Tuesday, April 1, 2014

Chào ngày mới 2 tháng 4


Tập tin:Juan Ponce de León.jpg 
CNM365 Chào ngày mới 2 tháng 4 Wikipedia Ngày này năm xưa Ngày Sách thiếu nhi quốc tế, ngày Thế giới nhận biết về chứng Tự kỷ, ngày Đoàn kết Nhân dân (Nga và Belarus). Năm 1513Juan Ponce de León (hình) trở thành người châu Âu đầu tiên nhìn thấy vùng đất mà nay là bang Florida của Hoa Kỳ.Năm 1900Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật Foraker, trao cho Puerto Rico quyền tự trị giới hạn.Năm 1982Chiến tranh Falklands: Quân đội Argentina đánh chiếm quần đảo Falkland dẫn đến sự phản công của Quân đội Hoàng gia Anh sau đó. 1989 – Hội đồng Trung ương của Hội đồng Dân tộc Palestine bầu Yasser Arafat làm Chủ tịch của Nhà nước Palestine.

Juan Ponce de León

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Juan Ponce de León
Juan Ponce de León.jpg
Chức vụ
Thống đốc Puerto Rico
Nhiệm kỳ 1509–1512 – 1515–1519
Tiền nhiệm Chức vụ thành lập
Kế nhiệm Juan Ceron
Thông tin chung
Sinh 1474
Santervás de Campos, Castile
Mất 1521 (46–47 tuổi)
La Habana, Cuba
Tôn giáo Công giáo Rôma
Vợ hoặc chồng Leonor Ponce de León
Juan Ponce de León Signature.svg
Juan Ponce de León[1] (phát âm tiếng Anh: /ˈpɒns də ˈliən/[2] phát âm tiếng Tây Ban Nha[ˈponθe ðe leˈon]; 1474 - tháng 7 năm 1521)[3] là một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha. Ông đã trở thành Thống đốc đầu tiên của Puerto Rico dưới sự chỉ định của hoàng gia Tây Ban Nha. Ông đã dẫn đầu cuộc thám hiểm châu Âu đầu tiên đến Florida, mà ông đặt tên. Ông được gắn liền với truyền thuyết Fountain of Youth, rất nổi tiếng ở Florida.

Cuộc đời

Tây Ban Nha

Juan Ponce de León được sinh ra trong làng Santervás de Campos ở tỉnh Valladolid, miền bắc Tây Ban Nha. Mặc dù nhiều nhà sử học cho rằng ông sinh ra năm 1475, nhưng những bằng chứng gần đây cho thấy ông có thể đã được sinh ra trong năm 1474. Phả hệ gia đình của ông là cực kỳ khó hiểu và không có bằng chứng. Không có sự nhất trí về cha mẹ của ông nhưng có vẻ như rằng ông là một thành viên của một gia đình quý tộc. Và cũng có thể. Thân nhân của ông bao gồm Rodrigo Ponce de León, Quân công Cádiz một nhân vật nổi tiếng trong các cuộc chiến tranh Moor.[4]
Ponce de León là cũng liên quan đến một gia đình đáng chú ý khác, Núñez de Guzman, là một người đàn ông trẻ, ông phục vụ như là điền chủ Pedro Núñez de Guzmán, hiệp sỹ của Dòng Calatrava. Một nhà viết sử đương đại lớn, Gonzalo Fernández de Oviedo y Valdés, cho rằng, nơi mà Ponce de León đã trở thành một người lính có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến dịch Tây Ban Nha đánh bại người MoorGranada và hoàn thành cuộc chinh phục Tây Ban Nha vào năm 1492.[5]

Đến thế giới mới

Một khi các cuộc chiến tranh chống lại các Tiểu vương quốc Granada kết thúc, không có dấu hiệu rõ ràng cho thấy mình cần phục vụ trong quân đội ở nhà, vì vậy, giống như nhiều người cùng thời với ông, cơ hội tiếp theo của ông chỉ có thể là đi ra nước ngoài. Trong tháng 9 năm 1493, một số 1.200 thủy thủ, thực dân, chiến sĩ, đã theo Cristoforo Colombo trong chuyến đi thứ hai của ông đến thế giới mới. Ponce de León là một thành viên của đoàn thám hiểm này, một trong 200 "tình nguyện viên".[6]
Hạm đội đến vùng biển Caribbean trong tháng 11 năm 1493. Họ đã đến thăm một số hòn đảo trước khi đến điểm đến chính của họ tại Hispaniola. Đặc biệt, họ neo trên bờ biển của một hòn đảo lớn người dân địa phương gọi là Boriquen nhưng cuối cùng sẽ được biết đến với cái tên Puerto Rico. Đây là cái nhìn đầu tiên của Ponce de León, nơi mà ông có thể đóng một vai trò quan trọng trong tương lai.[7]
Các nhà sử học chưa chắc chắn về những gì ông đã làm trong vài năm tới, nhưng nó là có thể ông trở về Tây Ban Nha tại một số điểm và thực hiện theo cách của mình trở lại Hispaniola với Nicolás de Ovando.[8]

