBI File on Steve Jobs. Skyhorse Publishing Inc. tr. 27–. ISBN 978-1-62087-251-2. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2013.
- ^ a b Sherman, Suzan. “BOMB Magazine: Mona Simpson by Ameena Meer”. Bombsite.com. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2010.
- ^ Smith, David (29 tháng 1 năm 2006). “The non-stop revolutionary”. The Guardian (London).
- ^ Lohr, Steve (12 tháng 1 năm 1997). “Creating Jobs”. The New York Times.
- ^ Alan Deutschman, Richard Siklos, Heather Halberstadt, John Brodie, Duff McDonald, Craig Offman and Richard Rushfield, "The New Establishment 2005: The 50 Most Powerful Leaders of the Information Age", Vanity Fair, October 1, 2005.
- ^ Andy Behrendt, "Apple Computer mogul's roots tied to Green Bay", Green Bay Press-Gazette, December 4, 2005.
- ^ David Smith, "The non-stop revolutionary", The Observer (U.K.), January 26, 2006.
- ^ Rob Waugh, additional reporting by Paul Henderson, "iGod—how Apple went bad, and made billions from doing it", Daily Mail (U.K.), April 30, 2008.
- ^ "Steve Jobs, Apple's iGod: Profile", Telegraph (U.K.), January 14, 2009.
- ^ Elkind, Peter (4 tháng 3 năm 2008). “The trouble with Steve Jobs”. CNN.
- ^ “Biography: Steve Jobs”. The Apple Museum. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2006.
- ^ http://collegeapps.about.com/od/choosingacollege/tp/top_colleges.htm
- ^ Campbell, Duncan (8 tháng 6 năm 2004). “The Guardian Profile: Steve Jobs”. The Guardian (UK). Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2006.
- ^ Andrews, Amanda (14 tháng 1 năm 2009). “Steve Jobs, Apple's iGod: Profile”. The Daily Telegraph (UK). Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Steve Jobs profile: Apple's hard core”. Edinburgh: News scotsman. 11 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2009.
- ^ a b Markoff, John (2005). What the Dormouse Said: How the 60s Counterculture Shaped the Personal Computer Industry. The Penguin Group. ISBN 0-670-03382-0. pg. xviii–xix.
- ^ Letters – General Questions Answered, Woz.org
- ^ Wozniak, Steven: "iWoz", a: pages 147–148, b: page 180. W. W. Norton, 2006. ISBN 978-0-393-06143-7
- ^ Kent, Stevn: "The Ultimate History of Video Games", pages 71–73. Three Rivers, 2001. ISBN 0-7615-3643-4
- ^ “Player 2 Stage 1: The Coin Eaters”. Thedoteaters.com. 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Breakout”. Arcade History. 25 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Classic Gaming: A Complete History of Breakout”. Classicgaming.gamespy.com. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Pixar Founding Documents”. Alvyray.com. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ Wolff, Michael, "iPod, Therefore I am", Vanity Fair magazine, April, 2006. Retrieved September 3, 2010.
- ^ Apple Computer, Inc. Finalizes Acquisition of NeXT Software Inc., Apple Inc., February 7, 1997. Retrieved on June 25, 2006.
- ^ “Apple Formally Names Jobs as Interim Chief”. New York Times (New York). 17 tháng 9 năm 1997. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2011.
- ^ “The once and future Steve Jobs”. Salon.com. 11 tháng 10 năm 2000.
- ^ Norr, Henry (6 tháng 1 năm 2000). “MacWorld Expo / Permanent Jobs / Apple CEO finally drops 'interim' from title”. SF Gate (San Francisco). Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Real Artists Ship”.
- ^ “Apple Improves Recycling Plan”. PC Magazine. 21 tháng 4 năm 2006.
- ^ Siegler, MG. “Steve Jobs Resigns As CEO Of Apple”. TechCrunch. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2011.
- ^ Gupta, Poornima (18 tháng 8 năm 2011). “Steve Jobs Quits”. Reuters.com. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2011.
- ^ “AAPL: Summary for Apple Inc.- Yahoo! Finance”. Finance.yahoo.com. 2 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2011.
- ^ Steve Jobs từ chức CEO Apple, doanh nhân toàn cầu tiếc nuối VnExpress. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2011. (tiếng Việt)
- ^ Valentino-DeVries, Jennifer (24 tháng 8 năm 2011). “Apple’s Stock: Looks Like Jobs’s Departure Was Priced In”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2011.
- ^ Steve Schaefer (26 tháng 7 năm 2011). “Forbes”. Forbes. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2011.
- ^ “DIS: Summary for Walt Disney Company (The) Commo- Yahoo! Finance”. Finance.yahoo.com. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Executive salaries on the rise again”. Slideshow (bằng Australian). Nine MSN. tr. 5. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2011.
- ^ "Steve Jobs is $300 million richer". Fortune. Retrieved June 10, 2010.
- ^ "The 400 Richest Americans 2009". Fortune. Retrieved August 12, 2010.
- ^ "Thoughts On The Steve Jobs Legacy". Bloomberg Businessweek. Retrieved August 12, 2010.
- ^ "The Trouble With Steve Jobs". Fortune. Retrieved August 12, 2010.
- ^ "Ai thừa kế 8,3 tỷ USD của Steve Jobs?" "24H.COM.VN" Thứ Sáu, ngày 07/10/2011, 10:54
- ^ “New questions raised about Steve Jobs's role in Apple stock options scandal”. 28 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Apple restates, acknowledges faked documents”. EE Times. 29 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ
|df=
(trợ giúp) - ^ “Group Wants $7B USD From Apple, Steve Jobs, Executives Over Securities Fraud”.
- ^ “Apple, Steve Jobs, Executives, Board, Sued For Securities Fraud”.
- ^ Colvin, Geoff (19 tháng 3 năm 2007). “Steve Jobs' Bad Bet.”. Fortune. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
- ^ Dumaine, Brian (18 tháng 10 năm 1993). “AMERICA'S TOUGHEST BOSSES In an era of endless restructuring, cutting heads like Robespierre on a rampage is just average. These leaders inflict pain by messing with your mind as well. Here's what they're like to work for”. CNN.
- ^ Appleyard, Bryan (16 tháng 8 năm 2009). “Steve Jobs: The man who polished Apple”. The Sunday Times (UK). tr. 2. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
- ^ “JOBS MACWORLD 07”. blog.seattlepi.nwsource.com. 2007. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ Floyd Norman (19 tháng 1 năm 2009). “Steve Jobs: A Tough Act to Follow”. Jim Hill Media. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2009.
- ^ Hafner, Katie (30 tháng 4 năm 2005). “Steve Jobs' Review of His Biography: Ban It”. The New York Times. tr. Technology. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2006.
- ^ Weinman, Sarah (17 tháng 6 năm 2010). “Education Publisher John Wiley & Sons Closes Fiscal Year on a Strong Note”. DailyFinance (AOL). Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2010.
- ^ "IN/"Jobs, Steven"" “[[United States Government|Governmental]] patent database”. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)
- ^ "IN/"Jobs, Steve"" “[[United States Government|Governmental]] patent database”. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)
- ^ a b c d Evangelista, Benny (2 tháng 8 năm 2004). “Apple's Jobs has cancerous tumor removed”. San Francisco Chronicle. tr. A1. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2006.
- ^ “Pancreatic Cancer Treatment”. Mayo Clinic. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ NY Times
- ^ Elmer, Philip (13 tháng 6 năm 2008). fortune.cnn. com/2008/06/13/steve-jobs-life-after-the-whipple/?source=yahoo_quote “Steve Jobs and Whipple”. Apple20.blogs. fortune.cnn.com. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ "Looking very thin, almost gaunt": Kahney, Leander. “Has Steve Jobs Lost His Magic?”. Cult of Mac. Wired News. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ "[The audience was] uninspired (and concerned) by Jobs' relatively listless delivery": Meyers, Michelle. “Jobs speech wasn’t very Jobs-like”. BLOGMA (CNET News.com). Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ Saracevic, Al (9 tháng 8 năm 2006). “Where's Jobs' Mojo?”. San Francisco Chronicle. tr. C1. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2006.
- ^ Cheng, Jacqui. “What happened to The Steve we know and love?”. Infinite Loop. Ars Technica. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2006.
- ^ Claburn, Thomas (11 tháng 8 năm 2006). “Steve Jobs Lives!”. InformationWeek. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Business Technology: Steve Jobs' Appearance Grabs Notice, Not Just the IPhone”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ "Apple says Steve Jobs feeling a little under the weather" in AppleInsider.
- ^ Elmer, Philip (13 tháng 6 năm 2008). fortune.cnn. com/2008/06/13/steve-jobs-life-after-the-whipple/ “Fortune Magazine Article”. Apple20.blogs. fortune.cnn.com. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ "Steve Jobs and Apple" Marketing Doctor Blog. July 24, 2008.
- ^ Talking Business: Apple’s Culture of Secrecy The New York Times (July 26, 2008).
- ^ “Steve Jobs' Obituary, As Run By Bloomberg”. Gawker Media. 27 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2008.
- ^ Moore, Matthew (28 tháng 8 năm 2008). “Steve Jobs Obituary Published By Bloomberg”. The Daily Telegraph (UK). Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Bloomberg mistakenly publishes Steve Jobs obituary”. Yahoo! News. Yahoo!. 28 tháng 8 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2008. [liên kết hỏng]
- ^ “Bloomberg publishes Jobs obit but why?”. Zdnet Blogs. ZDnet. 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Apple posts 'Lets Rock' event video”. Macworld. 10 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2008.
- ^ “Live from Apple's "spotlight turns to notebooks" event”. Engadget. 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2008.
- ^ Stone, Brad (17 tháng 12 năm 2008). “Apple's Chief to Skip Macworld, Fueling Speculation”. The New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
- ^ Apple abandons Macworld amid Jobs illness rumours Daily Headlines – GQ.com UK
- ^ “Steve Jobs' Health Declining Rapidly, Reason for Macworld Cancellation – Steve Jobs' health”. Gizmodo. 30 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ Jobs, Steve (5 tháng 1 năm 2009). “Letter from Apple CEO Steve Jobs”. Apple.com. Apple Inc. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Apple's Jobs admits poor health”. BBC News. 5 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2009.
- ^ a b “Apple Media Advisory”. Apple Inc. 14 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Steve Jobs Receives Liver Transplant – Methodist Le Bonheur Healthcare”. Methodisthealth.org. 23 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. [liên kết hỏng]
- ^ a b liver. transplant/index.html “Steve Jobs recovering after liver transplant”. CNN. 23 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ Helft, Miguel (17 tháng 1 năm 2010). “Apple Says Steve Jobs Will Take a New Medical Leave”. The New York Times. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Steve Jobs to take medical leave of absence but remain Apple CEO”.
- ^ Abell, John (8 tháng 6 năm 2011). “Video: Jobs Pitches New ‘Mothership’ to Approving Cupertino City Council”. Epicenter. Wired. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Apple Resignation Letter” (Thông cáo báo chí). Apple. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2011.
- ^ Steve Jobs, Apple Co-Founder, Is Dead - WSJ.com
- ^ “Statement by Apple's Board of Directors”. MarketWatch. 5 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2011.
- ^ Apple - Remembering Steve Jobs
- ^ Griggs, Brandon (5 tháng 10 năm 2011). “Steve Jobs, Apple founder, dies”. CNN.
- ^ President Obama on the Passing of Steve Jobs: "He changed the way each of us sees the world." | The White House
- ^ Steve Jobs
- ^ Steve Jobs, co-founder of Apple, has passed away at 56 - Engadget
- ^ Bill Gates, Mark Zuckerberg, Other CEOs and Celebrities React to Steve Jobs' Death - Yahoo! News
- ^ Disney CEO: "Jobs Was Such an Original"
- ^ “THE NATIONAL MEDAL OF TECHNOLOGY RECIPIENTS 1985 Laureates”. Uspto.gov. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ “National Winners | public service awards”. Jefferson Awards.org. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ “25 most powerful people in business 1. Steve Jobs”. CNN. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ Jobs inducted into California Hall of Fame, California Museum. Retrieved 2007.
- ^ “Steve Jobs bigger than Oprah!” (PDF). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ Lashinsky, Adam (5 tháng 11 năm 2009). “Steve Jobs: CEO of the decade”. CNN. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ Noer, Michael (11 tháng 11 năm 2009). “The World's Most Powerful People”. Forbes.
- ^ Richard Waters and Joseph Menn, "Silicon Valley visionary who put Apple on top," Financial Times, December 22, 2010. The actual text from the biography is:
- Apple was supposed to become a wonderful consumer products company. That's why it hired a soft-drinks guy in the first place. By now, however, I knew this was a lunatic plan; our race to realize it had been a death march. Technology companies are only superficially in the same category as consumer products companies. We couldn't bend reality to all our dreams of changing the world. The world would also have to change us. Our perspective had been hopelessly wrong. High tech could not be designed and sold as a consumer product. The consumer business had collapsed at the end of 1984. Most people who bought computers stuffed them in the closet because balancing a checkbook wasn't reason enough to flick on the switch. Consumers weren't ready to put computers in their homes as easily as they installed telephones, refrigerators, televisions, and even Cuisinarts. They weren't willing to pay a couple of thousand dollars for something they didn't know what to do with.
- ^ Cocks, Jay; Michael Moritz (3 tháng 1 năm 1983). “The Updated Book of Jobs”. Time. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2011.
- ^ Golden, Frederic (3 tháng 1 năm 1983). “Other Maestros of the Micro”. Time. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2011.
Liên kết ngoài
- Cuộc đời Steve Jobs
- Doanh nhân Mỹ tiếc thương Steve Jobs
- Sự nghiệp của Steve Jobs qua ảnh
- Steve Jobs: một cuộc đời - một huyền thoại
- 'Huyền thoại' Steve Jobs của hãng Apple qua đời
- Steve Jobs, chuyện tự làm và sự nghiện việc
- Remembering Steve Jobs
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Steve Jobs |
- Bí quyết thành công của Steve Jobs
- Tiểu sử chính thức của Steve Jobs
- Bản tóm tắt công việc của Steve Jobs
Cơn sốt vàng California
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cơn sốt vàng California (tiếng Anh: California Gold Rush (1848–1855) bắt đầu tháng 1 năm 1848, khi James W. Marshall phát hiện vàng ở Sutter's Mill, Coloma, California.[1] Thông tin về việc tìm vàng đầu tiên từ những người ở Oregon, Sandwich Islands (Hawaii), và Mỹ Latin, họ là những người đầu tiên đổ xô đến bang Calofornia vào cuối năm 1848. Khi tin này lan ra, khoảng 300.000 người đã đến California từ khắp nơi trên nước Mỹ và từ nước ngoài.[2] Trong số đó, khoảng phân nửa là đến bằng đường biển và nửa đến từ miền đông bằng California Trail và tuyến sông Gila.
Những người tìm vàng đầu tiên được gọi là "forty-niners", đến California bằng thuyền buồm và bằng covered wagons xuyên qua lục địa, thường phải chịu nhiều gian khổ trong chuyến đi. Trong khi phần lớn những người mới đến là người Mỹ, cơn sốt vàng cũng thu hút hàng ngàn người từ Mỹ Latin, châu Âu, châu Úc và châu Á. Ban đầu, những người tìm kiếm đã đãi vàng từ các con suối và lòng sông với các kỹ thuật đơn giản, như đãi, và sau đó phát triển các phương pháp chiết vàng tinh vi hơn và sau này được cả thế giới áp dụng. Vàng có giá trị hàng tỷ dollar Mỹ theo thời giá hiện nay đã được khai thác được, dẫn đến sự giàu có cho một số người, nhiều người trở về quê với vẻn vẹn một chút vàng có giá trị chỉ cao hơn lúc họ mới bắt đầu.
Hiệu ứng của cơn sốt vàng California khá quan trọng. San Francisco phát triển từ một ngôi làng lều trại thành một boomtown, và đường sá, nhà thờ, trường học và các thị trấn khác đã được xây dựng. Một hệ thống luật lệ và chính quyền đã được tạo ra, dẫn đến sự gia nhập của California là bang của Hoa kỳ năm 1850. Các phương thức vận tải đã phát triển khi tàu hơi nước đã được đưa vào hoạt động thường xuyên và đường sắt đã được xây dựng. Công việc kinh doanh nông nghiệp, lĩnh vực tăng trưởng chính của California đã được bắt đầu trên một quy mô rộng khắp bang. Tuy nhiên, Cơn sốt vàng California cũng có ảnh hưởng tiêu cực của nó: thổ dân Mỹ đã bị tấn công và bị trục xuất khỏi vùng đất truyền thống của họ và sự khai thác vàng gây ra tổn hại môi trường. Ước tính có khoảng 100.000 người da đỏ ở California chết trong khoảng 1848 - 1868, và khoảng 4.500 trong số đó bị giết.[3]
Vào lúc vàng được phát hiện, California là một phần lãnh thổ Mexico của Alta California, được nhượng lại cho Hoa Kỳ sau khi kết thúc chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ bởi Hòa ước Guadalupe Hidalgo ngày 2 tháng 2 năm 1848.
Ngày 19 tháng 8 năm 1848, New York Herald là tờ báo lớn đầu tiên ở bờ đông thông báo về việc phát hiện ra vàng. Ngày 5 tháng 12, 1848, Tổng thống James Polk xác nhận việc phát hiện ra vàng này đến Quốc hội Hoa Kỳ.[9] Không lâu sau đó, các làn sóng di dân từ khắp thế giới, mà sau này gọi là "forty-niners", đến Gold Country of California hay "Mother Lode". Đúng như lo sợ của Sutter, ông ta đã phá sản; các công nhân của ông bỏ việc để đi tìm váng, và những người chiếm đất đã lấy đất của ông và ăn cắp mùa màng và gia súc của ông.[10]
San Francisco từng là một khu định cư nhỏ trước khi cơn sốt tìm vàng bắt đầu. Khi người dân đã học được cách tìm vàng, nó là nơi đầu tiên trở thành thị trấn ma do tàu và việc kinh doanh bị bỏ hoang,[11] nhưng không lâu sau lại bùng phát khi những người mới di cư đến. Dân số của San Francisco bùng nổ từ khoảng 1.000[12] năm 1848 đến 25.000 người năm 1850.[13] Thợ mỏ sống trong các lều, wood shanties, hoặc boong cabin tháo dỡ từ tàu bỏ hoang.[14] Bất cứ nơi nào vàng được phát hiện, hàng trăm thợ mỏ có thể hợp tác để xây một trại và đặt cọc tuyên bố của họ. Với các tên gọi như Rough và Ready và Hangtown (Placerville, California), mỗi trại thường sở hữu một saloon riêng và sòng bạc.[15]
Như những gì đã từng được xem là "cơn sốt vàng bậc nhất thế giới",[16] không có một cáh dễ dàng nào để đến California; forty-niners phải đối mặt với những khó khăn và thậm thí là cái chết trên đường đi. Đầu tiên, hầu hết Argonaut họ đi bằng đường biển. Từ bờ biển đông, các tàu buồn đi vòng qua mũi Nam Mỹ phải mất từ 5 đến 8 tháng,[17] và trải qua 33.000 km (18.000 dặm). Một cách khác là đi tàu buồn qua phía Đại Tây Dương của Isthmus of Panama, dùng canoe và bằng la mất một tuần qua rừng rậm, và sau đó đến bờ Thái Bình Dương, chờ tàu buồm để đến San Francisco.[18] Cũng có một tuyến đường khác qua Mexico bắt đầu từ Veracruz. Nhiều người tìm vàng sử dụng các tuyến đường trên bộ trên khắp nước Mỹ, đặc biệt là dọc theo California Trail.[19] Các tuyến đường như thế này có những hiểm họa chết người như số thương hàn và dịch tả.[20]
Để đảm bảo việc vận chuyển những người đến đây, các tàu chở hàng hóa từ khắp thế giới cũng đến San Francisco. Thuyền trưởng các tàu này đã nhận thấy rằng thủy thủ của họ cũng có tham vọng tìm vàng. Các cảng của San Francisco trở thành "rừng buồm", khi hàng trăm tàu bè bị bỏ phế. Giới kinh doang San Franciscans biến các tàu bỏ phế thành nhà kho, cửa hàng, quán rượu và khách sạn và một nhà tù.[21] Nhiều tàu trong số đó sau này bị phá hủy và được sử dụng cho san lấp để có đất xây dựng ở boomtown.
Trong vòng vài năm, cũng có một số lượng lớn người thăm dò đi về phía bắc của Bắc California, đặc biệt là các quận Siskiyou, Shasta và Trinity ngày nay.[22] Việc phát hiện ra vàng cốm tại vị trí mà ngày nay là Yreka năm 1851 đã khiến hàng ngàn người tìm vàng đến đây bằng Siskiyou Trail[23] và trên khắp các quận phía bắc của California.[24] Những người định cư ở khu vực tìm vàng như Portuguese Flat trên sông Sacramento, bắt đầu xuất hiện và sau đó thì giảm dần. Thị trấn của thời kỳ Cơn sốt vàng của Weaverville ven sông Trinity River ngày nay vẫn còn chùa Taoist cổ nhất ở California, một biểu tượng của các thợ mỏ Trung Quốc đã đến đây. Trong khi không có nhiều các thị trấn ma trong thời kỳ Cơn sốt vàng vẫn còn tồn tại, phần còn lại của thị trần từng nhộn nhịp Shasta đã được bảo tồn trong Công viên lịch sử bang California ở miền bắc California.[25]
Vàng cũng được tìm thấy ở Nam California nhưng có quy mô nhỏ hơn. Vàng được phát hiện đầu tiên ở Rancho San Francisco ở phía bắc của dãi núi thuộc Los Angeles, năm 1842, trước phát hiện của Marshall 6 năm, trong khi California vẫn còn là một phần của Mexico.[26] Tuy nhiên, các mỏ đầu tiên này, và sau các mỏ được phát hiện sau đó ở các dải núi thuộc Nam California được thông báo rằng có ít giá trị kinh tế.[26]
Đến năm 1850, hầu hết loại vàng ở những nơi dễ thu hồi đã được khai thác, và người ta chuyển hướng đến những nơi khó khăn hơn. Khi độ khó tăng cao, người Mỹ bắt đầu đuổi những người nước ngoài ra khỏi những nơi dễ khai thác còn lại. Một đạo luật bang California mới được thông qua theo đó các thợ mỏ người nước ngoài phải đóng thuế 20 đô la mỗi tháng (560 USD mỗi tháng theo giá trị năm 2014), và những người tìm kiếm thăm dò người Mỹ bắt đầu tổ chức tấn công người nước ngoài, đặc biệt là Mỹ Latin và Trung Quốc.[27] Thêm vào đó, một lượng lớn những người mới đến đã đuổi những người Mỹ bản địa ra khỏi khu vực săn bắn, đánh bắt cá và hái lượm truyền thống của họ. Để bảo vệ nhà cửa và sinh kế, một số người Mỹ bản địa tấn công lại những người thợ mỏ. Chính điều này đã tạo nên các cuộc tấn công vào các làng của người Mỹ bản địa, ngoài một số bị bắn còn bị tàn sát.[28] Những người thoát khỏi cuộc tàn sát nhiều lần không thể sống sót vì không có khu vực hái lượm thức ăn và họ chết vì đói. Nhà văn và cũng là nhà viết tiểu thuyết Joaquin Miller đã miêu tả một cách sinh động các cuộc tấn công như thế này trong quyển bán tự truyện của ông, Life Amongst the Modocs.[29]
Thông điệp "Cơn sốt vàng" ban đầu được truyền bá rất chậm. Những người đi tìm vàng đầu tiên nhất là những người sống gần California hoặc những người nghe tin được từ các tàu trên các chuyến hàng hải nhanh từ California. Một nhóm lớn người Mỹ đầu tiên đã đến California từ vùng Oregon bằng Siskiyou Trail.[32] Sau đó là những người đến từ quần đảo Sandwich, và hàng ngàn người Mỹ Latin như từ Mexico, Peru và tận Chile,[33] bằng tàu và đường bộ.[34] Đến cuối năm 1848, 6.000 người đã đến California.[34] Chỉ một số ít (ít hơn 500 người) đã đi bằng đường bộ Hoa Kỳ vào năm đó.[34] Một vài người "forty-eighters",[35] là những người tìm kiếm vàng đầu tiên được gọi như thế, vì họ có thể kiếm được một lượng lớn vàng; trong một số trường hợp họ có thể kiếm được hàng ngàn đô la mỗi ngày.[36][37] Thậm chí những người tìm vàng thông thường có thể có thu nhập trung bình từ vàng gấp 10 đến 15 lần so với thu nhập từ lạo động chân tay ở bờ biển Đông Hoa Kỳ. Một người làm việc sáu tháng trong mỏ vàng có thể có thu nhập tương đương 6 năm khi làm việc ở nhà.[38] Một số người hy vọng rằng có thể giàu lên nhanh chóng và trở về nhà, và một số khác mong muốn ở lại California để bắt đầu sự nghiệp kinh doanh.
Vào đầu năm 1849, "Cơn sốt vàng" đã lan rộng khắp thế giới, và số lượng người tìm vàng và thương nhân áp đảo đến từ khắp các châu lục trên thế giới. Nhóm lớn nhất là "forty-niners" năm 1849 là những người Mỹ khoảng 10.000 người đã đến đây bằng đường bộ và dọc theo các tuyến đường thủy khác nhau[39] (tên gọi "forty-niner" bắt đầu xuất hiện từ năm 1849). Một số đến từ Bờ Đông đã băng qua dãy núi Appalachian, sử dụng tàu đi sông ở Pennsylvania, đi keelboats trên sông Missouri, và sau đó đi bằng tàu wagon dọc theo California Trail. Những người khác đi bằng đường qua eo đất Panama và tàu hơi nước của Pacific Mail Steamship Company. Những người Úc[40] và những người New Zealanders thì nhận được tin tức từ các tàu chở những nhà báo người Hawaii, và hàng ngàn người bị "nhiễm cơn sốt vàng" đã đón tàu đi California.[41] Những người "forty-niners" đến từ Châu Mỹ Latin, một số từ những mỏ của Mexico gần Sonora.[41] Những người tìm vàng và thương nhân từ châu Á chủ yếu là Trung Quốc,[42] cũng bắt đầu đến năm 1849, số lượng người đầu tiên đến Gum San (tên gọi theo cách của người Trung Quốc chỉ California - tức "Núi Vàng") rất khiêm tốn.[43] Những người châu Âu đầu tiên là những người chịu ảnh hưởng từ cuộc cách mạng năm 1848 và họ phải vượt qua quảng đường dài hơn nên đến California vào cuối năm 1849, chủ yếu là từ Pháp,[44] một số người Đức, Ý, và Anh.[39] Hầu hết họ đến bằng đường biển ở các vùng ven biển.