Hispaniola

Năm 1502, thống đốc mới được bổ nhiệm, Nicolás de Ovando, đến Hispaniola. Chỉ thị dành cho ông từ Hoàng gia Tây Ban Nha là để mang lại trật tự một thuộc địa trong tình trạng lộn xộn. Một trong những ưu tiên của Ovando là để hoàn thành cuộc chinh phục người bản địa Taínos. Năm 1504, khi một đội quân đồn trú Tây Ban Nha nhỏ bị đánh úp bởi người Taínos từ Higüey ở phía đông của đảo, Ponce de León chỉ định một vai trò quan trọng trong việc nghiền nát cuộc nổi loạn này. Ovando phải được ấn tượng với Ponce de León, ông đã bổ nhiệm Ponce de León làm thống đốc vùng biên giới của tỉnh mới, Higüey. Ngoài ra, Ovando trao tặng ông một khoản trợ cấp đất đáng kể cùng với số lượng lớn lao động bản địa đủ để canh tác vùng đất mời của mình.[9]
Ponce de León khởi sắc trong vai trò mới này. Ông tìm thấy một thị trường sẵn sàng dành cho nông sản và chăn nuôi của ông ở gần Boca de Yuma, nơi tàu Tây Ban Nha đã thực hiện một cuộc cung cấp cuối cùng trước khi thực hiện cuộc hành trình dài trở lại Tây Ban Nha. Năm 1505, ông được ủy quyền bởi Ovando để thiết lập một thị trấn mới ở Higüey, mà ông đặt tên Salvaleón.
Cùng một khoảng thời gian này, Ponce de León kết hôn với Leonora, con gái của chủ quán trọ. Họ có ba cô con gái, Juana, Isabel và Maria, và một con trai, Luis. Ông đã xây dựng một ngôi nhà đá lớn cho nhà phát triển một gia đình của mình mà vẫn còn sót lại tới ngày hôm nay gần thành phố Salvaleón de Higüey.[10]

Puerto Rico

Là thống đốc tỉnh, Ponce de León đã có dịp để tiếp cận với những người Taínos đã từng ghé tỉnh lân cận Puerto Rico. Họ kể với ông câu chuyện về một vùng đất màu mỡ với nhiều vàng được tìm thấy ở nhiều con sông. Lấy cảm hứng từ khả năng của sự giàu sang, Ponce de León đã yêu cầu và nhận được sự cho phép từ Ovando để khám phá hòn đảo nói trên.[11]
Cuộc dò sát đầu tiên của ông trên đảo thường ngày đến năm 1508 nhưng không có bằng chứng rằng ông đã thực hiện một thăm dò trước đó và càng sớm như thế trước năm 1506. Chuyến đi này trước đó đã được thực hiện bí mật vì Hoàng gia Tây Ban Nha đã ủy nhiệm Vicente Yanez Pinzón đi khai hoang các hòn đảo trong năm 1505. Pinzón đã không hoàn thành trọng trách đó của ông và nó đã hết hạn năm 1507, để lại cơ hội rõ ràng cho Ponce de León.
Cuộc thăm dò trước đó của ông đã xác nhận sự hiện diện của vàng và đã cho ông một hiểu biết tốt về địa lý của đảo. Năm 1508, Ferdinand II của Aragon cho phép Ponce de León thực hiện một cuộc thám hiểm chính thức đầu tiên đến hòn đảo, mà người Tây Ban Nha sau đó được gọi là San Juan Bautista. Cuộc thám hiểm này, bao gồm khoảng 50 người trong một chiếc tàu, họ còn ở lại Hispaniola ngày 12 tháng sáu 1508 và cuối cùng neo trong vịnh San Juan, gần thành phố của San Juan. Ponce de León xâm nhập nội địa cho đến khi ông tìm thấy một khu vực phù hợp cách vịnh khoảng hai dặm. Tại đây ông dựng lên một nhà kho và một căn nhà kiên cố, tạo ra cuộc khai phá đầu tiên tại Puerto Rico, Caparra.[12] Mặc dù một vài nông sản được trồng, họ dành phần lớn thời gian và năng lượng của họ để đi kiếm vàng. Đến đầu năm 1509, Ponce de León đã quyết định quay trở lại Hispaniola. Cuộc thám hiểm của ông đã thu thập một số lượng lớn kim loại quý, nhưng lại có số lượng ít thực phẩm và vật tư.

Tham khảo

  1. ^ Juan Ponce de León: the exploration of Florida and the search for the Fountain of Youth. By Robert Greenberger. The Rosen Publishing Group, New York. 2003. Page 18.
  2. ^ http://dictionary.reference.com/browse/ponce+de+leon
  3. ^ Morison, p. 502, 515, 529. Traditionally a birth date of 1460 has been used but more recent evidence points to 1474.
  4. ^ Arnade, trang. 35-44
  5. ^ Morison, trang. 502.
  6. ^ Morison, trang. 100.
  7. ^ Morison, trang. 112–115.
  8. ^ Fuson, trang. 56-57.
  9. ^ Fuson, trang. 63-65.
  10. ^ Fuson, các trang. 66-67.
  11. ^ Van Middeldyk, các trang. 17-19.
  12. ^ Lawson, trang. 3.