Ước tính có khoảng 90.000 người đã đến California năm 1849—nửa trong số họ đến bằng đường bộ và nửa bằng đường thủy.[45] Trong số đó, có khoảng 50.000 đến 60.000 là người Mỹ, và số còn lại đến từ các quốc gia khác.[39] Đến năm 1855, ít nhất là 300.000 bao gồm người tìm vàng, thương nhân và những người di cư khác đã đến California từ khắp nơi trên thế giới.[46] Nhóm lớn nhất vẫn là người Mỹ, nhưng có khoảng hàng chục ngàn là người Mexico, Trung Quốc, Anh, Úc[47] Pháp, và Mỹ Latin,[48] cùng với một số nhóm nhỏ hơn gồm các thợ mỏ là người Filipin, Basque[49] và Turk.[50] Những người từ các ngôi làng nhỏ ở các đồi gần Genova, Ý nằm trong nhóm những người định cư lâu dài ở chân đồi Sierra; họ mang theo những kỹ năng nông nghiệp truyền thống và phát triển chúng để sống sót qua các mùa đông lạnh giá.[51] Một số ít thợ mỏ là người gốc Phi (khoảng ít hơn 4.000)[52] đã đến từ miền nam Hoa Kỳ,[53] Caribe và Brazil.[54]
Số lượng đáng kể nhất là người di cư từ Trung Quốc. Hàng ngàn người Trung Quốc đã đến California vào các năm 1849-1850, và năm 1852 có hơn 20.000 đã đến San Francisco.[55] Trang phục đặc trưng và vẻ bề ngoài của họ rất dễ nhận ra trong các mỏ vàng, và tạo ra một mức độ thù địch đối với người Trung Quốc.[55]
Cũng có mặt những người phụ nữ trong "Cơn sốt vàng", và họ có nhiều vai trò khác nhau như mại dâm, kinh doanh nhỏ lẻ, người đã kết hôn, phụ nữ nghèo và giàu. Họ thuộc nhiều nhóm sắc tộc khác nhau như Anglo-American, Hispanic, người da đỏ, châu Âu, Trung Quốc, và Jewish. Có nhiều lí do khiến họ đến đây như: đi cùng chồng, không muốn bị tụt hậu là cách bảo vệ họ, chồng họ gởi họ đến, và một số khác (độc thân và quả phụ) xem như là cơ hội kiếm tiền và phiêu lưu.[56] Trên đường mòn nhiều người đã chết do tai nạn, dịch tả, sốt, và các nguyên nhân khác, và một số phụ nữ trở thành quả phụ trước khi đến được California. Trong lúc ở California, phụ nữ trở thành quả phụ là chuyện thường tình do các tai nạn mỏ, bệnh dịch, hoặc tranh chấp trong khai thác của chồng họ. Cuộc sống trong khu vực mỏ vàng tạo cho phụ nữ cơ hội để bức phá hay phá bỏ những công việc bình thường của họ.[57][58]
Theo hiệp ước kết thúc chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ, Hoa Kỳ được nhượng lại phần đất của Mexico,[60] trong khi hầu như tất cả các mỏ vàng đều nằm ngoài phần chuyển nhượng này. Thay vào đó, các mỏ vàng về cơ bản thuộc "public land", tức là phần đất được chính phủ Hoa Kỳ sở hữu chính thức.[61] Tuy nhiên, không có bất kỳ luật lệ nào ở đây, và cũng không có các cơ chế thực thi thực tế.[62]
Lợi nhuận mà các forty-niner thu được từ vàng chỉ đơn giảm là "free for the taking". Lúc bắt đầu khai thác ở các mỏ vàng, không có bất kỳ sở hữu tư nhân nào cả, không có lệ phí cấp phép, và không có thuế.[63][64] Những người đào vàng sử dụng luật khai thác mỏ một cách không chính thức của Mexico vẫn còn tồn tại ở California.[65] Ví dụ, các quy định nhằm cân bằng các quyền của người đến khu mỏ trước và người đến sau; sự tuyên bố sở hữu có thể là một người tìm kiếm, nhưng tuyên bố đó chỉ hợp lệ trong khoảng thời gian mà có hoạt động tìm kiếm hay khai thác một cách liên tục.[66][67] Những người đào vàng làm việc tại nơi họ tuyên bố sở hữu đủ lâu dài để xác định tiềm năng của nơi đó. Nếu việc tuyên bố được xác định là có giá trị thấp đối với hầu hết thợ mỏ đã từng làm việc thì nơi đó có thể bị bỏ phế để tìm kiếm nơi tốt hơn. Trong trường hợp bỏ hoang hoặc không có ai làm việc, những người thợ mỏ khác có thể nhảy vào để tuyên bố sở hữu vị trí đó. Tức là những người đến sau này bắt đầu làm việc tại vị trí mà họ mới tuyên bố sở hữu.[66][67] Việc tranh chấp thỉnh thoảng cũng xảy ra với tư cách cá nhân hoặc dữ dội, và đôi khi được giải quyết bởi một nhóm những người thăm dò với vai trò là trọng tài.[61][66][67] Điều này thường dẫn đến những căng thẳng sắc tộc cao độ.[68] Ở một vài nơi dòng người tìm kiếm có thể yêu cầu giảm diện tích tuyên bố hiện hữu chỉ đơn giản bằng cách gây sức ép.[69]
Giai đoạn tiếp theo từ năm 1853, khai thác mỏ thủy lực đã được ứng dụng đối với các lớp cuội cổ chứa vàng trên các sười đồi và các vách dốc trong các vĩa vàng.[76] Phương pháp khai thách thủy lực hiện đại được phát triển đầu tiên ở California là sử dụng vòi phun nước áp lực để phun vào lớp cuội chứa vàng.[77] Cuội và vàng bị đánh tơi ra sau đó đi qua máng dẫn, vàng lắng đọng dưới đáy sẽ được thu hồi. Vào giữa thập niên 1880, người ta ước tính có khoảng 11 triệu ounce (340 t) vàng (trị giá khoảng 15 triệu US$ theo giá tháng 12 năm 2010) đã được thu hồi bằng phương pháp nước áp lực.[75] Phương pháp này sau đó được phổ biến trên khắp thê giới. Một phương pháp thay thế "hydraulicking" và "coyoteing".[78] Phương pháp này liên quan đến việc đào một hầm 6 đến 13 m vào trong đá gốc dọc theo bờ sông. Từ hầm chính này sẽ đào các hầm khác theo nhiều hướng để đến được thân mạch.
Các sản phẩm phụ của các phương pháp khai thác này là thải ra một lượng lớn cuội, bột, kim loại nặng, và các chất ô nhiễm khác dọc theo các sông và suối.[79] Cho đến năm 2012, một số khu vực vẫn còn những dấu vết của việc sử dụng phương pháp khai thác mỏ thủy lực, vì cuội và đất lắng dọng không hỗ trợ cho sự sống của thực vật.[80]
Sau khi cơn sốt vàng kết thúc, các hoạt động thu tận thu vẫn được tiếp tục. Giai đoạn cuối cùng để thu hồi vàng là những nơi mà vàng có thể đã bị rửa trôi và lắng đọng ở những đáy sông bằng phẳng và các đê cát của thung lũng trung tâm California và những khu vực có vàng khác của California (như Scott Valley ở quận Siskiyou). Vào cuối thập niên 1890, công nghệ nạo vét (cũng được phát minh ở California) trở nên có hiệu quả kinh tế,[81] và người ta ước tính đa thu hồi được hơn 20 triệu ounce (620 tấn) từ phương pháp này (trị giá khoảng 28 triệu USD theo giá tháng 12 năm 2010).[75]
Trong suốt thời kỳ sốt vàng và các thập kỷ sau đó, những người đi tìm vàng cũng sử dụng phương pháp khai thác mỏ trong "đá cứng", đó là tách vàng trực tiếp từ đá chứa nó (đặc biệt là thạch anh), thường bằng cách đào và dùng chất nổ để bám theo và lấy đi thân quặng thạch anh chứa vàng.[82] Vào năm 1851, kha thác mỏ thạch anh trở thành một ngành công nghiệp chính ở Coloma.[83] Sau khi các đá chứa vàng được đưa lên bề mặt đất, chúng được nghiền nhỏ, và vàng ra được tách ra bằng nước, hoặc lọc ra, đặc biệt sử dụng arsen hoặc thủy ngân (cũng là một nguồn gây ô nhiễm môi trường).[84] Cuối cùng, khai thác mỏ đá cứng hay khai thác vàng trong đá gốc đã trở thành một nguồn cung cấp vàng lớn nhất ở Quận Vàng (Gold Country).[75][85]
Trung bình, một nửa những người tìm vàng kiếm được lợi nhuận khiêm tốn sau khi đã trừ tất cả chi phí. Tuy nhiên, hầu hết đặc biệt là những người đến sau, kiếm được ít.[90] Tương tự như thế, một số thương gia kém may mắn, các khu định cư của họ bị thiêu rụi trong các trận cháy quét qua các thị trấn. Ngược lại, các thương gia đã thành công như Levi Strauss, người bán denim đầu tiên trên khắp San Francisco năm 1853.[91] Các thương gia khác, từ mai mắn và làm việc cật lực, đã gặt hái được những thành quả xứng đáng trong việc bán lẻ, vận chuyển, giải trí, cho thuê chỗ ở,[92] hoặc vận tải.[93] Boardinghouses, cung cấp thức ăn, may vá, và gặt ủi là những việc kinh doanh có lợi nhuận cao thường do phụ nữ vận hành (người lập gia đình, độc thân và hóa), họ nhận thấy rằng đàn ông có thể trả nhiều tiền cho các dịch vụ do phụ nữ thực hiện. Các nhà thổ cũng mang lại lợi nhuận lớn, đặc biệt kết hợp với các quán rượu và nhà đánh bạc.[94]
Đến năm 1855, tình hình kinh tế đã thay đổi đáng kể. Vàng có thể sinh lợi từ các mỏ vàng chỉ từ các nhóm thợ mỏ trung bình đến lớn, hoặc các đối tác hoặc người làm thuê. Đến giữa thập niên 1850, tiền chỉ từ các chủ của các công ty khai thác vàng. Bên cạnh đó, dân số và kinh tế của California trở nên lớn mạnh và đa dạng đủ để tiền có thể tham gia vào nhiều ngành nghề kinh doanh thông thường.[95]
Trong khoảng năm 1847-1870, dân số San Francisco đã tăng từ 500 lên 150.000.[110] Sự giàu có của Cơn sốt vàng và sự tăng dân số đã dẫn đến sự phát triển giao thống đáng kể giữa California và bờ biển Đông Hoa Kỳ. Đường sắt Panama, bắt qua eo đất Isthmus, đã hoàn thành năm 1855.[111] Các tàu hơi nước, bao gồm những tàu do Pacific Mail Steamship Company sở hữu, đã bắt đầu phục vụ thường xuyên từ San Francisco đến Panama, nhờ đó hành khách, hàng hóa và thư từ có thể vận chuyển bằng tàu (tàu lửa) qua Isthmus và đón các tàu hơi nước để đến bờ biển Đông Hoa Kỳ. Một cuộc hành trình bất hạnh đó tà S.S. Central America,[112] đã kết thúc trong thảm họa khi chuyến tàu này bị chìm trong bão ở ngoài khơi bờ biển Carolinas năm 1857, làm mất khoảng 3 tấn vàng của California.[113][114]
Những người bản địa cũng mắc phải nhiều bệnh du nhập vào như đậu mùa, cúm và sởi. Một vài ước tính chỉ ra rằng có khoảng 80–90% dân số người Mỹ bản địa tử vong trong suốt thời kỳ diễn ra dịch đậu mùa.[115]
The Act for the Government and Protection of Indians,[116] được thông qua ngày 22 tháng 4 năm 1850 bởi California Legislature, cho phép những người định cư bắt giữ người Californio và sử dụng người bản địa làm lao động. Nó cũng là cơ sở cho việc bắt giữ nô lệ và buôn bán lao động là người Mỹ bản địa, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em, được xúc tiến như một ngành kinh doanh hợp pháp. Các làng của người Mỹ bản địa thường xuyên bị bố ráp để cung ứng nhu cầu, và phụ nữ trẻ và trẻ em được mang đi bán, trong khi đó đàn ông và những người còn lại thường bị giết.[117] Theo chính quyền California, có khoảng 4.500 người Mỹ bản địa bị chết do bạo lực trong khoảng 1849 và 1870.[3]
Cơn sốt vàng trở thành một "triều đại khủng bố" ảo chống lại các bộ lạc trong hoặc xung quanh khu vực khai thác mỏ.[118] Các cuộc phản khác trong các xung đột khác nhau, dân số người Mỹ bản địa ở California năm 1845 khoảng 150.000 đã giảm xuống dưới 30.000 năm 1870.[119] (Dân số người Mỹ bản địa trước khi người châu Âu đến ước tính khoảng 300.000, đã bị giảm hầu như do các bệnh của người Tây Ban Nha mang đến.)[120]
Peter Burnett, người đứng đầu chính quyền California tuyên bố rằng California từng là một chiến trường giữa các chủng tộc và chỉ có 2 lựa chọn đối với những người da đỏ bản địa hoặc là chết hoặc là phải rời khỏi. California, ngoài việc hợp thức hóa chế độ nô lệ đối với người Mỹ bản địa cũng phải trực tiếp chi trả 25.000 USD tiền cho việc buôn đi bán lại người bản địa với các giá khác nhau đối với đàn ông, phụ nữ trưởng thành và độ tuổi của trẻ em. California cùng với nhóm các bang mới phía Tây đã đứng về một phe đối lập trong việc phê chuẩn 18 điều ước được kí giữa lãnh đạo các bộ tộc và đại diện liên bang năm 1851.[121][cần số trang]
Sau khi cuộc bùng nổ đầu tiên kết thúc, các cuộc tấn công người nước ngoài và phân biệt chủng tộc, các luật, và trưng thu thuế đã đuổi những người nước ngoài ra khỏi các mỏ đặc biệt là người di cư Trung Quốc, Mỹ Latin hầu hết đến từ Sonora, Mexico và Chile.[55][122]
The toll on the American immigrants could be severe as well: one in twelve forty-niners perished, as the death and crime rates during the Gold Rush were extraordinarily high, and the resulting vigilantism also took its toll.[123]
Chỉ trong vòng vài năm sau khi kết thúc Cơn sốt vàng, năm 1863, lễ động thổ cho nhánh phía tây của đường sắt xuyên lục địa đầu tiên (First Transcontinental Railroad) đã được tổ chức ở Sacramento. Tuyến đường sắt này được hoàn thành khoảng 6 năm sau đó từ một phần chi phí của Cơn sốt vàng,[127] đã kết nối California với miền trung và đông Hoa Kỳ, rút ngắn thời gian đi lại từ vài tuần hoặc thậm chí vài tháng xuống còn vài ngày so với trước đó.[128]
Overnight California đã đạt được danh tiếng là "bang vàng".[131] Các thế hệ nhập cư được thu hút từ California Dream. Các nhà nông California,[132] khoan dầu,[133] movie makers,[134] sản xuất máy bay,[135] và "dot-com" entrepreneurs đã từng có thời kỳ bùng nổ hoạt động của họ trong vài thập kỷ sau Cơn sốt vàng.[136]
Lịch sử văn học về Cơn sốt vàng được phản ảnh qua các tác phẩm của Mark Twain (The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County), Bret Harte (A Millionaire of Rough-and-Ready), Joaquin Miller (Life Amongst the Modocs), và một số tác phẩm khác.[29][137]
Trong số những di sản hiện đại của Cơn sốt vàng California là khẩu hiệu của bang California, "Eureka" ("tôi đã tìm ra nó"), những hình ảnh về Cơn sốt vàng trên con dấu của bang California,[138] và tên gọi khác của bang này, "The Golden State", cũng như một số địa danh như Quận Placer (Placer có nghĩa là sa khoáng, một dạng tồn tại của vàng ở đây) , Rough and Ready, Placerville (tên trước đây là "Dry Diggings" và sau đó đổi thành "Hangtown" trong suốt thời gian diễn ra cơn sốt vàng), Whiskeytown, Drytown, Angels Camp, Happy Camp, và Sawyers Bar. The San Francisco 49ers National Football League team, and the similarly named athletic teams of California State University, Long Beach, are named for the prospectors of the California Gold Rush.
Ngày nay, tuyến đường State Route 49 đi qua chân đồi Sierra Nevada, nối một số thị trấn của thời kỳ Cơn sốt vàng như Placerville, Auburn, Grass Valley, Nevada City, Coloma, Jackson, và Sonora.[139] Tuyến cao tốc này cũng đi qua rất gần Columbia State Historic Park, một khu vực được bảo vệ bao gồm khu thương mại mang tính lịch sử của thị trấn Columbia; công viên này lưu giữ một số tòa nhà thời kỳ Cơn sốt vàng, hiện được khai thác phục vụ du lịch.
Cách đây khoảng 400 triệu năm, California nằm ở đáy của một biển lớn; các núi lửa dưới đáy biển làm lắng đọng dung nham và các khoáng vật (gồm cả vàng) ở đáy biển. Cách đây 200 triệu năm, lực kiến tạo đã đẩy đáy biển xuống bên dưới mảng Bắc Mỹ.[140] Khi nó bị nhấn chìm hay hút chìm bên dưới vị trí California ngày nay, đáy biển bị nóng chảy thành các khối mácma rất lớn. Khối mácma nóng này bị đẩy dâng lên bên dưới khu vực mà ngày nay là California, nó nguội dần khi dâng lên,[141] và khi bị hóa rắn, các mạch vàng hình thành cùng với thạch anh.[141][142] Các đá và khoáng vật này sau đó bị lộ ra trên bề mặt ở Sierra Nevada,[143] và bị bóc mòn. Nước mang vàng bị lộ trên bề mặt xuống các dòng suối và lắng đọng trong các lớp cuội ở những vùng nước yên tĩnh dọc theo các bờ sông và suối.[144] Những forty-niner đầu tiên tập trung khai thác các loại vàng này, chúng được tích tụ trong các lớ cuội hàng trăm triệu năm do hoạt động địa chất.[145][146]
Những người tìm vàng đầu tiên được gọi là "forty-niners", đến California bằng thuyền buồm và bằng covered wagons xuyên qua lục địa, thường phải chịu nhiều gian khổ trong chuyến đi. Trong khi phần lớn những người mới đến là người Mỹ, cơn sốt vàng cũng thu hút hàng ngàn người từ Mỹ Latin, châu Âu, châu Úc và châu Á. Ban đầu, những người tìm kiếm đã đãi vàng từ các con suối và lòng sông với các kỹ thuật đơn giản, như đãi, và sau đó phát triển các phương pháp chiết vàng tinh vi hơn và sau này được cả thế giới áp dụng. Vàng có giá trị hàng tỷ dollar Mỹ theo thời giá hiện nay đã được khai thác được, dẫn đến sự giàu có cho một số người, nhiều người trở về quê với vẻn vẹn một chút vàng có giá trị chỉ cao hơn lúc họ mới bắt đầu.
Hiệu ứng của cơn sốt vàng California khá quan trọng. San Francisco phát triển từ một ngôi làng lều trại thành một boomtown, và đường sá, nhà thờ, trường học và các thị trấn khác đã được xây dựng. Một hệ thống luật lệ và chính quyền đã được tạo ra, dẫn đến sự gia nhập của California là bang của Hoa kỳ năm 1850. Các phương thức vận tải đã phát triển khi tàu hơi nước đã được đưa vào hoạt động thường xuyên và đường sắt đã được xây dựng. Công việc kinh doanh nông nghiệp, lĩnh vực tăng trưởng chính của California đã được bắt đầu trên một quy mô rộng khắp bang. Tuy nhiên, Cơn sốt vàng California cũng có ảnh hưởng tiêu cực của nó: thổ dân Mỹ đã bị tấn công và bị trục xuất khỏi vùng đất truyền thống của họ và sự khai thác vàng gây ra tổn hại môi trường. Ước tính có khoảng 100.000 người da đỏ ở California chết trong khoảng 1848 - 1868, và khoảng 4.500 trong số đó bị giết.[3]
Mục lục
Lịch sử
Cơn sốt vàng California bắt đầu ở Sutter's Mill, gần Coloma.[4] Ngày 24 tháng 1 năm 1848, John Marshall, một quản đốc làm việc cho Sacramento pioneer John Sutter, đã tìm thấy ánh kim loại trong một bánh xe nước của nhà máy gỗ Marshall trên sông America.[5] Marshall đã mang mẫu mà ông tìm thấy đến cho John Sutter, và cả 2 đã kiểm nghiệm mẫu kim loại. Kết quả kiểm tra cho thấy đó là vàng, Sutter bày tỏ sự thất vọng rằng ông muốn giữa kín tin tức ấy vì ông sợ những điều không hay có thể xảy ra đối với kế hoạch của ông về một viễn cảnh nông nghiệp nếu người ta lật tung vùng đất này để tìm vàng.[6] Tuy nhiên, các tin này sớm phát tán rộng rãi và được nhà xuất bản báo San Francisco và Samuel Brannan xác nhận chính thức là có thật vào tháng 3 năm 1848. Câu nói nổi tiếng nhất về Cơn sốt vàng California là của Brannan; sau đó ông xây dựng nhanh chóng một cửa hàng bán các vật tư phục vụ ccho tìm kiếm vàng,[7] Brannan rảo quanh các đường phố San Francisco, cầm trên tay một hủ vàng và hô to "Gold! Gold! Gold from the American River!"[8]Vào lúc vàng được phát hiện, California là một phần lãnh thổ Mexico của Alta California, được nhượng lại cho Hoa Kỳ sau khi kết thúc chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ bởi Hòa ước Guadalupe Hidalgo ngày 2 tháng 2 năm 1848.
Ngày 19 tháng 8 năm 1848, New York Herald là tờ báo lớn đầu tiên ở bờ đông thông báo về việc phát hiện ra vàng. Ngày 5 tháng 12, 1848, Tổng thống James Polk xác nhận việc phát hiện ra vàng này đến Quốc hội Hoa Kỳ.[9] Không lâu sau đó, các làn sóng di dân từ khắp thế giới, mà sau này gọi là "forty-niners", đến Gold Country of California hay "Mother Lode". Đúng như lo sợ của Sutter, ông ta đã phá sản; các công nhân của ông bỏ việc để đi tìm váng, và những người chiếm đất đã lấy đất của ông và ăn cắp mùa màng và gia súc của ông.[10]
San Francisco từng là một khu định cư nhỏ trước khi cơn sốt tìm vàng bắt đầu. Khi người dân đã học được cách tìm vàng, nó là nơi đầu tiên trở thành thị trấn ma do tàu và việc kinh doanh bị bỏ hoang,[11] nhưng không lâu sau lại bùng phát khi những người mới di cư đến. Dân số của San Francisco bùng nổ từ khoảng 1.000[12] năm 1848 đến 25.000 người năm 1850.[13] Thợ mỏ sống trong các lều, wood shanties, hoặc boong cabin tháo dỡ từ tàu bỏ hoang.[14] Bất cứ nơi nào vàng được phát hiện, hàng trăm thợ mỏ có thể hợp tác để xây một trại và đặt cọc tuyên bố của họ. Với các tên gọi như Rough và Ready và Hangtown (Placerville, California), mỗi trại thường sở hữu một saloon riêng và sòng bạc.[15]
Như những gì đã từng được xem là "cơn sốt vàng bậc nhất thế giới",[16] không có một cáh dễ dàng nào để đến California; forty-niners phải đối mặt với những khó khăn và thậm thí là cái chết trên đường đi. Đầu tiên, hầu hết Argonaut họ đi bằng đường biển. Từ bờ biển đông, các tàu buồn đi vòng qua mũi Nam Mỹ phải mất từ 5 đến 8 tháng,[17] và trải qua 33.000 km (18.000 dặm). Một cách khác là đi tàu buồn qua phía Đại Tây Dương của Isthmus of Panama, dùng canoe và bằng la mất một tuần qua rừng rậm, và sau đó đến bờ Thái Bình Dương, chờ tàu buồm để đến San Francisco.[18] Cũng có một tuyến đường khác qua Mexico bắt đầu từ Veracruz. Nhiều người tìm vàng sử dụng các tuyến đường trên bộ trên khắp nước Mỹ, đặc biệt là dọc theo California Trail.[19] Các tuyến đường như thế này có những hiểm họa chết người như số thương hàn và dịch tả.[20]
Để đảm bảo việc vận chuyển những người đến đây, các tàu chở hàng hóa từ khắp thế giới cũng đến San Francisco. Thuyền trưởng các tàu này đã nhận thấy rằng thủy thủ của họ cũng có tham vọng tìm vàng. Các cảng của San Francisco trở thành "rừng buồm", khi hàng trăm tàu bè bị bỏ phế. Giới kinh doang San Franciscans biến các tàu bỏ phế thành nhà kho, cửa hàng, quán rượu và khách sạn và một nhà tù.[21] Nhiều tàu trong số đó sau này bị phá hủy và được sử dụng cho san lấp để có đất xây dựng ở boomtown.
Trong vòng vài năm, cũng có một số lượng lớn người thăm dò đi về phía bắc của Bắc California, đặc biệt là các quận Siskiyou, Shasta và Trinity ngày nay.[22] Việc phát hiện ra vàng cốm tại vị trí mà ngày nay là Yreka năm 1851 đã khiến hàng ngàn người tìm vàng đến đây bằng Siskiyou Trail[23] và trên khắp các quận phía bắc của California.[24] Những người định cư ở khu vực tìm vàng như Portuguese Flat trên sông Sacramento, bắt đầu xuất hiện và sau đó thì giảm dần. Thị trấn của thời kỳ Cơn sốt vàng của Weaverville ven sông Trinity River ngày nay vẫn còn chùa Taoist cổ nhất ở California, một biểu tượng của các thợ mỏ Trung Quốc đã đến đây. Trong khi không có nhiều các thị trấn ma trong thời kỳ Cơn sốt vàng vẫn còn tồn tại, phần còn lại của thị trần từng nhộn nhịp Shasta đã được bảo tồn trong Công viên lịch sử bang California ở miền bắc California.[25]
Vàng cũng được tìm thấy ở Nam California nhưng có quy mô nhỏ hơn. Vàng được phát hiện đầu tiên ở Rancho San Francisco ở phía bắc của dãi núi thuộc Los Angeles, năm 1842, trước phát hiện của Marshall 6 năm, trong khi California vẫn còn là một phần của Mexico.[26] Tuy nhiên, các mỏ đầu tiên này, và sau các mỏ được phát hiện sau đó ở các dải núi thuộc Nam California được thông báo rằng có ít giá trị kinh tế.[26]
Đến năm 1850, hầu hết loại vàng ở những nơi dễ thu hồi đã được khai thác, và người ta chuyển hướng đến những nơi khó khăn hơn. Khi độ khó tăng cao, người Mỹ bắt đầu đuổi những người nước ngoài ra khỏi những nơi dễ khai thác còn lại. Một đạo luật bang California mới được thông qua theo đó các thợ mỏ người nước ngoài phải đóng thuế 20 đô la mỗi tháng (560 USD mỗi tháng theo giá trị năm 2014), và những người tìm kiếm thăm dò người Mỹ bắt đầu tổ chức tấn công người nước ngoài, đặc biệt là Mỹ Latin và Trung Quốc.[27] Thêm vào đó, một lượng lớn những người mới đến đã đuổi những người Mỹ bản địa ra khỏi khu vực săn bắn, đánh bắt cá và hái lượm truyền thống của họ. Để bảo vệ nhà cửa và sinh kế, một số người Mỹ bản địa tấn công lại những người thợ mỏ. Chính điều này đã tạo nên các cuộc tấn công vào các làng của người Mỹ bản địa, ngoài một số bị bắn còn bị tàn sát.[28] Những người thoát khỏi cuộc tàn sát nhiều lần không thể sống sót vì không có khu vực hái lượm thức ăn và họ chết vì đói. Nhà văn và cũng là nhà viết tiểu thuyết Joaquin Miller đã miêu tả một cách sinh động các cuộc tấn công như thế này trong quyển bán tự truyện của ông, Life Amongst the Modocs.[29]
Forty-niner
Người đầu tiên đến các vùng vỉa vàng vào đầu xuân năm 1848 là những cư dân của California, là những người Mỹ và châu Âu làm nghề nông sống ở Bắc California, cùng với những người Mỹ bản địa và một số người Californio (người California nói tiếng Tây Ban Nha).[30] Những người thợ mỏ đầu tiên này có khuynh hướng thân thiện với mọi người như giúp đỡ lẫn nhau. Phụ nữ và trẻ em của các sắc tộc thường thấy họ đãi vàng cùng với nam giới. Các gia đình kinh doanh xây các nhà trọ thường chỉ dành cho nam giới; trong những trường hợp như thế, phụ nữ thường kiếm được thu nhập ổn định trong khi chồng họ thì đi tìm vàng.[31]Thông điệp "Cơn sốt vàng" ban đầu được truyền bá rất chậm. Những người đi tìm vàng đầu tiên nhất là những người sống gần California hoặc những người nghe tin được từ các tàu trên các chuyến hàng hải nhanh từ California. Một nhóm lớn người Mỹ đầu tiên đã đến California từ vùng Oregon bằng Siskiyou Trail.[32] Sau đó là những người đến từ quần đảo Sandwich, và hàng ngàn người Mỹ Latin như từ Mexico, Peru và tận Chile,[33] bằng tàu và đường bộ.[34] Đến cuối năm 1848, 6.000 người đã đến California.[34] Chỉ một số ít (ít hơn 500 người) đã đi bằng đường bộ Hoa Kỳ vào năm đó.[34] Một vài người "forty-eighters",[35] là những người tìm kiếm vàng đầu tiên được gọi như thế, vì họ có thể kiếm được một lượng lớn vàng; trong một số trường hợp họ có thể kiếm được hàng ngàn đô la mỗi ngày.[36][37] Thậm chí những người tìm vàng thông thường có thể có thu nhập trung bình từ vàng gấp 10 đến 15 lần so với thu nhập từ lạo động chân tay ở bờ biển Đông Hoa Kỳ. Một người làm việc sáu tháng trong mỏ vàng có thể có thu nhập tương đương 6 năm khi làm việc ở nhà.[38] Một số người hy vọng rằng có thể giàu lên nhanh chóng và trở về nhà, và một số khác mong muốn ở lại California để bắt đầu sự nghiệp kinh doanh.
Vào đầu năm 1849, "Cơn sốt vàng" đã lan rộng khắp thế giới, và số lượng người tìm vàng và thương nhân áp đảo đến từ khắp các châu lục trên thế giới. Nhóm lớn nhất là "forty-niners" năm 1849 là những người Mỹ khoảng 10.000 người đã đến đây bằng đường bộ và dọc theo các tuyến đường thủy khác nhau[39] (tên gọi "forty-niner" bắt đầu xuất hiện từ năm 1849). Một số đến từ Bờ Đông đã băng qua dãy núi Appalachian, sử dụng tàu đi sông ở Pennsylvania, đi keelboats trên sông Missouri, và sau đó đi bằng tàu wagon dọc theo California Trail. Những người khác đi bằng đường qua eo đất Panama và tàu hơi nước của Pacific Mail Steamship Company. Những người Úc[40] và những người New Zealanders thì nhận được tin tức từ các tàu chở những nhà báo người Hawaii, và hàng ngàn người bị "nhiễm cơn sốt vàng" đã đón tàu đi California.[41] Những người "forty-niners" đến từ Châu Mỹ Latin, một số từ những mỏ của Mexico gần Sonora.[41] Những người tìm vàng và thương nhân từ châu Á chủ yếu là Trung Quốc,[42] cũng bắt đầu đến năm 1849, số lượng người đầu tiên đến Gum San (tên gọi theo cách của người Trung Quốc chỉ California - tức "Núi Vàng") rất khiêm tốn.[43] Những người châu Âu đầu tiên là những người chịu ảnh hưởng từ cuộc cách mạng năm 1848 và họ phải vượt qua quảng đường dài hơn nên đến California vào cuối năm 1849, chủ yếu là từ Pháp,[44] một số người Đức, Ý, và Anh.[39] Hầu hết họ đến bằng đường biển ở các vùng ven biển.
Ước tính có khoảng 90.000 người đã đến California năm 1849—nửa trong số họ đến bằng đường bộ và nửa bằng đường thủy.[45] Trong số đó, có khoảng 50.000 đến 60.000 là người Mỹ, và số còn lại đến từ các quốc gia khác.[39] Đến năm 1855, ít nhất là 300.000 bao gồm người tìm vàng, thương nhân và những người di cư khác đã đến California từ khắp nơi trên thế giới.[46] Nhóm lớn nhất vẫn là người Mỹ, nhưng có khoảng hàng chục ngàn là người Mexico, Trung Quốc, Anh, Úc[47] Pháp, và Mỹ Latin,[48] cùng với một số nhóm nhỏ hơn gồm các thợ mỏ là người Filipin, Basque[49] và Turk.[50] Những người từ các ngôi làng nhỏ ở các đồi gần Genova, Ý nằm trong nhóm những người định cư lâu dài ở chân đồi Sierra; họ mang theo những kỹ năng nông nghiệp truyền thống và phát triển chúng để sống sót qua các mùa đông lạnh giá.[51] Một số ít thợ mỏ là người gốc Phi (khoảng ít hơn 4.000)[52] đã đến từ miền nam Hoa Kỳ,[53] Caribe và Brazil.[54]
Số lượng đáng kể nhất là người di cư từ Trung Quốc. Hàng ngàn người Trung Quốc đã đến California vào các năm 1849-1850, và năm 1852 có hơn 20.000 đã đến San Francisco.[55] Trang phục đặc trưng và vẻ bề ngoài của họ rất dễ nhận ra trong các mỏ vàng, và tạo ra một mức độ thù địch đối với người Trung Quốc.[55]
Cũng có mặt những người phụ nữ trong "Cơn sốt vàng", và họ có nhiều vai trò khác nhau như mại dâm, kinh doanh nhỏ lẻ, người đã kết hôn, phụ nữ nghèo và giàu. Họ thuộc nhiều nhóm sắc tộc khác nhau như Anglo-American, Hispanic, người da đỏ, châu Âu, Trung Quốc, và Jewish. Có nhiều lí do khiến họ đến đây như: đi cùng chồng, không muốn bị tụt hậu là cách bảo vệ họ, chồng họ gởi họ đến, và một số khác (độc thân và quả phụ) xem như là cơ hội kiếm tiền và phiêu lưu.[56] Trên đường mòn nhiều người đã chết do tai nạn, dịch tả, sốt, và các nguyên nhân khác, và một số phụ nữ trở thành quả phụ trước khi đến được California. Trong lúc ở California, phụ nữ trở thành quả phụ là chuyện thường tình do các tai nạn mỏ, bệnh dịch, hoặc tranh chấp trong khai thác của chồng họ. Cuộc sống trong khu vực mỏ vàng tạo cho phụ nữ cơ hội để bức phá hay phá bỏ những công việc bình thường của họ.[57][58]
Quyền khai thác hợp pháp
Khi "Cơn sốt vàng" bắt đầu, California không có bất kỳ một luật lệ nào cả. Vào ngày mà vàng được phát hiện tại Sutter's Mill, California vẫn còn là một phần của Mexico mặc dù quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng theo sau chiến tranh Mexico–Hoa Kỳ. Theo hòa ước chấm dứt chiến tranh kí giữa hai bên ngày 2 tháng 2 năm 1848, California trở thành sở hữu của Hoa Kỳ, nhưng nó chưa trở thành lãnh thổ chính thức và không phải là một bang của Hoa Kỳ cho đến ngày 9 tháng 9 năm 1850. California trở thành một vùng dưới dự kiểm soát của quân đội, và không có cơ quan tư pháp, hành pháp hoặc lập pháp dân sự nào trong toàn khu vực này.[59] Người dân địa phương hoạt động dưới sự hỗn tạp của sự chuyển giao và lẫn lộn giữa các luật lệ Mexico, Hoa Kỳ và mệnh lệnh cá nhân.Theo hiệp ước kết thúc chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ, Hoa Kỳ được nhượng lại phần đất của Mexico,[60] trong khi hầu như tất cả các mỏ vàng đều nằm ngoài phần chuyển nhượng này. Thay vào đó, các mỏ vàng về cơ bản thuộc "public land", tức là phần đất được chính phủ Hoa Kỳ sở hữu chính thức.[61] Tuy nhiên, không có bất kỳ luật lệ nào ở đây, và cũng không có các cơ chế thực thi thực tế.[62]
Lợi nhuận mà các forty-niner thu được từ vàng chỉ đơn giảm là "free for the taking". Lúc bắt đầu khai thác ở các mỏ vàng, không có bất kỳ sở hữu tư nhân nào cả, không có lệ phí cấp phép, và không có thuế.[63][64] Những người đào vàng sử dụng luật khai thác mỏ một cách không chính thức của Mexico vẫn còn tồn tại ở California.[65] Ví dụ, các quy định nhằm cân bằng các quyền của người đến khu mỏ trước và người đến sau; sự tuyên bố sở hữu có thể là một người tìm kiếm, nhưng tuyên bố đó chỉ hợp lệ trong khoảng thời gian mà có hoạt động tìm kiếm hay khai thác một cách liên tục.[66][67] Những người đào vàng làm việc tại nơi họ tuyên bố sở hữu đủ lâu dài để xác định tiềm năng của nơi đó. Nếu việc tuyên bố được xác định là có giá trị thấp đối với hầu hết thợ mỏ đã từng làm việc thì nơi đó có thể bị bỏ phế để tìm kiếm nơi tốt hơn. Trong trường hợp bỏ hoang hoặc không có ai làm việc, những người thợ mỏ khác có thể nhảy vào để tuyên bố sở hữu vị trí đó. Tức là những người đến sau này bắt đầu làm việc tại vị trí mà họ mới tuyên bố sở hữu.[66][67] Việc tranh chấp thỉnh thoảng cũng xảy ra với tư cách cá nhân hoặc dữ dội, và đôi khi được giải quyết bởi một nhóm những người thăm dò với vai trò là trọng tài.[61][66][67] Điều này thường dẫn đến những căng thẳng sắc tộc cao độ.[68] Ở một vài nơi dòng người tìm kiếm có thể yêu cầu giảm diện tích tuyên bố hiện hữu chỉ đơn giản bằng cách gây sức ép.[69]
Phát triển kỹ thuật thu hồi vàng
Do vàng ở California nằm trong các lớp cuội nên có hàm lượng rất cao, do đó các forty-niner thế hệ trước chỉ việc đãi lấy vàng từ các sông và suối ở California.[70] Tuy nhiên, việc đãi không thể thực hiện được ở quy mô lớn, các thợ mỏ cần cù và các nhóm thợ mỏ sử dụng thành thạo cá máng đãi[71] có thể xử lý một lượng cuội lớn hơn.[72] Vấn đề phức tạp nhất trong khai thác sa khoáng là phải đổi hướng dòng nước từ một con sông vào một kênh chạy dọc sông, và sau đó là đào lấy vàng khi đáy sông lộ ra.[73] Các ước tính sau này của USGS cho thấy lượng và ở đây vào khoảng 12 triệu ounce[74] (370 tấn) vàng đã được khai thác trong vòng 5 năm đầu của Cơn sốt vàng (trị giá hơn 16 tỉ USD theo giá tháng 12 năm 2010).[75]Giai đoạn tiếp theo từ năm 1853, khai thác mỏ thủy lực đã được ứng dụng đối với các lớp cuội cổ chứa vàng trên các sười đồi và các vách dốc trong các vĩa vàng.[76] Phương pháp khai thách thủy lực hiện đại được phát triển đầu tiên ở California là sử dụng vòi phun nước áp lực để phun vào lớp cuội chứa vàng.[77] Cuội và vàng bị đánh tơi ra sau đó đi qua máng dẫn, vàng lắng đọng dưới đáy sẽ được thu hồi. Vào giữa thập niên 1880, người ta ước tính có khoảng 11 triệu ounce (340 t) vàng (trị giá khoảng 15 triệu US$ theo giá tháng 12 năm 2010) đã được thu hồi bằng phương pháp nước áp lực.[75] Phương pháp này sau đó được phổ biến trên khắp thê giới. Một phương pháp thay thế "hydraulicking" và "coyoteing".[78] Phương pháp này liên quan đến việc đào một hầm 6 đến 13 m vào trong đá gốc dọc theo bờ sông. Từ hầm chính này sẽ đào các hầm khác theo nhiều hướng để đến được thân mạch.
Các sản phẩm phụ của các phương pháp khai thác này là thải ra một lượng lớn cuội, bột, kim loại nặng, và các chất ô nhiễm khác dọc theo các sông và suối.[79] Cho đến năm 2012, một số khu vực vẫn còn những dấu vết của việc sử dụng phương pháp khai thác mỏ thủy lực, vì cuội và đất lắng dọng không hỗ trợ cho sự sống của thực vật.[80]
Sau khi cơn sốt vàng kết thúc, các hoạt động thu tận thu vẫn được tiếp tục. Giai đoạn cuối cùng để thu hồi vàng là những nơi mà vàng có thể đã bị rửa trôi và lắng đọng ở những đáy sông bằng phẳng và các đê cát của thung lũng trung tâm California và những khu vực có vàng khác của California (như Scott Valley ở quận Siskiyou). Vào cuối thập niên 1890, công nghệ nạo vét (cũng được phát minh ở California) trở nên có hiệu quả kinh tế,[81] và người ta ước tính đa thu hồi được hơn 20 triệu ounce (620 tấn) từ phương pháp này (trị giá khoảng 28 triệu USD theo giá tháng 12 năm 2010).[75]
Trong suốt thời kỳ sốt vàng và các thập kỷ sau đó, những người đi tìm vàng cũng sử dụng phương pháp khai thác mỏ trong "đá cứng", đó là tách vàng trực tiếp từ đá chứa nó (đặc biệt là thạch anh), thường bằng cách đào và dùng chất nổ để bám theo và lấy đi thân quặng thạch anh chứa vàng.[82] Vào năm 1851, kha thác mỏ thạch anh trở thành một ngành công nghiệp chính ở Coloma.[83] Sau khi các đá chứa vàng được đưa lên bề mặt đất, chúng được nghiền nhỏ, và vàng ra được tách ra bằng nước, hoặc lọc ra, đặc biệt sử dụng arsen hoặc thủy ngân (cũng là một nguồn gây ô nhiễm môi trường).[84] Cuối cùng, khai thác mỏ đá cứng hay khai thác vàng trong đá gốc đã trở thành một nguồn cung cấp vàng lớn nhất ở Quận Vàng (Gold Country).[75][85]
Lợi nhuận
Một số nghiên cứu gần đây xác nhận rằng những người bán hàng kiếm tiền nhiều hơn những người đào mỏ trong suốt thời gian Cơn sốt vàng.[86][87] Người đàn ông giàu nhất California vào những năm đầu của Cơn sốt vàng là Samuel Brannan, ông làm nghề tự quảng bá, bán hàng và nhà xuất bản báo.[88] Brannan mở các cửa hàng đầu tiên ở Sacramento, Coloma, và các cửa hàng khác trong các khu mỏ. Khi Gold Rush vừa bắt đầu, ông đã mua tất cả các vật dụng phục vụ tìm kiếm ở San Francisco và bán lại chúng với mức lời đáng kể.[88] Tuy nhiên, một lượng tiền đáng kể cũng được tạo ra từ những người đi tìm vàng. Ví dụ, trong vòng một vài tháng, một nhóm tìm kiếm làm việc trên sông Feather năm 1848, có thể kiếm được tổng lượng vàng có giá trị hơn 3 triệu USD theo giá năm 2010.[89]Trung bình, một nửa những người tìm vàng kiếm được lợi nhuận khiêm tốn sau khi đã trừ tất cả chi phí. Tuy nhiên, hầu hết đặc biệt là những người đến sau, kiếm được ít.[90] Tương tự như thế, một số thương gia kém may mắn, các khu định cư của họ bị thiêu rụi trong các trận cháy quét qua các thị trấn. Ngược lại, các thương gia đã thành công như Levi Strauss, người bán denim đầu tiên trên khắp San Francisco năm 1853.[91] Các thương gia khác, từ mai mắn và làm việc cật lực, đã gặt hái được những thành quả xứng đáng trong việc bán lẻ, vận chuyển, giải trí, cho thuê chỗ ở,[92] hoặc vận tải.[93] Boardinghouses, cung cấp thức ăn, may vá, và gặt ủi là những việc kinh doanh có lợi nhuận cao thường do phụ nữ vận hành (người lập gia đình, độc thân và hóa), họ nhận thấy rằng đàn ông có thể trả nhiều tiền cho các dịch vụ do phụ nữ thực hiện. Các nhà thổ cũng mang lại lợi nhuận lớn, đặc biệt kết hợp với các quán rượu và nhà đánh bạc.[94]
Đến năm 1855, tình hình kinh tế đã thay đổi đáng kể. Vàng có thể sinh lợi từ các mỏ vàng chỉ từ các nhóm thợ mỏ trung bình đến lớn, hoặc các đối tác hoặc người làm thuê. Đến giữa thập niên 1850, tiền chỉ từ các chủ của các công ty khai thác vàng. Bên cạnh đó, dân số và kinh tế của California trở nên lớn mạnh và đa dạng đủ để tiền có thể tham gia vào nhiều ngành nghề kinh doanh thông thường.[95]
Đường đi của vàng
Sau khi được khai thác, vàng có nhiều con đường được tiêu thụ khác nhau. Thứ nhất, hầu hết vàng được dùng để chi trả tại chỗ cho thực phẩm, tiêu dùng và chỗ ở của các thợ mỏ. Nó cũng có thể chi trả cho giải trí như đến nhà hát, quán rượu, đánh bạc và mại dâm. Các giao dịch này thường sử dụng vàng vừa khai thác được với sự cân nhắc cẩn thận.[96] Những người buôn bán và cung cấp dịch vụ sau đó lại dùng vàng này để trả cho việc mua hàng từ các thuyền trưởng hoặc những người chở hàng hóa đến California.[97] Vàng sau đó rời khỏi California ra nước ngoài theo các con tàu hoặc la để đến tay của những người sản xuất hàng hóa trên khắp thế giới. Con đường thứ hai là Argonauts (người tìm vàng), họ kiếm được một lượng vàng vừa đủ để gởi về nhà hoặc họ mang vàng về nhà sau thời gian đào đãi cực nhọc. Ví dụ, một ước tính rằng có khoảng một lượng vàng ở Califorina trị giá 80 triệu USD đã gởi đến Pháp từ những người đi tìm vàng và kinh doanh người Pháp.[98] Trong quá trình diễn tiến của Cơn sốt vàng, các ngân hàng địa phương và những người kinh doanh vàng phát hành "tiền giấy" hoặc "hối phiếu" được chấp nhận trong giao dịch địa phương để đổi lấy vàng,[99] và các cơ sở đúc tiền tư nhân đúc ra các đồng vàng cho họ.[100] Vời việc xây dựng Sở đúc tiền San Francisco năm 1854, vàng thỏi được chuyển thành các đồng vàng lưu hành chính thức của Hoa Kỳ.[101] Vàng sau đó cũng được gởi từ các ngân hàng California đến các ngân hàng quốc gia Hoa Kỳ để đổi thành tiền giấy quốc gia phục vụ cho sự bùng nổ kinh tế của California.[102]Ảnh hưởng ngắn hạn
Hàng trăm ngàn người mới đến so với dân số khoảng 15.000 người châu Âu và người California bản địa (được gọi là Californios) ở đó,[103] đã có nhiều ảnh hưởng lớn.[104]Phát triển về chính quyền và thương mại
Cơn sốt vàng đã đánh thức California từ một vùng đất đang ngủ yên, ít được biết đến trở thành một trong tâm di cư toàn cầu và là đích đến của hàng trăng ngàn người dân. Những người nhập cư mới thường thể hiện sự sáng tạo và thích nghi đáng chú ý. Ví dụ, trong giai đoạn giữa của Cơn sốt vàng, thị xã, và thành phố được chartered, một quy ước mang tính hiến pháp đã được đưa ra, hiến pháp bang được đưa ra, tổ chức các cuộc bầu cử, và cử đại diện đến Washington, D.C. để thương lược về việc chấp nhận California là một tiểu bang của Hoa Kỳ.[105] Hoạt động nông nghiệp quy mô lớn (được xem là "Cơn sốt vàng" lần thứ 2 của California[106]) cũnng bắt đầu trong suốt thời gian này.[107] Đường xá, trường học, nhà thờ,[108] và các tổ chức dân sự nhanh chóng được thành lập.[105] Phần lớn dân nhập cư là người châu Mỹ.[109] Áp lực đến phát triển về thông tin liên lạc và các liên kết chính trị tốt hơn đến những nơi khác của Hoa Kỳ đã dẫn đến sự thành lập tiểu bang California ngày 9 tháng 9 năm 1850, là bang thứ 31 của Hoa Kỳ như nêu trong Compromise of 1850.Trong khoảng năm 1847-1870, dân số San Francisco đã tăng từ 500 lên 150.000.[110] Sự giàu có của Cơn sốt vàng và sự tăng dân số đã dẫn đến sự phát triển giao thống đáng kể giữa California và bờ biển Đông Hoa Kỳ. Đường sắt Panama, bắt qua eo đất Isthmus, đã hoàn thành năm 1855.[111] Các tàu hơi nước, bao gồm những tàu do Pacific Mail Steamship Company sở hữu, đã bắt đầu phục vụ thường xuyên từ San Francisco đến Panama, nhờ đó hành khách, hàng hóa và thư từ có thể vận chuyển bằng tàu (tàu lửa) qua Isthmus và đón các tàu hơi nước để đến bờ biển Đông Hoa Kỳ. Một cuộc hành trình bất hạnh đó tà S.S. Central America,[112] đã kết thúc trong thảm họa khi chuyến tàu này bị chìm trong bão ở ngoài khơi bờ biển Carolinas năm 1857, làm mất khoảng 3 tấn vàng của California.[113][114]
Tác động tiêu cực
Cái giá phải trả về con người và môi trường của Cơn sốt vàng là rất lớn. Các thổ dân châu Mỹ, phụ thuộc nhiều vào săn bắn, hái lượm và nông nghiệp, đã trở thành những nạn nhân bị đói khi mà cuội sỏi, bùn, và các chất độc hóa học từ hoạt động thăm dò đã giết các loài cá và phá hủy môi trường sống.[79][80] Sự biến động về số người khai thác mỏ cũng gây ra sự biến mất của các loài thú săn mồi và những loài đi tìm thức ăn trong khu vực khi các láng trại và các khu định cư khác được xây dựng trong những nơi này. Sau đó là việc mở rộng canh tác nông trại để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực cho các láng trại, điều này đã chiếm nhiều đất mà những người bản địa đã sử dụng. Nạn đói thường thúc giục những bộ tộc bản địa ăn cắp thức ăn hoặc dùng bạo lực để giành thực phẩm và gia súc từ những thợ mỏ, làm dấy lên sự thù địch và trả thù của những người thợ mỏ đối với dân bản địa.Những người bản địa cũng mắc phải nhiều bệnh du nhập vào như đậu mùa, cúm và sởi. Một vài ước tính chỉ ra rằng có khoảng 80–90% dân số người Mỹ bản địa tử vong trong suốt thời kỳ diễn ra dịch đậu mùa.[115]
The Act for the Government and Protection of Indians,[116] được thông qua ngày 22 tháng 4 năm 1850 bởi California Legislature, cho phép những người định cư bắt giữ người Californio và sử dụng người bản địa làm lao động. Nó cũng là cơ sở cho việc bắt giữ nô lệ và buôn bán lao động là người Mỹ bản địa, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em, được xúc tiến như một ngành kinh doanh hợp pháp. Các làng của người Mỹ bản địa thường xuyên bị bố ráp để cung ứng nhu cầu, và phụ nữ trẻ và trẻ em được mang đi bán, trong khi đó đàn ông và những người còn lại thường bị giết.[117] Theo chính quyền California, có khoảng 4.500 người Mỹ bản địa bị chết do bạo lực trong khoảng 1849 và 1870.[3]
Cơn sốt vàng trở thành một "triều đại khủng bố" ảo chống lại các bộ lạc trong hoặc xung quanh khu vực khai thác mỏ.[118] Các cuộc phản khác trong các xung đột khác nhau, dân số người Mỹ bản địa ở California năm 1845 khoảng 150.000 đã giảm xuống dưới 30.000 năm 1870.[119] (Dân số người Mỹ bản địa trước khi người châu Âu đến ước tính khoảng 300.000, đã bị giảm hầu như do các bệnh của người Tây Ban Nha mang đến.)[120]
Peter Burnett, người đứng đầu chính quyền California tuyên bố rằng California từng là một chiến trường giữa các chủng tộc và chỉ có 2 lựa chọn đối với những người da đỏ bản địa hoặc là chết hoặc là phải rời khỏi. California, ngoài việc hợp thức hóa chế độ nô lệ đối với người Mỹ bản địa cũng phải trực tiếp chi trả 25.000 USD tiền cho việc buôn đi bán lại người bản địa với các giá khác nhau đối với đàn ông, phụ nữ trưởng thành và độ tuổi của trẻ em. California cùng với nhóm các bang mới phía Tây đã đứng về một phe đối lập trong việc phê chuẩn 18 điều ước được kí giữa lãnh đạo các bộ tộc và đại diện liên bang năm 1851.[121][cần số trang]
Sau khi cuộc bùng nổ đầu tiên kết thúc, các cuộc tấn công người nước ngoài và phân biệt chủng tộc, các luật, và trưng thu thuế đã đuổi những người nước ngoài ra khỏi các mỏ đặc biệt là người di cư Trung Quốc, Mỹ Latin hầu hết đến từ Sonora, Mexico và Chile.[55][122]
The toll on the American immigrants could be severe as well: one in twelve forty-niners perished, as the death and crime rates during the Gold Rush were extraordinarily high, and the resulting vigilantism also took its toll.[123]
Kích thích kinh tế thế giới
- Xem thêm tại [[Lúa mì Chile]]
Chỉ trong vòng vài năm sau khi kết thúc Cơn sốt vàng, năm 1863, lễ động thổ cho nhánh phía tây của đường sắt xuyên lục địa đầu tiên (First Transcontinental Railroad) đã được tổ chức ở Sacramento. Tuyến đường sắt này được hoàn thành khoảng 6 năm sau đó từ một phần chi phí của Cơn sốt vàng,[127] đã kết nối California với miền trung và đông Hoa Kỳ, rút ngắn thời gian đi lại từ vài tuần hoặc thậm chí vài tháng xuống còn vài ngày so với trước đó.[128]
Ảnh hưởng lâu dài
Tên gọi California không thể bị lãng quên với tên gọi Cơn sốt vàng, và thành chông nhanh chóng trong thế giới mới nổi tiếng với cách gọi "giấc mơ California."[129] California được xem là nơi cho những người khởi nghiệp, nơi mà sự giàu có chỉ dành cho những người làm việc cật lực và mai mắn. Nhà sử học H. W. Brands viết rằng trong những năm sau Cơn sốt vàng, Giấc mơ California đã lan rộng trên toàn quốc:“ | "The old American Dream... was the dream of the Puritans, of Benjamin Franklin's "Poor Richard"... of men and women content to accumulate their modest fortunes a little at a time, year by year by year. The new dream was the dream of instant wealth, won in a twinkling by audacity and good luck. [This] golden dream... became a prominent part of the American psyche only after Sutter's Mill."[130] | ” |
Lịch sử văn học về Cơn sốt vàng được phản ảnh qua các tác phẩm của Mark Twain (The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County), Bret Harte (A Millionaire of Rough-and-Ready), Joaquin Miller (Life Amongst the Modocs), và một số tác phẩm khác.[29][137]
Trong số những di sản hiện đại của Cơn sốt vàng California là khẩu hiệu của bang California, "Eureka" ("tôi đã tìm ra nó"), những hình ảnh về Cơn sốt vàng trên con dấu của bang California,[138] và tên gọi khác của bang này, "The Golden State", cũng như một số địa danh như Quận Placer (Placer có nghĩa là sa khoáng, một dạng tồn tại của vàng ở đây) , Rough and Ready, Placerville (tên trước đây là "Dry Diggings" và sau đó đổi thành "Hangtown" trong suốt thời gian diễn ra cơn sốt vàng), Whiskeytown, Drytown, Angels Camp, Happy Camp, và Sawyers Bar. The San Francisco 49ers National Football League team, and the similarly named athletic teams of California State University, Long Beach, are named for the prospectors of the California Gold Rush.
Ngày nay, tuyến đường State Route 49 đi qua chân đồi Sierra Nevada, nối một số thị trấn của thời kỳ Cơn sốt vàng như Placerville, Auburn, Grass Valley, Nevada City, Coloma, Jackson, và Sonora.[139] Tuyến cao tốc này cũng đi qua rất gần Columbia State Historic Park, một khu vực được bảo vệ bao gồm khu thương mại mang tính lịch sử của thị trấn Columbia; công viên này lưu giữ một số tòa nhà thời kỳ Cơn sốt vàng, hiện được khai thác phục vụ du lịch.
Địa chất
Cách đây khoảng 400 triệu năm, California nằm ở đáy của một biển lớn; các núi lửa dưới đáy biển làm lắng đọng dung nham và các khoáng vật (gồm cả vàng) ở đáy biển. Cách đây 200 triệu năm, lực kiến tạo đã đẩy đáy biển xuống bên dưới mảng Bắc Mỹ.[140] Khi nó bị nhấn chìm hay hút chìm bên dưới vị trí California ngày nay, đáy biển bị nóng chảy thành các khối mácma rất lớn. Khối mácma nóng này bị đẩy dâng lên bên dưới khu vực mà ngày nay là California, nó nguội dần khi dâng lên,[141] và khi bị hóa rắn, các mạch vàng hình thành cùng với thạch anh.[141][142] Các đá và khoáng vật này sau đó bị lộ ra trên bề mặt ở Sierra Nevada,[143] và bị bóc mòn. Nước mang vàng bị lộ trên bề mặt xuống các dòng suối và lắng đọng trong các lớp cuội ở những vùng nước yên tĩnh dọc theo các bờ sông và suối.[144] Những forty-niner đầu tiên tập trung khai thác các loại vàng này, chúng được tích tụ trong các lớ cuội hàng trăm triệu năm do hoạt động địa chất.[145][146]
Tham khảo
- ^ "[E]vents from January 1848 through December 1855 [are] generally acknowledged as the 'Gold Rush'. After 1855, California gold mining changed and is outside the 'rush' era."“The Gold Rush of California: A Bibliography of Periodical Articles”. California State University, Stanislaus. 2002. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2008.
- ^ “California Gold Rush, 1848-1864”. Learn California.org, a site designed for the California Secretary of State. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2011.
- ^ a b “Minorities During the Gold Rush”. California Secretary of State. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2009.
- ^ For a detailed map, see California Historic Gold Mines, published by the State of California. Retrieved 2006-12-03.
- ^ Bancroft, Hubert Howe (1889). History of California, Volume 23: 1843–1850. San Francisco: The History Company. tr. 32–34.
- ^ Bancroft, Hubert Howen (1888), pp. 39–41.
- ^ Holliday, J. S. (1999). Rush for riches; gold fever and the making of California. Oakland, California, Berkeley and Los Angeles: Oakland Museum of California and University of California Press. tr. 60.
- ^ Bancroft, Hubert Howe (1888), pp. 55–56.
- ^ Starr, Kevin (2005). California: a history. New York: The Modern Library. tr. 80.
- ^ Bancroft, Hubert Howe (1888), pp. 103–105.
- ^ Bancroft, Hubert Howe (1888), pp. 59–60.
- ^ Holliday, J. S. (1999), p. 51 ("800 residents").
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard J. (eds.) (1999). A golden state: mining and economic development in Gold Rush California (California History Sesquicentennial Series, 2). Berkeley and Los Angeles: University of California Press. tr. 187.
- ^ Holliday, J. S. (1999), p. 126.
- ^ “A Golden Dream? A Look at Mining Communities in the 1849 Gold Rush”. Sell-oldgold.com, an educational resource for historical gold, silver, and coin information. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2009.
- ^ Hill, Mary (1999), p. 1.
- ^ Brands, H. W. (2003). The age of gold: the California Gold Rush and the new American dream. New York: Anchor (reprint ed.). tr. 103–121.
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 75–85. Another route across Nicaragua was developed in 1851; it was not as popular as the Panama option. Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 252–253.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 5.
- ^ Holliday, J. S. (1999), pp. 101, 107.
- ^ Starr, Kevin (2005), p. 80; “Shipping is the Foundation of San Francisco — Literally”. Oakland Museum of California. 1998. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2006.
- ^ Bancroft, Hubert Howe (1888), pp. 363–366.
- ^ Dillon, Richard (1975). Siskiyou Trail. New York: McGraw Hill.pp. 361–362.
- ^ Wells, Harry L. (1881). History of Siskiyou County, California. Oakland, California: D.J. Stewart & Co. tr. 60–64.
- ^ The buildings of Bodie, the best-known ghost town in California, date from the 1870s and later, well after the end of the Gold Rush.
- ^ a b Rawls, James J. and Orsi, Richard J. (eds.) (1999), p. 3.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 9.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 8.
- ^ a b Miller, Joaquin (1873). Life amongst the Modocs: unwritten history. Berkeley: Heyday Books; reprint edition (January 1996). On-line version of book
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 43–46.
- ^ Moynihan, Ruth B., Armitage, Susan, and Dichamp, Christiane Fischer (eds.) (1990). So Much to Be Done. Lincoln: U Nebraska, p. 3
- ^ Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000). Rooted in barbarous soil: people, culture, and community in Gold Rush California. Berkeley and Los Angeles: Univ. of California Press. tr. 50–54.
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 48–53.
- ^ a b c Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), pp. 50–54.
- ^ Caughey, John Walton (1975). The California Gold Rush. University of California Press. tr. 17. ISBN 0-520-02763-9. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2010.
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 197–202.
- ^ Holliday, J. S. (1999) p. 63. Holliday notes these luckiest prospectors were recovering, in short amounts of time, gold worth in excess of $1 million when valued at the dollars of today.
- ^ Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), p. 28.
- ^ a b c Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), pp. 57–61.
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 53–61.
- ^ a b Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), pp. 53–56.
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 61–64.
- ^ Magagnini, Stephen (January 18, 1998)"Chinese transformed 'Gold Mountain'", The Sacramento Bee. Retrieved 2009-10-22.
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 93–103.
- ^ Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), pp. 57–61. Other estimates range from 70,000 to 90,000 arrivals during 1849 (ibid. p. 57).
- ^ Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), p. 25.
- ^ Exploration and Settlement (John Bull and Uncle Sam)
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 193–194.
- ^ Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), p. 62.
- ^ Gold Rush: Background
- ^ Freguli, Carolyn. (eds.) (2008), pp.8–9.
- ^ Another estimate is 2,500 forty-niners of African ancestry. Rawls, James, J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 5.
- ^ African Americans who were slaves and came to California during the Gold Rush could gain their freedom. One of the miners was African American Edmond Edward Wysinger (1816-1891), see also Moses Rodgers (1835-1900)
- ^ Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), pp. 67–69.
- ^ a b c Out of Many, 5th Edition Volume 1, Faragher 2006 (p.411)
- ^ Moynihan, Ruth B., Armitage, Susan, and Dichamp, Christiane Fischer (eds.) (1990), pp. 3-8
- ^ Levy, Joann (1992). They saw the elephant: Women in the California Gold Rush. Archon:N.p., pp. xxii, 92
- ^ By one account, in late 1850, the population of California was over 110,000, not including the Californios or the California Indians. The surviving U.S. census counts in California add up to 92,600, not including the lost censuses of San Francisco (the largest city in California at that time), Contra Costa county and Santa Clara County. The women who came to California in the early years were a distinct minority, consisting of less than 10% of the population.
- ^ Holliday, J. S. (1999), pp. 115–123.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 235.
- ^ a b Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 123–125.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p.127. There were fewer than 1,000 U.S. soldiers in California at the beginning of the Gold Rush.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 27.
- ^ The federal law in place at the time of the California Gold Rush was the Preemption Act of 1841, which allowed "squatters" to improve federal land, then buy it from the government after 14 months.
- ^ Paul, Rodman W. (1947) California Gold, Lincoln: Univ. Nebraska Press, p.211–213.
- ^ a b c Clay, Karen and Wright, Gavin. (2005), pp. 155–183.
- ^ a b c Clappe, Louise Amelia Knapp Smith (ed. 2001). The Shirley Letters from the California Mines, 1851-1852. Heyday Books, Berkeley, California. tr. 109. ISBN 1-890771-00-7. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2010. "Dame Shirley" was the name adopted by Louise Amelia Knapp Smith Clappe as she wrote a series of letters to her family describing in detail her life in the Feather River goldfields. The letters were originally published in 1854-1855 by The Pioneer magazine.
- ^ Luật lệ tuyên bố khai thác mỏ được thông qua bơi những người forty-niners và lan rộng đến những nơi khai thác mới trên khắp miền tây Hoa Kỳ. Quốc hội Hoa Kỳ cuối cùng cũng đưa ra luật thực thi bằng "đạo luật Chaffee" năm 1866 và "luật sa khoáng" năm 1870. Lindley, Curtis H. (1914) A Treatise on the American Law Relating to Mines and Mineral Lands, San Francisco: Bancroft-Whitney, p.89–92. Karen Clay and Gavin Wright, "Order Without Law? Property Rights During the California Gold Rush." Explorations in Economic History 2005 42(2): 155-183. See also John F. Burns, and Richard J. Orsi, eds; Taming the Elephant: Politics, Government, and Law in Pioneer California University of California Press, 2003
- ^ Information Sharing During the Klondike Gold Rush, p. 13-14. DOUGLAS W. ALLEN, Simon Fraser University
- ^ Brands, H. W. (2003), pp. 198–200.
- ^ Images and detailed description of placer mining tools and techniques; image of a long tom
- ^ Bancroft, Hubert Howe (1888), pp. 87–88.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 90.
- ^ The Troy weight system is traditionally used to measure precious metals, not the more familiar avoirdupois weight system. The term "ounces" used in this article to refer to gold typically refers to troy ounces. There are some historical uses where, because of the age of the use, the intention is ambiguous.
- ^ a b c d Mining History and Geology of the Mother Lode (accessed October 16, 2006).
- ^ Starr, Kevin (2005), p. 89.
- ^ Use of volumes of water in large-scale gold-mining dates at least to the time of the Roman Empire. Roman engineers built extensive aqueducts and reservoirs above gold-bearing areas, and released the stored water in a flood so as to remove over-burden and expose gold-bearing bedrock, a process known as hushing. The bedrock was then attacked using fire and mechanical means, and volumes of water were used again to remove debris, and to process the resulting ore. Examples of this Roman mining technology may be found at Las Médulas in Spain and Dolaucothi in South Wales. The gold recovered using these methods was used to finance the expansion of the Roman Empire. Hushing was also used in lead and tin mining in Northern Britain and Cornwall. There is, however, no evidence of the earlier use of hoses, nozzles and continuous jets of water in the manner developed in California during the Gold Rush.
- ^ “Gold Mining Techniques of the Gold Rush of 1849”. Refinity.com, a resource for gold, silver, and coin information. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
- ^ a b Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 32–36.
- ^ a b Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 116–121.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 199.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 36–39.
- ^ “Amador City, California -- Historic Gold Mining Town. [full text] [book links]”. readme-ebooks.org, The Pierian Press, 8 August 1999. Online. Internet. 18 tháng 5 năm 1743. Truy cập [6 September 2010].
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 39–43.
- ^ Charles N. Alpers, Michael P. Hunerlach, Jason T. May, and Roger L. Hothem. “Mercury Contamination from Historical Gold Mining in California”. U.S. Geological Survey. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2008.
- ^ Karen Clay and Randall Jones, "Migrating to Riches? Evidence from the California Gold Rush," Journal of Economic History, December 2008, Vol. 68 Issue 4, pp 997-1027
- ^ Rohrbough, Malcolm J. (1998). Days of Gold: The California Gold Rush and the American Nation. Berkeley and Los Angeles: University of California Press. ISBN 0-520-21659-8.
- ^ a b Holliday, J. S. (1999) pp. 69–70.
- ^ Holliday, J. S. (1999), p. 63.
- ^ Clay and Jones, "Migrating to Riches? Evidence from the California Gold Rush," Journal of Economic History, 2008,
- ^ The famous Levi's jeans were not invented until the 1870s. Lynn Downey, Levi Strauss & Co. (2007)
- ^ James Lick made a fortune running a hotel and engaging in land speculation in San Francisco. Lick's fortune was used to build Lick Observatory.
- ^ Four particularly successful Gold Rush era merchants were Leland Stanford, Collis P. Huntington, Mark Hopkins and Charles Crocker, Sacramento area businessmen (later known as the Big Four) who financed the western leg of the First Transcontinental Railroad, and became very wealthy as a result.
- ^ Susan Lee Johnson, Roaring Camp: The social world of the California Gold Rush. (2000), pp. 164-168.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 52-68, 193–197.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 212–214.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 256–259.
- ^ Holliday, J. S. (1999) p. 90.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 193–197; 214–215.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 214.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), p. 212.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 226–227.
- ^ Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), p. 50. Other estimates are that there were 7,000–13,000 non-Native Americans in California before January 1848. See Holliday, J. S. (1999), pp. 26, 51.
- ^ Historians have reflected on the Gold Rush and its effect on California. Historian Hubert Howe Bancroft used the phrase that the Gold Rush advanced California into a "rapid, monstrous maturity," and historian Kevin Starr stated, for all its problems and benefits, the Gold Rush established the "founding patterns, the DNA code, of American California." See Starr, Kevin (2005), p. 80.
- ^ a b Starr, Kevin (2005), pp. 91–93.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 243–248. By 1860, California had over 200 flour mills, and was exporting wheat and flour around the world. Ibid. at 278–280.
- ^ Starr, Kevin (2005), pp. 110–111.
- ^ Starr, Kevin (1973). Americans and the California dream: 1850–1915. New York and Oxford: Oxford University Press. tr. 69–75.
- ^ Caughey, 1975, p. 192
- ^ Population of the 100 Largest Urban Places: 1870, U.S. Bureau of the Census
- ^ Harper's New Monthly Magazine March 1855, Volume 10, Issue 58, p. 543.
- ^ S.S. Central America information; Final voyage of the S.S. Central America. Retrieved 2008-04-25.
- ^ Hill, Mary (1999), pp. 192–196.
- ^ Một vụ chìm tàu khác nổi tiếng là tàu hơi nước Winfield Scott, đi đến Panama từ San Francisco, khi nó đâm vào đảo Anacapa ngoài khơi bờ biển Nam California tháng 12 năm 1853. Tất cả hành khách đều được cứu vùng với hàng hóa vàng nhưng tàu thì mất hoàn toàn.
- ^ "The Cambridge encyclopedia of human paleopathology". Arthur C. Aufderheide, Conrado Rodríguez-Martín, Odin Langsjoen (1998). Cambridge University Press. p.205. ISBN 0-521-55203-6
- ^ “An Act for the Government and Protection of Indians”.
- ^ Heizer, Robert F. (1974). The destruction of California Indians. Lincoln and London: Univ. of Nebraska Press. tr. 243.
- ^ Castillo, Edward D. (1998). “California Indian History”. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2010.
- ^ Starr, Kevin (2005), p. 99.
- ^ “Destruction of the California Indians”. California Secretary of State. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2012.
- ^ Norton, Jack (1979). Genocide in northwestern California: when our worlds cried. San Francisco: Indian Historian Press. ISBN 0-913436-26-7.
- ^ Starr, Kevin and Orsi, Richard J. (eds.) (2000), pp. 56–79.
- ^ Starr, Kevin (2005), pp. 84–87. Joaquin Murrieta was a famous Mexican bandit during the Gold Rush of the 1850s.The Last of the California Rangers (1928), "16. California Banditti," by Jill L. Cossley-Batt
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 285–286.
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 287–289.
- ^ Younger, R. M. 'Wondrous Gold' in Australia and the Australians: A New Concise History, Rigby, Sydney, 1970
- ^ Rawls, James J. and Orsi, Richard (eds.) (1999), pp. 278–279.
- ^ Historians James Rawls and Walton Bean have postulated that were it not for the discovery of gold, Oregon might have been granted statehood ahead of California, and therefore the first "Pacific Railroad might have been built to that state." See Rawls, James, J., and Walton Bean (2003), p. 112.
- ^ Kevin Starr, Americans and the California Dream, 1850-1915 (1986)
- ^ Brands, H. W. (2003), p. 442.
- ^ A perception of lawlessness also was connected with California. See, Robert A. Burchell, "The Loss of a Reputation; or, The Image of California in Britain before 1875," California Historical Quarterly 53 (Summer I974): 115-30 (stories about Gold Rush lawlessness deterred some immigration for two decades).
- ^ "[A]griculture [dominated the post-Gold Rush] sequence of development, employing more people than mining by 1869... and surpassing mining in 1879 as the leading element of the California economy." Starr, Kevin (2005), p. 110.
- ^ See, e.g., Signal Hill, California, Bakersfield, California; Los Angeles, California
- ^ 20th Century-Fox, MGM, Paramount, RKO, Warner Bros., Universal Pictures, Columbia Pictures, and United Artists are among the most recognized entertainment industry names centered in California; see also Film studio
- ^ Hughes Aircraft, Douglas Aircraft, North American Aviation, Northrop, Lockheed Aircraft were among the complex of companies in the aerospace industry which flourished in California during and after World War II
- ^ Gaither, Chris and Chmielewski, Dawn C (2006-10-10). “Google Bets Big on Videos”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2006.
- ^ Watson (2005) looks at Bret Harte's notion of Western partnership in such California gold rush stories as "The Luck of Roaring Camp` (1868), "Tennessee's Partner" (1869), and "Miggles" (1869). While critics have long recognized Harte's interest in gender constructs, Harte's depictions of Western partnerships also explore changing dynamics of economic relationships and gendered relationships through terms of contract, mutual support, and the bonds of labor. Matthew A. Watson, "The Argonauts of '49: Class, Gender, and Partnership in Bret Harte's West." Western American Literature 2005 40(1): 33-53.
- ^ Gold Rush images on the state seal include a forty-niner digging with a pick and shovel, a pan for panning gold, and a "long-tom." In addition, the ships on the water suggest the sailing ships filling the Sacramento River and San Francisco Bay during the Gold Rush era.
- ^ “Your guide to the Mother Lode:Complete map of historic Hwy 49.”. historichwy49.com. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008.
- ^ Hill, Mary (1999), pp. 168–169.
- ^ a b Brands, H. W. (2003), pp. 195–196.
- ^ Hill, Mary (1999), pp. 174–178.
- ^ Hill, Mary (1999), pp. 169–173.
- ^ Hill, Mary (1999), pp. 94–100.
- ^ Hill, Mary (1999), pp. 105–110.
- ^ Curiously, there were decades of minor earthquakes - more than at any other time in the historical record for northern California - before the 1906 San Francisco earthquake. Widely previously interpreted as precursory activity to the 1906 earthquake, they have been found to have a strong seasonal pattern and were found to be due to large seasonal sediment loads in coastal bays that overlie faults as a result of mining of gold inland. Seasonal Seismicity of Northern California Before the Great 1906 Earthquake, (Journal) Pure and Applied Geophysics, ISSN 0033-4553 (Print) 1420-9136 (Online), volume 159, Numbers 1-3 / January 2002, Pages 7-62.
Tài liệu
- Bancroft, Hubert Howe (1884–1890) History of California, vols. 18–24.
- Brands, H. W. (2003). The age of gold: the California Gold Rush and the new American dream. New York: Anchor Books. ISBN 978-0-385-72088-5.
- Clappe, Louise Amelia Knapp Smith (ed. 2001). The Shirley Letters from the California Mines, 1851-1852. Heyday Books, Berkeley, California. tr. 109. ISBN 1-890771-00-7. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2010.
- Clay, Karen; Gavin Wright (April năm 2005). “Order Without Law? Property Rights During the California Gold Rush”. Explorations in Economic History 42 (2): 155–183. doi:10.1016/j.eeh.2004.05.003. Đã bỏ qua tham số không rõ
|unused_data=
(trợ giúp) - Dillon, Richard (1975). Siskiyou Trail: the Hudson's Bay Company route to California. New York: McGraw Hill. ISBN 0-07-016980-2.
- Gaither, Chris; Chmielewski, Dawn C. (10 tháng 10 năm 2006). “Google Bets Big on Videos” (PDF). Los Angeles Times. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2006.
- Harper's New Monthly Magazine March 1855, volume 10, issue 58, p. 543, complete text online.
- Heizer, Robert F. (1974). The destruction of California Indians. Lincoln and London: University of Nebraska Press. ISBN 0-8032-7262-6.
- Hill, Mary (1999). Gold: the California story. Berkeley and Los Angeles: University of California Press. ISBN 0-520-21547-8.
- Holliday, J. S. (1999). Rush for riches: Gold fever and the making of California. Oakland, California, Berkeley and Los Angeles: Oakland Museum of California and University of California Press. ISBN 0-520-21401-3.
- Johnson, Susan Lee (2001). Roaring Camp: the social world of the California Gold Rush. New York: W. W. Norton & Company. ISBN 0-393-32099-5.
- Levy, JoAnn (1992) [1990]. They saw the elephant: women in the California Gold Rush. Norman: University of Oklahoma Press. ISBN 0-8061-2473-3.
- Miller, Joaquin (1873). Life amongst the Modocs: unwritten history. Berkeley: Heyday Books; reprint edition (January 1996). ISBN 0-930588-79-7.
- Moynihan, Ruth B.; Armitage, Susan, and Dichamp, Christiane Fischer (eds.) (1990). So much to be done: Women settlers on the mining and ranching frontier, 2d ed. (Women in the West). Lincoln: University of Nebraska Press. ISBN 0-8032-8248-6.
- Rawls, James, J.; Bean, Walton (2003). California: An interpretive history. New York: McGraw-Hill. ISBN 0-07-255255-7.
- Rawls, James, J. and Richard J. Orsi (eds.) (1999). A golden state: mining and economic development in Gold Rush California. California History Sesquicentennial, 2. Berkeley and Los Angeles: University of California Press. ISBN 0-520-21771-3.
- Starr, Kevin (1973). Americans and the California dream: 1850–1915. New York and Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-504233-6.
- Starr, Kevin (2005). California: a history. New York: Modern Library. ISBN 0-679-64240-4.
- Starr, Kevin and Richard J. Orsi (eds.) (2000). Rooted in barbarous soil: people, culture, and community in Gold Rush California. Berkeley and Los Angeles: University of California Press. ISBN 0-520-22496-5.
- Wells, Harry L. (1971) [1881]. History of Siskiyou County, California. Siskiyou Historical Society. OCLC 6150902. ASIN B0006YP8IE,.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Cơn sốt vàng California |
- California Gold Rush trên PBS
- Gold Rush! at the Oakland Museum of California
- Marshall Gold Discovery State Historic Park
- California Gold Rush timeline
- The University of California, Calisphere, 1848-1865: The Gold Rush Era
- Oakland Museum of California, "California's Untold Stories: Gold Rush!"
Thể loại:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt, Food Crops News, KimTwitter, KimFaceBook, CassavaViet, foodcrops.vn
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt, Food Crops News, KimTwitter, KimFaceBook, CassavaViet, foodcrops.vn
No comments:
Post a Comment