Tài liệu tham khảo

  • Arnade, Charles W. (1967). "Who Was Juan Ponce de León?" Tequesta, The Journal of the Historical Association of Southern Florida. XXVII, 29-58.
  • Davis, T. Frederick. (1935) "History of Juan Ponce de Leon's Voyages to Florida: Source Records." Florida Historical Society Quarterly. V14:1.
  • Fuson, Robert H. (2000). Juan Ponce de León and the Discovery of Puerto Rico and Florida. McDonald & Woodward Publishing Co.
  • Lawson, Edward W. (1946). The Discovery of Florida and Its Discoverer Juan Ponce de Leon. Reprint, Kessenger Publishing.
  • Morison, Samuel Eliot (1974). The European Discovery of America, The Southern Voyages. Oxford University Press.
  • Peck, Douglas T. (1993). Ponce de León and the Discovery of Florida. Pogo Press.
  • Van Middeldyk, R. A. (1903). The History of Puerto Rico. D. Appleton and Co.
  • Weddle, Robert S. (1985). Spanish Sea: the Gulf Of Mexico in North American Discovery, 1500–1685. Texas A&M University Press.
  •  Juan Ponce de León”. Catholic Encyclopedia. New York: Robert Appleton Company. 1913.

Liên kết ngoài

Tiền nhiệm:
không có
Thống đốc Puerto Rico
1508–1511
Kế nhiệm:
Juan Cerón
Tiền nhiệm:
Cristóbal de Mendoza
Thống đốc Puerto Rico
1515–1519
Kế nhiệm:
Sánchez Velázquez

Nhà nước Palestine

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà nước Palestine[i]
دولة فلسطين
Dawlat Filasṭin
Flag of Palestine.svg Palestine COA (alternative).svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của Palestine
Quốc ca

فدائي
Fida'i [cần dẫn nguồn]
My Redemption
Hành chính
Chính phủ De jure Dân chủ nghị viện[1] operating de facto as a semi-presidential system
Tổng thống Mahmoud Abbasb
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Ả Rập
Thủ đô
MiddleEast.A2003031.0820.250m.jpg
BritishMandatePalestine1920.png
Flag of Palestine - long triangle.svg
Dome in Jerusalem The Capital City Of Palestine
1 Palestine Pound 1939 Obverse.jpg
عملة فلسطينية معدنية.jpg
British Mandate Palestinian passport.jpg
Palestine recognition only.svg
PALESTINE 1759
PALESTINE 1851
PALESTINE 1864
PALESTINE 1900
PALESTINE 1915
Palestine 1920
PALESTINE 1924
PALESTINE 1946
PALESTINE 1947
PALESTINE 2003
Thành phố lớn nhất Gazaa
Địa lý
Diện tích 6.220 km²
Lịch sử
Dân cư
Dân số ước lượng (2010 (tháng 7)) 4,260,636a người (hạng 124)
Dân số 7.428.260a[dubious ] người
Mật độ 707,7/km2 người/km²
Kinh tế
GDP (PPP) Tổng số: $11.95 billiona
HDI 0.731
Lái xe bên rightd
Nhà nước Palestine (tiếng Ả Rập: دولة فلسطينDawlat Filasṭin)[2][3]nhà nước được Hội đồng quốc gia Palestine thuộc Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) công bố thành lập từ ngày 15 tháng 11 năm 1988[1] tại Alger. Theo đó, các vùng lãnh thổ Palestine[1] (được định nghĩa theo biên giới năm 1967[4]) và thủ đô dự kiến là Jerusalem.[ii][2][3]

Chú thích

  1. ^ a ă â Palestinian Declaration of Independence (1988).
  2. ^ a ă â Baroud, Ramzy (2004). Trong Kogan Page. Middle East Review (ấn bản 27). London: Kogan Page. tr. 161. ISBN 978-0-7494-4066-4.
  3. ^ a ă â Bissio, Robert Remo biên tập (1995). The World: A Third World Guide 1995–96. Montevideo: Instituto del Tercer Mundo. tr. 443. ISBN 978-0-85598-291-1.
  4. ^ “Palestinian Authority applies for full UN membership”. United Nations Radio. 23 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2011.: "...Tôi, với tư cách Tổng thống Nhà nước Palestine và Chủ tịch Hội đồng tối cao Tổ chức Giải phóng Palestine, đệ trình ngài Ban Ki-moon, Tổng thư kí Liên hiệp quốc, áp dụng quy chế thành viên đầy đủ của Liên hiệp quốc đối với Palestine dựa trên đường biên giới ngày 4 tháng 6 năm 1967, với thủ đô là Al-Kuds Al-Sharif."

2 comments: