Friday, July 25, 2014

Chào ngày mới 23 tháng 7

Allegorie auf Friedrich den Grossen.jpg
CNM365 Chào ngày mới 23 tháng 7 Wikipedia Ngày này năm xưa. Bắt đầu Đại thử tại Đông Á (2014), ngày Hồi tưởng quốc gia tại Papua New Guinea; ngày Cách mạng tại Ai Cập.  Năm 1759Chiến tranh Bảy Năm: Quân Nga giành thắng lợi trước quân Phổ trong trận Züllichau, có điều kiện tiến sâu vào lãnh thổ của Phổ-Brandenburg. Năm 1785 – Ba phiên quốc Tin Lành của La Mã Thần thánhPhổ, Hannover và Sachsen thiết lập Liên minh các Vương hầu (hình) nhằm chống lại họ Habsburg trong đế quốc. Năm 1952Hiệp định Paris năm 1951 có hiệu lực, Cộng đồng Than Thép châu Âu được hình thành với các thành viên là Pháp, Tây Đức, Ý và ba quốc gia Benelux. Năm 1992Abkhazia đơn phương tuyên bố độc lập khỏi Gruzia.

Đại thử

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hai mươi tư tiết khí
Kinh độ Tiết khí Dương lịch
Xuân
315° Lập xuân 4 - 5/2
330° Vũ thủy 18 - 19/2
345° Kinh trập 5 - 6/3
Xuân phân 20 - 21/3
15° Thanh minh 4 - 5/4
30° Cốc vũ 20 - 21/4
Hạ
45° Lập hạ 5 - 6/5
60° Tiểu mãn 21 - 22/5
75° Mang chủng 5 - 6/6
90° Hạ chí 21 - 22/6
105° Tiểu thử 7 - 8/7
120° Đại thử 22 - 23/7
Thu
135° Lập thu 7 - 8/8
150° Xử thử 23 - 24/8
165° Bạch lộ 7 - 8/9
180° Thu phân 23 - 24/9
195° Hàn lộ 8 - 9/10
210° Sương giáng 23 - 24/10
Đông
225° Lập đông 7 - 8/11
240° Tiểu tuyết 22 - 23/11
255° Đại tuyết 7 - 8/12
270° Đông chí 21 - 22/12
285° Tiểu hàn 5 - 6/1
300° Đại hàn 20 - 21/1
Đại thử (tiếng Hán: 大暑) là một trong 24 tiết khí của của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng 7 dương lịch, khi Mặt Trờixích kinh 120° (kinh độ Mặt Trời bằng 120°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Nóng oi.
Theo quy ước, tiết đại thử là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 22 hay 23 tháng 7 khi kết thúc tiết tiểu thử và kết thúc vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 8 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết lập thu bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Đại thử nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Đại thử ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 120°. Ngày bắt đầu tiết Đại thử do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 22 hay 23 tháng 7 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Đại thử là Tiểu thử và tiết khí kế tiếp sau là Lập thu.

Xem thêm

Tham khảo


Liên minh các Vương hầu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phúng dụ việc vua Friedrich II Đại đế thiết lập "Liên minh các Vương hầu", tranh sơn dầu trên vải bạt của Bernhard Rode (1725 – 1797).
Liên minh các Vương hầu, hoặc Liên minh các Vương hầu người Đức, còn được gọi là Fürstenbund theo tiếng Đức, do nhà vua nước Phổ khi đó là Friedrich II (Friedrich Đại Đế, 1712 - 1786) thành lập ở Đức vào năm 1785, là một bước tiến trong công cuộc thống nhất của Đế chế Đức dưới sự lãnh đạo của Triều đình Vương quốc Phổ.[1][2] Ba nước đầu tiên của "Liên minh các Vương hầu" là nước Phổ, xứ Sachsen và xứ Hanover đã ký kết Liên minh vào ngày 21 tháng 7 năm 1785 ở kinh đô Berlin nước Phổ, Vương quốc Phổ đóng vai trò bảo vệ quyền tự do của các Vương hầu người Đức trong Đế quốc La Mã Thần thánh,[3][4] và chống lại âm mưu thôn tính xứ Bayern của vua Áo.[5]
Vốn Quốc vương nước Phổ đã nhận thấy rõ ràng rằng việc nước Áo thôn tính xứ Bayern sẽ đưa đến sự hùng mạnh hơn cả của Hoàng đế Áo trên đất Đức, và tiến hành thiết lập liên minh này sau khi Quận công xứ Deut-Ponts cầu cứu ông vì bị hai nước Nga và Áo đe dọa[6]. Đây là một trong những thành tựu mang tầm quốc tế, thành tựu vĩ đại cuối cùng của vị vua kiệt xuất Friedrich II Đại Đế - được xem là "nhân vật số một của thế kỷ",[7] ông đã toàn thắng trong việc thiết lập liên minh này với sự thất bại của liên minh Áo - Nga.[1][8][9][10][11] Với liên minh này, nhà vua nước Phổ (vốn đã mang đại binh tinh nhuệ đi đánh và giành chiến thắng trước quân Áo của vua Joseph II trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern vào các năm 1778 - 1779[12][13]) một lần nữa giữ vững hiện trạng của Đế quốc La Mã Thần thánh qua việc làm phá sản các tham vọng của Triều đình Áo,[14] và đạt được mục tiêu mà ông nhắm vào trong suốt đời: nước Phổ là một kình địch của Đế quốc Áo, và giành thắng lợi.
Nước Phổ - minh chủ của "Liên minh các Vương hầu"[15] - vốn đã là một cường quốc trên thế giới sau chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Kế vị Áo (1740 - 1748), chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763) và cuộc chia cắt Ba Lan (1772), và tiếp tục thể hiện vai trò này với thắng lợi của "Liên minh các Vương hầu".[16][17] Cùng năm với thắng lợi của ông và "Liên minh các Vương hầu", minh chủ của Liên minh là vua Phổ Friedrich II Đại Đế - vị anh hùng dân tộc nước Phổ[18] - đã già và dần yếu đi (73 tuổi), nhưng ông vẫn còn sống qua năm 1785, rồi qua đời vào năm sau (1786).[4][19]

Bối cảnh lịch sử: Áo - Phổ tranh hùng

Hoàng đế Áo Joseph II liên tục thất bại vào các năm 1778 và 1785 do phải đối mặt với Quốc vương Friedrich II Đại Đế và lực lượng Quân đội Phổ hùng mạnh hơn hẳn. Sau đó, ông chuyển tầm nhìn sang Đế quốc Ottoman và gây chiến với họ.[20]
Dưới triều đại huy hoàng của Quốc Vương Friedrich II Đại Đế, Vương quốc Phổ từ một nước chư hầu của các nước phong kiến phía Đông, trở thành một cường quốc phát triển lớn mạnh,[21] chiếm được tỉnh Silesia của Áo.[22] Nước Phổ liên minh với Nga vào năm 1764 - một liên minh lâu dài và lâu bền nhất trong lịch sử nền quân chủ Phổ, giúp Triều đình Phổ có thể chi phối những chính sách của Triều đình Nga về vấn đề xâm chiếm Ba Lan.[23] Vào năm 1772, ba nước Phổ, Áo và Nga tiến hành cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất,[24] đem lại lợi thế lớn lao cho nước Phổ. Nước Phổ trở nên một liệt cường đáng sợ, tranh giành quyền Bá chủ Đế chế Đức với nước Áo.[25] Tuy nước Áo thất bại nặng nề, Hoàng Đế nước Áo là Joseph II lại có đầy tham vọng.[26] Tuy rất ngưỡng mộ vua Friedrich II Đại Đế, khi tưởng rằng ông qua đời vì ông lâm vào một căn bệnh gút vào năm 1775, Hoàng Đế Joseph II dự định phái quân Áo đến biên giới nước Phổ để buộc vị tân vương Phổ phải trả lại tỉnh Silesia - một tỉnh giàu có từng bị Quốc Vương Friedrich II Đại Đế. Không may cho Hoàng Đế nước Áo, Quốc Vương nước Phổ khỏe lại, và dĩ nhiên là dự định chiếm lại tỉnh Silesia của quân Áo lập tức thất bại.[26] Khi Tuyển hầu tước xứ BayernMaximilian III Joseph (1727 - 1777) qua đời vào ngày 30 tháng 12 năm 1777.
Sau đó, ngôi chúa xứ Bayern được truyền cho người một người họ hàng của ông ta - đó là Charles Theodore (1724 - 1799), Sứ quân Tuyển hầu tước vùng sông Rhine. Ông này cũng không có con cái, và vào ngày 3 tháng 1 năm 1778, ông ta đành phải từ bỏ hết mọi quyền thừa kế của mình, theo Thỏa thuận tại Viên. Thỏa thuận này bị phản đối bởi người kế thừa có cơ sở của lãnh địa Sứ quân Tuyển hầu tước vùng sông Rhine - Quận công xứ Deux-Ponts, và bởi cả Tuyển hầu tước xứ Sachsen - hậu duệ của vị Tuyển hầu tước quá cố của xứ Bayern.[1] Họ bèn cầu cứu Triều đình vua Friedrich II Đại Đế. Vốn từ năm 1763, Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã giành chiến thắng hoàn toàn trong cuộc Chiến tranh Bảy năm chống liên quân Áo - Nga - Pháp - Thụy Điển v.v... và qua đó, ông giữ vững được đất nước,[27] Vương quốc Phổ trở thành một cường quốc hùng mạnh nhất vùng Trung Âu, là cường quốc quân sự đóng vai trò Bá chủ ở châu Âu: ông cùng Quân đội Phổ hùng mạnh đã đánh bại được tất cả các cường quốc trên lục địa châu Âu.[28][29][30][31] Thanh thế của nước Phổ vươn lên trên toàn cõi châu Âu, và họ củng cố hoàn toàn vai trò liệt cường,[32][33] với một trong những đội quân hùng mạnh nhất trên toàn cõi châu Âu.[34] Sau đó, Quốc vương Friedrich II Đai Đế tái thiết quốc gia hùng cường.[35][36]
Nghe lời cầu cứu của Quận công xứ Deux-Ponts và Tuyển hầu tước xứ Sachsen, ông thân chinh mang đại binh tinh nhuệ đi đánh Đế quốc Áo của nhà Habsburg do Nữ hoàng Maria Theresia (1714 - 1780) và con trai là vua Joseph II trị vì.[37] Ông chỉ đánh Áo nhằm bảo vệ sự cân bằng qưyền lực, không phải vì những tham vọng lớn lao nào hết.[38] Nước Áo một lần nữa là kẻ thất bại[39], Quốc vương nước Phổ phá vỡ ý tưởng sáp nhập xứ Bayern vào nước Áo[40], tiêu diệt Thỏa thuận Viên với Hiệp định Teschen vào ngày 13 tháng 5 năm 1779, sau cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern ngắn ngủi. Đế quốc NgaVương quốc Pháp đóng vai trò trung gian trong Hiệp định Teschen.[1] Như vậy là Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã trở thành một nhà chính trị lão luyện của châu Âu, bảo vệ trật tự đất Đức và châu Âu trước những tham vọng của kình địch của ông - Hoàng đế Áo Joseph II.[41][42] Bước vào thập niên 1780, Quốc vương Friedrich II Đại Đế nước Phổ và Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế nước Nga trở thành hai nhân vật duy nhất có tầm vóc anh hùng trên chính trường châu Âu.[43] Lúc này, ông đã trải qua những năm tháng danh tiếng, huy hoàng quân sự, và đã mất luôn cả kẻ cựu thù Maria Theresia.[44]

Diễn biến và ý nghĩa của Liên minh

Nhưng vài năm sau, để cung cố uy quyền của nền quân chủ chuyên chế Áo, vị Hoàng đế đầy tham vọng Joseph II (1741 - 1790) - kẻ thất bại trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern - lại nghĩ đến chuyện thôn tính xứ Bayern.[1][3][42] Trong lúc này, cả vua cha Franz I lẫn Nữ hoàng Maria Theresia đã qua đời và do đó ông ta nắm giữ Hoàng quyền chuyên chế.[20][44] Ông ta xây dựng một chế độ quân chủ chuyên chế, noi gương vua Friedrich II Đại Đế.[45] Vốn sau thắng lợi cuộc Chiến tranh Bảy năm, vua Friedrich II Đại Đế đã hứa rằng ông sẽ tôn Joseph II làm Hoàng đế.[46] Với tham vọng hung dữ của mình, ông ta mong muốn đưa nước Áo trở lại thành Bá chủ của đất Đức như trước Hòa ước Westfalen (1648). Thông qua các hoạt động ngoại giao rộn rịp, ông đã thiết lập liên minh với Pháp và Nga, cô lập nhà vua nước Phổ.[47] Trong lần này, Nữ hoàng Nga Ekaterina II (1729 - 1796) còn đề nghị trao đổi vùng Hà Lan thuộc Áo cho Tuyển hầu tước xứ Bayern. Tuyển hầu tước Charles Theodore sẽ nhận được vùng Hà Lan thuộc Áo (ngoại trừ LuxemburgNamur), không những thế, ông sẽ làm Vua của Burgundy. Sứ thần Áo là Von Lehrbach đã buộc vị Tuyển hầu tước này phải tuân lệnh, còn người kế thừa hợp pháp của ngôi chúa vùng sông Rhine cũng bị sứ thần Nga là Bá tước Romanzoff buộc phải làm theo. Ban đầu Nga và Áo thành công, và cả hai vị lãnh chúa được mua chuộc bằng một khoảng tiền gồm 3.000 florin Áo. Quận công xứ Deut-Ponts được biết rằng, Tuyển hầu tước Charles Theodore không còn ý kiến ý cọt gì, và việc trao đổi lãnh thổ nhất định sẽ xảy ra. Tuy nhiên, Quận công xứ Deut-Ponts đã phản đối, thế là ông cầu cứu vua Friedrich II Đại Đế.[1]
Vua Áo vốn thực chất là quan thầy của các tiểu quốc người Đức, và họ không thể chống lại được nếu không có vua Phổ làm quan thầy.[48] Về phía Phổ, họ vốn đã mất nhiều đồng minh trong suốt những cuộc chiến tranh Silesia, và sau khi Ngoại trưởng Nga là Nikita Ivanovich Panin bị mất chức thì liên minh Nga - Phổ cũng sụp đổ (1780).[49] Bị các cường quốc cô lập, ông hết sức lo buồn, thường than rằng việc thống trị nước Phổ đã trở thành một nỗi lo đối với tấm thân 70 tuổi của mình.[47] Ông nhận thấy một khi nước Áo được lợi thế, cường quốc Công giáo này sẽ phát triển thịnh vượng ở phương Nam, lại còn thù địch với đến nước Phổ.[43] Ông kịch liệt phản đối dự định của triều đình Nga hoàng, thể hiện qua lá thư mà Quận công xứ Deut-Ponts gửi cho Nữ hoàng Nga Ekaterina II Đại Đế. Nữ hoàng Nga bèn thông báo rằng, bà ta chỉ nghĩ cả hai bên đều có quyền chao đổi lãnh thổ, nếu hai bên đã đồng ý. Vua nước Pháp là Louis XVI - ông vua đã đứng ra trung gian trong Hiệp định Teschen và sẽ không tán thành với dự án chiếm đóng xứ Bayern - đã làm cho vua Friedrich II Đại Đế trở nên cam đoan rằng Hoàng đế Joseph II đã xóa bỏ dự định của mình do Quận công xứ Deut-Ponts có phản đối, triều đình Áo vẫn không chịu tiến hành hòa giải. Thế là nhà vua nước Phổ liền ra tay, ông trở nên năng nổ và thể hiện sự vĩ đại của ông trong tình hình khó khăn.[1][8][50] Sự phản đối tham gia dự định chiếm đóng xứ Bayern của Pháp cũng là một sự kiện mở đường cho ông tiến hành thắng lợi cuối cùng của mình, góp phần phá sản kế hoạch chiếm đóng Bayern, và ông vốn đã tìm kiếm đồng minh mới để chống Áo ngay từ khi Nga liên minh với Áo.[51] Thực chất, chính nhờ một lực lượng Quân đội tinh nhuệ mà vua Phổ vẫn giữ vững được uy thế của đất nước sau khi liên minh Nga - Phổ tan rã.[49] Nhưng lần này, ông không phải đi chinh chiến thêm một lần nữa, thay vì đó ông đưa Triều đình Phổ trở thành một minh chủ của các Vương hầu người Đức chống lại những âm mưu bành tráng của Hoàng đế Joseph II.[43][51] Ông gửi thư cho Thủ tướng Chính phủ Phổ khi đó là Bá tước Karl-Wilhelm Finck von Finckenstein, nói về việc thiết lập một liên minh:[52]
...để bảo vệ những đặc quyền và lợi ích của các Tiểu vương người Đức, bất kỳ một tôn giáo nào.
—Friedrich II Đại Đế
Quốc vương Phổ Friedrich II Đại Đế năm ông 68 tuổi. Ông đánh chiếm tỉnh Silesia và đánh thắng một liên quân chống Phổ đông đảo (Áo, Nga, Pháp, v.v...) trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, giữ vững tỉnh Silesia và đưa nước Phổ lên hàng liệt cường.[17]
Lúc này ông đã 73 tuổi, nhưng ông khỏe lên kể từ sau cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern (1778 - 1779).[43] Vào năm 1785, ông thành lập "Liên minh các Vương hầu" (tên tiếng Đức: Fürstenbund), bao gồm Vương quốc Phổ (quốc gia hùng mạnh nhất trên đất Đức)[42], Lãnh địa Tuyển hầu tước Sachsen, Lãnh địa Tuyển hầu tước Hanover và một số nước khác sau này (Saxe-Weimar, Saxe-Gotha), tổng cộng là mười lăm nước, với minh chủ chính là nhà vua Friedrich II Đại Đế.[42][50] Vua Phổ hiểu rằng, ông phải thật công bằng mới có thể liên minh được với họ, và ông đã thắng lợi khi liên minh được với những tiểu quốc hùng mạnh.[48] Với một liên minh giữa những vua chúa hùng cường trên đất Đức, ông vua thiên tài Phổ đã có một liên minh vững chắc chống Áo.[53] Đây là một Liên minh độc đáo, và cũng giống như những Liên minh đã được thiết lập để các thành viên cùng nhau trong lịch sử.[54] Các thành viên cùng chịu trách nhiệm chung với nhau để đối đầu với đế quốc Áo, tuân thủ theo Hòa ước Westfalen năm xưa. Chỉ trong vài tháng, đã nhiều nước tham gia liên minh (trong số đó có Quận công xứ Deut-Ponts), thế là Quốc vương nước Phổ đã toàn thắng.[47][50] Không những thế, qua những điều ước bí mật, họ ra đặt những biện pháp chống lại ý đồ thôn tính xứ Bayern của Áo: nếu cần thiết, họ sẽ dùng đến Quân đội để dẹp tan mưu đồ này.[8] Liên minh đã chiến thắng huy hoàng qua việc thu nhập được cả vị Tuyển hầu tước - Tổng giám mục xứ Mainz - một nhân vật đóng vai trò rất quan trọng trên đất Đức.[50] Đây là thành tựu quan trọng của một nhân vật có công lớn trong lịch sử Phổ - Nam tước Heinrich Friedrich Karl vom und zum Stein, khi đó ông mới 27 tuổi và nhà vua Friedrich II Đại Đế đã giao phó cho ông trọng trách ngoại giao.[8] "Liên minh các Vương hầu" không phải là một quốc gia Liên bang, mà là một Liên minh giữa các quốc gia nhằm chống lại tham vọng dữ dằn của Hoàng đế Joseph II. Theo Norwood Young trong cuốn tiểu sử vua Friedrich II Đại Đế vốn mang nội dung bỉ bác ông, Liên minh này không mang lại ý nghĩa gì trong thời gian đó, nhưng được đời sau ghi nhớ tới.[52] Tuy nhiên, theo nhà sử học Thomas Carlyle trong bộ truyện về vua Friedrich II Đại Đế (Carlyle vốn là một người có am hiểu thấu đáo hơn về ý nghĩa của "Liên minh các Vương hầu"), Liên minh này là một ý tưởng độc đáo.[11]
Chỉ vì lòng yêu Tổ quốc, chỉ vì nghĩa vụ của một công dân tốt mà Trẩm mới làm việc này dù rằng Trẫm đã già.
—Friedrich Đại Đế
Nhà vua nước Phổ viết như vậy. Với "Liên minh các Vương hầu" này, ông đã thực hiện được những gì ông mơ ước từ thời bé, mà thành công này còn huy hoàng hơn cả việc thực hiện ước mơ của một vị vua khai quốc. Ông không còn là vị vua trị vì dưới cái bóng của Hoàng đế La Mã Thần thánh như trong hai cuộc chiến tranh Silesia (1740 - 1745) nữa (hồi đó ông liên minh với Hoàng đế Karl VII); mà giờ đây, với tư cách là vị quan thầy của dân tộc Đức, ông vinh hiển xưng hùng xưng bá với cả thế giới.[55] Một lần nữa, Hoàng đế Joseph II lại không thực hiện được tham vọng bá chủ của mình.[56] Cả Áo lẫn Nga đều phải hoàn toàn từ bỏ ý định của họ.[1] Điều này còn là dấu hiệu báo trước về một nước Đức thống nhất và dự báo ngày tàn của Đế quốc La Mã Thần thánh do Áo đứng đầu.[57]
Ngay từ khi Liên minh mới được thành lập, nhiều lãnh chúa ở Đức đã tin rằng sự thống nhất sẽ đến với họ. Việc nước Áo phải phá sản âm mưu chiếm đóng xứ Bayern đã làm cho các cường quốc láng giềng - vốn luôn lợi dụng sự yếu kém của dân tộc Đức để nhảy vô xâm lược - đều hết sức lo sợ.[55] Do đó, Nga và Pháp phản đối, vì Nga muốn giành lấy lợi nhuận qua việc liên minh với Áo, nên dĩ nhiên họ không thể chấp nhận việc Liên minh này làm cho đồng minh của họ bị yếu đi. Tuy nhiên, mọi nước phản đối đều không làm được trò trống gì đối với "Liên minh các Vương hầu"[8]. Được xem là người chiến binh xuất sắc nhất thời ấy, Quận công xứ Brunswick-Wolfenbüttel là Charles William Ferdinand trở thành Tổng tư lệnh của Quân đội "Liên minh các Vương hầu".[58]
"Liên minh các Vương hầu" không những đánh một đòn đau vào danh tiếng của vị Hoàng đế tài năng Joseph II,[59] mà cũng là hành động công khai[60], cống hiến cuối cùng của nhà vua nước Phổ đối với nền chính trị châu Âu và cả thế giới, đỉnh cao của những chiến thắng mà ông đạt được trong suốt cuộc đời ông, là một chiến thắng lừng lẫy đưa Vương quốc Phổ thoát khỏi sự đe dọa nguy hiểm nhất trong lúc đó.[50][61][62] Là minh chủ của "Liên minh các Vương hầu", đây là lần đầu tiên nước Phổ hòng thống nhất các vua chư hầu người Đức thành một Đế chế Đức do Quốc vương nước Phổ thống trị.[2] Qua việc thành lập liên minh này, vị minh chủ "Liên minh các Vương hầu" đã công khai cố gắng thống trị nước Đức,[11] một lần nữa thể hiện địa vị liệt cường của nước Phổ, và đẩy lùi ảnh hưởng của Đế quốc Nga và nước Pháp ra khỏi Đế chế Đức.[16] "Liên minh các Vương hầu" còn ảnh hưởng lớn đến việc sáng tác "Huyền thoại Friedrich" của phong trào dân tộc chủ nghĩa Đức - một huyền thoại có nội dung khác hẳn với sự thật về những chính sách của ông.[63]
Phá bỏ tham vọng của nước Áo, "Liên minh các Vương hầu" đã mở đường cho Đế chế Đức thống nhất 85 năm sau đó, và cũng mở đường cho sự thành lập một nhà nước Cộng hòa Đại Đức sau này.[11] Một năm sau thắng lợi,[4] thiên tài quân sự - minh quân độc đoán - "Nhà ẩn dật trong Khu vườn Sanssouci"[16] Friedrich II Đại Đế ngã bệnh qua đời vào năm 1786 sau một thời gian làm việc siêng năng,[64][65] để lại một nước Phổ hùng mạnh, sánh vai với Áo trong việc thống trị vùng Trung Âu. Trong suốt đời, ông luôn thể hiện là "một thiên tài đích thực xuất sắc nhất đã lên kế vị ngai vàng vào thời kỳ cận đại" - theo nhận định của nhà sử học người Anh là John Dalberg-Acton, Nam tước Acton thứ nhất (Huân tước Acton).[17][66] Nước Phổ giờ đây đứng ngang hàng với mọi liệt cường Âu châu, chứ không còn là liệt cường yếu nhất châu lục này như hồi ông mới lên chính vị hiệu.[67] Thành công của "Liên minh các Vương hầu", tức Furstenbund chống lại dự định của Áo và Nga, là thắng lợi cuối cùng của ông (1785).[9][68] Do xứ Hanover do vua Anh thống trị vào lúc ấy, việc xứ này tham gia "Liên minh các Vương hầu" cho thấy một sự kiện quan trọng: trước khi nước Phổ thắng trận trong bảy năm chinh chiến,[33] Anh Quốc xé bỏ liên minh với nước Phổ vào năm 1762 giữa lúc cuộc Chiến tranh Bảy năm vẫn còn khốc liệt, dẫn đến sự giận dữ của vua Friedrich II Đại Đế.[69][70] Giờ đây, nước Phổ đã hòa giải với Anh Quốc, điều này làm tổn hại nghiêm trọng đến quyền lợi của Pháp, dù nước này không tham gia dự định chiếm đóng xứ Bayern: cụ thể hơn, trước khi Liên minh ra đời, sự quan tâm của vua Pháp vào vấn đề Bayern chỉ phục thuộc vào vua Phổ.[59][71] Việc ông thiết lập "Liên minh các Vương hầu", cũng với một loạt sự kiện khác ở Trung ÂuĐông Âu vào các thập niên 1770 - 1780, đã cho thấy nước Pháp ngày càng trở nên bất lực.[72] Phong trào Cách mạng Pháp nổ ra vào năm 1789, và vua Louis XVI bị xử tử, chấm dứt chế độ quân chủ của Vương triều Bourbon.[73][74]
Liên minh các Vương hầu của vua Friedrich để mang lại liên minh cho Triều đình Phổ, khi họ không thể tìm được liên minh ở bất kỳ nơi nào khác tại châu Âu - một tình trạng sẽ còn lặp đi lặp lại trong lịch sử nước Đức sau này. Liên minh được thiết lập để duy trì thể trạng vốn có của đất Đức, và làm cho uy thế của Đế quốc La Mã Thần thánh đang gia tăng thì bị thụt lùi. Vào năm 1790, Triều đình Phổ thay đổi chính sách, làm cho Liên minh vô nghĩa. Nhưng ngay cả nếu Liên minh có tồn tại được thêm vài năm nữa cũng sẽ không làm cho nước Đức được trung hưng. Nó không hề nổi bật trong lịch sử phát triển của dân tộc Đức; và ngay cả đối với lịch sử nước Phổ, việc thành lập Liên minh cũng đáng để được thể hiện là biểu hiện của nước Phổ ttrong vị thế chính trị nhất thời không thuận lợi, không phải để biểu thị sức mạnh chính trị. Tuy nhiên, Liên minh đã giành được một thắng lợi chiến thuật lớn lao vì đã làm cho Hoàng đế La Mã Thần thánh phải xóa bỏ những kế hoạch của ông ta. Và nó biểu dương sự sáng suốt chính trị vô bờ vô bến của vị anh hùng của chúng ta - mà giúp ông bày ra những mưu mẹo mới và gây bất ngờ, giúp ông thoát khỏi tình thế khó khăn.
—Gerhard Ritter[75]
Nhà sử học quân sự người Anh là Christopher Duffy (thế kỷ XX), trong tác phẩm "Frederick the Great: A Military Life" được đánh giá rất cao, cho rằng "Liên minh các Vương hầu" của ông không phải là tiền thân của một nước Đức thống nhất, ông làm liên minh trở nên có hiệu lực thông qua việc Pháp không tham gia dự định chiếm đóng xứ Bayern và hoàn toàn mang lại quyền lợi cho Vương quốc Phổ; nhưng "Liên minh các Vương hầu" khẳng định rằng, trong những ngày cuối đời của ông, ông trầm mình trong ánh hoàng hôn rực rỡ của cuộc đời của một vị anh hùng dân tộc Đại Đức.[43] Nhà sử học vĩ đại người ĐứcGerhard Ritter (cũng thế kỷ XX), trong tuyệt tác "Frederick the Great: a historical profile" được đánh giá rất cao của ông (và cũng được nhà sử học quân sự người Mỹ là Peter Paret ca ngợi và dịch sang tiếng Anh), đã ghi nhận rằng việc thiết lập "Liên minh các Vương hầu" (1785) có mang lại một ý nghĩa nổi bật: vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế của nước Phổ - một kẻ hủy diệt hùng cường của Đế quốc La Mã Thần thánh - đảm nhận vai trò là vị quan thầy hùng mạnh của những truyền thống dân tộc Đức trong những ngày cuối đời của ông. Cũng theo Gerhard Ritter, việc tái xây dựng một Đế chế Đức do người Phổ thống trị sẽ là mục tiêu đáng khát khao của nước Đức mãi về sau này. Nhưng trên thực chất thì khác: chỉ có nỗi lo sợ đối với người Áo đã đưa các Vương hầu người Đức về với cánh đại bàng Phổ - họ tham gia liên minh vì chủ nghĩa phân lập chứ không phải là vì chủ nghĩa dân tộc. Và, Gerhard Ritter cũng cho rằng nước Phổ cũng chỉ thành lập Liên minh để thực hiện được những mục tiêu riêng của họ.[75]
Đương thời với việc thiết lập Liên minh, tuy các cường quốc láng giềng như Nga, Pháp đều lo lắng và sợ sệt, thì triều đình Torino - vốn ngưỡng mộ vị vua Phổ vĩ đại[76] - coi Liên minh này là vị "Thần hộ mệnh của các quốc gia Ý" (lúc bấy giờ nước Ý hãy còn chưa hợp nhất thành một quốc gia).[55] Theo nhà sử học người Anh là Đại tá Charles Booth Brackenbury trong tác phẩm "Frederick the Great" được đánh giá rất cao của ông[77][78], nếu liên minh này được thiết lập vài năm trước đó, Triều đại vua Phổ sẽ chiếm ngôi Hoàng đế Đức của Áo trong đúng thế kỷ XVIII.[4]
Theo nhà sử học vĩ đại người Đức là Heinrich von Sybel, trong công trình nghiên cứu "The founding of the German empire by William I.: Based chiefly upon Prussian state documents", thì vua Friedrich II Đại Đế không có chủ ý muốn lập ra một quốc gia mới thông qua việc thiết lập "Liên minh các Vương hầu" này, nhưng rõ ràng, Liên minh đã làm cho cơ cấu Đế quốc La Mã Thần thánh suy vong, mang lại lợi thế cho nước Phổ.[53] Còn tác gỉa Friedrich Kohlrausch trong tác phẩm A history of Germany: from the earliest period to the present time, thì cho hay, thất bại này đã dạy cho Hoàng gia Áo về trách nhiệm của họ đối với các quốc gia châu Âu lúc ấy, họ phải lo mà bảo vệ nguyên trạng của họ, chống lại tinh thần chinh phạt, v.v... nếu không họ nhất định sẽ suy yếu. Nhưng do vị vua anh hùng này mất vào năm sau (1786) nên Liên minh cũng không làm gì được thêm.[54][79]

"Liên minh các Vương hầu" trong thi ca

Nhà thơ C. F. D. Schubart
Việc thiết lập "Liên minh các Vương hầu" đã ảnh hưởng không nhỏ tới đại thi hào Johann Wolfgang von Goethe (1749 - 1832) khi ông ở xứ Saxe-Weimar, và chính ông cũng từng gọi vua Friedrich II Đại Đế là "một ngôi sao Bắc Đẩu... mà cả dân tộc Đức, cả châu Âu, thậm chí cả thế giới đang hướng về".[64] Nhà thơ người Đức là Christian Friedrich Daniel Schubart (1739 - 1791) vốn luôn ngưỡng mộ ông, vì ông đã đánh tan tác một liên quân hùng mạnh vào những năm tháng chiến tranh, phá vỡ thế bá chủ của nước Pháp ở châu Âu, cùng nhiều công trạng đối nội. Khi Quốc vương nước Phổ thiết lập "Liên minh các Vương hầu" (1785), nhà thơ Schubart có viết:[80]
Các Vương hầu người Teuton lên đường
Đến kinh thành kiên cố của Quốc vương Friedrich
Trong thành, vị vua xuất chúng hơn người
Đang nằm ngẫm nghĩ trên chiếc dường sắt
Họ cầu cứu Ngài, tôn vinh Ngài là
Vị vua bảo vệ quyền lợi cũ của họ, và kêu:
"Friedrich Hermann, xin Người làm minh chủ chúng con!"
Ngài liền nghe theo, và sáng lập Liên minh của người Đức
—Christian Friedrich Daniel Schubart
(Lưu ý: Trong các bài thơ ca tụng Quốc vương Friedrich II Đại Đế, nhà thơ Christian Friedrich Daniel Schubart thường ví von ông với những người anh hùng của dân tộc Teuton như Hermann hay Wotan. Bài thơ trên được tạm dịch từ bản tiếng Anh trong sách The Culture of Power and the Power of Culture: Old Regime Europe 1660-1789, trang 231.)
Từ lâu vùng Bắc Đức không được bảo vệ, mà nay Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã bảo vệ thành công vang dội qua một loạt công trạng hiển hách của ông.[81] Với một sự nghiệp lẫy lừng, ông đã trở thành một vị anh hùng của toàn dân Đức, thu hút các nhà văn, họa sĩ. Vào năm 1857, một họa sĩ người Đức nổi tiếng là Adolf Menzel có vẽ tranh về cuộc gặp gỡ giữa ông và vua Joseph II (hai vị vua này từng gặp gỡ nhau trước cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern và Liên minh các Vương hầu).[82]

Chú thích

  1. ^ a ă â b c d đ e Sir Daniel Keyte Sandford, Thomas Thomson, Allan Cunningham, The popular encyclopedia: being a general dictionary of arts, sciences, literature, biography, history, and political economy, reprinted from the American edition of the 'Conversations lexicon'... with dissertations on the rise and progress of literature, trang 391
  2. ^ a ă Antti P. Balk, Saints & Sinners: An Account of Western Civilization, Thelema Publications, 2008, trang 661
  3. ^ a ă George Agar-Ellis Dover (1st baron), The life of Frederic the Second, king of Prussia, Tập 2, trang 436
  4. ^ a ă â b C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, các trang 257
  5. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 285
  6. ^ Peter N. Stearns, The Encyclopedia of world history: ancient, medieval, and modern, chronologically arranged, trang 339
  7. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang XII
  8. ^ a ă â b c Sir Richard Lodge, A History of Modern Europe from the Capture of Constantinople, 1453, to the Treaty of Berlin, 1878, trang 394
  9. ^ a ă William Edward Hartpole Lecky, A History of England in the Eighteenth Century, trang 363
  10. ^ English Goethe Society, Publications of the English Goethe Society, trang 6
  11. ^ a ă â b Charles Sumner Lobingier, Ancient and Accepted Scottish Rite of Freemasonry, trang 87
  12. ^ Grolier Incorporated, The encyclopedia Americana, Tập 12, trang 655
  13. ^ Jared Sparks, The Diplomatic Correspondence of the American Revolution, Volume 1, trang 86
  14. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 217
  15. ^ Edmond Fitzmaurice, Charles William Ferdinand, Duke of Brunswick: An Historical Study, 1735-1806, trang 24
  16. ^ a ă â George Madison Priest, Germany Since 1740, trang 34
  17. ^ a ă â Gregorio F. Zaide, World history, trang 273
  18. ^ Ephraim Lipson, Europe in the XIXth & XXth centuries, 1815-1939, Allied Publishers, 1960, trang 61
  19. ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 258
  20. ^ a ă Mục từ Joseph theo "1911 Encyclopædia Britannica".
  21. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 187
  22. ^ Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, Baron Von Steuben: American General, trang 8
  23. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 188
  24. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 191
  25. ^ Heinrich von Sybel, The founding of the German empire by William I.: Based chiefly upon Prussian state documents, Tập 1, trang 23
  26. ^ a ă C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 252
  27. ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 46
  28. ^ Daniel S. Burt, The biography book: a reader's guide to nonfiction, fictional, and film biographies of more than 500 of the most fascinating individuals of all time, trang 146
  29. ^ Gregory Fremont-Barnes, The French revolutionary wars, trang 12
  30. ^ Stacy Bergstrom Haldi, Why wars widen: a theory of predation and balancing, các trang 31-31, trang 38.
  31. ^ Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, Baron Von Steuben: American General, trang 13
  32. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 127
  33. ^ a ă Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 242
  34. ^ Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, Baron Von Steuben: American General, trang 14
  35. ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 247
  36. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 185
  37. ^ John Smith (géographe), A system of modern geography: or, the natural and political history of the present state of the world, Volume 2, trang 728
  38. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 197
  39. ^ David Williams, Simplified Astronomy for Astrologers, trang 49
  40. ^ Henry Smith Williams, The historians' history of the world: a comprehensive narrative of the rise and development of nations from the earliest times, Tập 15-16, trang 98
  41. ^ Robert Cowley, Geoffrey Parker, The Reader's Companion to Military History, trang 171
  42. ^ a ă â b Avner Falk, Napoleon against himself: a psychobiography, trang 68
  43. ^ a ă â b c Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 279
  44. ^ a ă C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 255
  45. ^ Baron Thomas Babington Macaulay Macaulay, Life of Frederick the Great, trang 266
  46. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 206
  47. ^ a ă â Thẩm Kiên, 10 đại hoàng đế thế giới, trang 269
  48. ^ a ă Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 169
  49. ^ a ă Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 215
  50. ^ a ă â b c W. F. Reddaway, "Frederick the Great and the Rise of Prussia", các trang 148-153, trang 274, trang 288, trang 336, trang 344.
  51. ^ a ă Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 198
  52. ^ a ă Norwood Young, The Life of Frederick the Great, trang 411
  53. ^ a ă Heinrich von Sybel, The founding of the German empire by William I.: Based chiefly upon Prussian state documents, Tập 1, trang 24
  54. ^ a ă Baron Thomas Babington Macaulay Macaulay, Life of Frederick the Great, trang 270
  55. ^ a ă â Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 170
  56. ^ Henry Wheaton, "History of the law of nations in Europe and America: from the earliest times to the Treaty of Washington, 1842", Gould, Banks, 1845, trang 281-282. Theo sách này thì Chiến tranh Kế vị Bayern là một bloodless war
  57. ^ Thẩm Kiên, trang 270
  58. ^ University of Chicago, Encyclopædia britannica: a new survey of universal knowledge, Tập 4, trang 288
  59. ^ a ă A. Goodwin, American and French revolutions, trang 274
  60. ^ Baron Thomas Babington Macaulay Macaulay, Life of Frederick the Great, trang 271
  61. ^ Arthur B. Gunlicks, "The Länder and German federalism", Manchester University Press, 2003, trang 16
  62. ^ Thomas Carlyle, History of Friedrich the Second called Frederick the Great, Tập 6, trang 189, trang 294: "Catin du Nord", trang 495: this is the victory summit of Friedrich's Public History... Friedrich's last feat in the world.....
  63. ^ Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 180
  64. ^ a ă Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 201
  65. ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 261
  66. ^ Charles Downer Hazen, Modern European History, trang 13
  67. ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 23
  68. ^ G. W. Prothero, Stanley Leathes, Sir Adolphus William Ward, John Emerich Edward Dalberg-Acton Acton (Baron.), Stanley Leathes, G. W. (George Walter) Prothero, Sir Adolphus William Ward, Stanley Leathes, G. W. (George Walter) Prothero, Sir Adolphus William Ward, John Emerich Edward Dalberg-Acton Acton (Baron.), the cambridge modern history, các trang 282-283.
  69. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 226
  70. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 186
  71. ^ Henri Martin, The decline of the French monarchy, Tập 2, trang 505
  72. ^ Colin Lucas, Rewriting the French Revolution, trang 185
  73. ^ Colin Lucas, Rewriting the French Revolution, trang 119
  74. ^ Colin Lucas, Rewriting the French Revolution, trang 202
  75. ^ a ă Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 199
  76. ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 182
  77. ^ Sir Henry Montague Hozier, Turenne, trang 200
  78. ^ George Bruce Malleson, Ambushes and surprises: being a description of some of the most famous instances of the leading into ambush and the surprise of armies, from the time of Hannibal to the period of the Indian mutiny..., trang 275
  79. ^ Friedrich Kohlrausch, A history of Germany: from the earliest period to the present time, trang 612
  80. ^ T. C. W. Blanning, The Culture of Power and the Power of Culture: Old Regime Europe 1660-1789, các trang 230-231.
  81. ^ Heinrich von Sybel, The founding of the German empire by William I.: Based chiefly upon Prussian state documents, Tập 1, trang 25
  82. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 283




Cộng đồng Than Thép châu Âu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng đồng Than Thép châu Âu
Tổ chức Quốc tế

1952–2002¹ Flag of Europe.svg
Flag of Cộng đồng Than Thép
Flag
Location of Cộng đồng Than Thép
Các thành viên sáng lập của ECSC: Bỉ, Pháp,
Ý, Luxembourg, Hà LanTây Đức
(Algérie là một phần của Cộng hòa Pháp)
Capital không áp dụng
Language(s)
Political structure Tổ chức Quốc tế
Chủ tịch Cao ủy
 - 1952-1955 Jean Monnet
 - 1955-1958 René Mayer
 - 1958-1959 Paul Finet
 - 1959-1963 Piero Malvestiti
 - 1963-1967 Rinaldo Del Bo
Historical era Chiến tranh Lạnh
 - Ký kết 18 tháng 4 năm 1951
 - Có hiệu lực 23 tháng 7, 1952
 - Hợp nhất 1 tháng 7 năm 1967
 - Kết thúc 23 tháng 7, 2002¹
Cờ của Cộng đồng Than Thép
Cộng đồng Than Thép châu Âu (European Coal and Steel Community hay viết tắt là ECSC) là một tổ chức hợp tác kinh tế giữa các nước Pháp, Tây Đức, Ý, Bỉ, LuxembourgHà Lan được thành lập năm 1952 theo Hiệp ước Paris 1951 nhằm phối hợp quản lý giá cả, sản xuất và điều kiện lao động liên quan đến các tài nguyên thanthép là những đầu vào thiết yếu cho sản xuất quân nhu- những yếu tố góp phần gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới.
Đây là sự thực hiện một kế hoạch được phát triển bởi kinh tế gia Pháp Jean Monnet và được công bố bởi ngoại trưởng Pháp Robert Schuman từ năm 1950. Hoa Kỳ cũng ủng hộ mạnh mẻ cho sự thiết lập cộng đồng này.

Lịch sử

Hiệp ước Paris có hiệu lực vào ngày 23 tháng 7 năm 1952, và không như hiệp ước thiết lập Cộng đồng châu Âu, nó chỉ có thời hạn kéo dài 50 năm mà thôi và ngưng tồn tại vào ngày 23 tháng 7 năm 2002. Trách nhiệm cũng như tài sản của nó được Cộng đồng châu Âu đảm trách (trừ quỹ nghiên cứu, xem phía dưới).
Thép đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất vũ khí trong Đệ nhị Thế chiến và là một nguồn tài nguyên cơ bản của các quốc gia tây Âu. Mục đích chính vì vậy là một chương trình chung sản xuất và tiêu thụ than và thép sau chiến tranh. Chương trình này cũng có ý định là cho thấy sự hợp tác và hòa giải giữa Pháp và Đức vì hậu quả của chiến tranh. Có một sự mong mỏi liên kết các quốc gia lại bằng cách kiểm soát than và thép là hai thứ cơ bản dùng trong công nghệ chiến tranh.
Cộng đồng Than Thép châu Âu giới thiệu một thị trường than và thép chung tự do, với giá cả thị trường được ấn định tự do, và không có thuế xuất nhập khẩu và trợ giá. Tuy nhiên, một thời kỳ chuyển tiếp cho phép các nền kinh tế khác đạt đến tình trạng như vậy trong khoảng hơn một năm.
Thành viên của Cộng đồng Than Thép châu Âu
Một Thẩm quyền Cao cấp của Cộng đồng Than Thép châu Âu, bao gồm 9 thành viên, có văn phòng ở Luxembourg cho đến năm 1967. Ban đầu thẩm quyền này được lãnh đạo bởi nhà chủ trương chế độ liên bang cho châu Âu nổi tiếng người Pháp là Jean Monnet. Ông hy vọng rằng các cơ quan châu Âu như Cộng đồng Than Thép châu Âu sẽ dần dần thiết lập nên những tổ chức cao hơn quốc gia, trên chủ quyền của các quốc gia châu Âu cá biệt. Vào năm 1967, Thẩm quyền Cao cấp tham gia vào ủy ban của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (European Economic Community) và Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử châu Âu (European Atomic Energy Community) để thiết lập một ủy ban duy nhất đa mục đích. Cộng đồng Than Thép châu Âu cũng gồm có một hội đồng bộ trưởng, một đại hội đồng, và một tòa án phân xử.
Cộng đồng Than Thép châu Âu phục vụ như một nền tảng cho sự thiết lập Cộng đồng Kinh tế châu Âu sau này (sau đó được đổi tên thành Cộng đồng châu Âu qua Hiệp ước Maastricht), và rồi Liên hiệp châu Âu.
Không phải tất cả các hoạt động của Cộng đồng Than Thép châu Âu ngưng lại sau tháng 7 năm 2002. Quỹ Nghiên cứu về Than và Thép (Research Fund for Coal and Steel) tiếp tục tồn tại vì quỹ của nó được trích ra từ công nghiệp và không thể giao lại cho các quốc gia thành viên. Quỹ Nghiên cứu về Than và Thép được tài trợ bởi số vốn đầu tư là €1.6 tỉ, mà ban đầu được đánh thuế vào các công nghiệp than và thép châu Âu để tài trợ đào tạo, nghiên cứu và cải tổ. Việc đầu tư này cung ứng quỹ định kỳ khoảng €55-60 triệu một năm. Quỹ Nghiên cứu về Than và Thép và cách phân phát nó được điều hành bởi Đơn vị 5 thuộc Ban Giám đốc G thuộc Trung tâm Nghiên cứu DG. Sự triển khai Quỹ Nghiên cứu về Than và Thép được Ủy ban Than và Thép (Coal & Steel Committee) trông coi và thành viên của Ủy ban là các đại diện quốc gia. Theo quyết định của Hội đồng thì quỹ định kỳ được phân chia theo tỉ lệ 27.2% cho nghiên cứu về than và 72.8% cho thép.

Bối cảnh chính trị

Sau Đệ nhị Thế chiến dưới Kế hoạch Monnet, nước Pháp - có ý muốn chắc rằng Đức sẽ không bao giờ có sức mạnh để đe dọa họ - đã mưu toan giành kiểm soát kinh tế các khu vực công nghệ còn lại của Đức mà có nhiều trữ lượng khoáng sản và than lớn; Rhineland, vùng Ruhrvùng Saar (Trung tâm khai khoáng và công nghệ lớn thứ hai của Đức là Thượng Silesia đã bị Đồng Minh giao cho Ba Lan chiếm giữ trong Hội nghị Potsdam và dân số Đức bị cưỡng bách ra đi) (xem thêm:lời đề nghị của Pháp liên quan đến sự tháo vỡ các vùng công nghiệp của Đức ngày 8 tháng 9 năm 1945). Mưu tính của Pháp giành quyền kiểm soát chính trị hoặc quốc tế hóa vĩnh viễn vùng Ruhr bị bải bỏ vào năm 1951 với việc Tây Đức đồng ý gọp chung nguồn tài nguyên than và thép để đổi lấy việc kiểm soát chính trị hoàn toàn vùng Ruhr. Pháp hài lòng với việc an ninh kinh tế của mình được bảo đảm qua việc tiếp cận với nguồn than ở vùng Ruhr. Mưu toan của Pháp giành quyền kiểm soát kinh tế trên vùng Saar tạm thời càng thành công hơn.
Trong một bài diễn văn có tựa đề Trình bài lại Chính sách đối với nước Đức, được tổ chức tại Stuttgart vào ngày 6 tháng 9 năm 1946, Ngoại trưởng Hoa Kỳ James F. Byrnes nói về động thái của Hoa Kỳ trong việc tách lìa vùng Saar khỏi Đức khi "Hoa Kỳ không cảm nhận rằng có thể từ chối với Pháp, nước đã từng bị Đức xâm lược 3 lần trong 70 năm, quyền tuyên bố chủ quyền đối với lãnh thổ Saar." Vùng Saar bị đặt dưới quyền quản trị của Pháp vào năm 1947 như là vùng đất bảo hộ, nhưng sau đó theo một cuộc trưng cầu dân ý đã được trở về với Đức vào tháng 1 năm 1957 và hội nhập với kinh tế Đức xảy ra ít năm sau đó.
Từ năm 1945 đến 1951 một chính sách giải giới trong công nghệ đã được ấn định tại Hội nghị Potsdam, được Đồng Minh theo đuổi tại Tây Đức. Như một phần của chính sách này, hạn chế được áp đặt trên mức sản xuất cho phép, và công nghệ nặng. Chủ yếu là các nhà máy thép và nhà máy sản xuất máy móc có thể góp phần vào tiềm năng kinh tế và chiến tranh bị tháo dở. Mặt dù không phải là một tham dự viên tại Hội nghị Potsdam nhưng với tư cách là thành viên của Hội đồng Kiểm soát của Đồng minh, Pháp trở thành tiên phong trong chính sách này vì họ muốn chắc chắn một nước Đức suy yếu. (xem thêm lá thư năm 1954 của Ngoại trưởng Vương quốc Anh Ernest Bevin gởi Ngoại trưởng Pháp Robert Schuman, thúc đẩy một cứu xét lại về chính sách tháo dở).
Xét thấy những mối quan tâm gia tăng bởi Tướng Lucius D. ClayTổng Tham mưu trưởng trước ảnh hưởng cộng sản tại Đức cũng như sự thất bại của các nền kinh tế còn lại của châu Âu cố khôi phục lại nhưng không có cơ sở công nghệ của Đức mà nó từng lệ thuộc trước đây nên vào mùa hè năm 1947 Bộ trưởng Ngoại giao Tướng George Marshall nêu "lý do an ninh quốc gia" cuối cùng đã có thể thuyết phục được Tổng thống Harry S. Truman tháo bỏ chỉ thị chiếm đóng trừng phạt của Hoa Kỳ JCS 1067 và thay thế bằng chỉ thị JCS 1779.[1] JCS 1067 đã chỉ thị lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ tại Đức "...không triển khai các bước hướng tới việc phục hồi kinh tế của Đức" được thay thế bởi JCS 1779 nhấn mạnh rằng "Một châu Âu thịnh vượng và trật tự cần sự đóng góp của một nước Đức sản xuất và ổn định." [2] Trong lúc đó, Hoa Kỳ cũng đi đến kết luận rằng Tây Đức cần được tái vũ trang một cách cẩn thận như là một nguồn lực trong chiến tranh lạnh. Ngày 31 tháng 8 năm 1954, Quốc hội Pháp đã bỏ phiếu hủy bỏ hiệp ước thành lập Cộng đồng Phòng thủ châu Âu, một hiệp ước mà chính họ đã đề nghị năm 1950 như là một công cụ kiềm giữ sự trổi dậy của Đức. Hoa Kỳ là nước muốn tái vũ trang Tây Đức rất là giận dữ trước thất bại của hiệp ước, nhưng Pháp nhận thấy rằng liên minh này không còn hứng thú lắm đối với họ.
Thay vào đó Pháp tập trung vào một hiệp ước khác đang trong vòng phát triển. Vào tháng 5 năm 1950, Pháp đề nghị sự liên hiệp Than và Thép, với mục đích bảo đảm an ninh kinh tế của Pháp bằng cách tiếp cận than vùng Ruhr của Đức nhưng lại có thể cho Hoa Kỳ và Vương quốc Anh thấy là Pháp có thể tìm được giải pháp xây dựng cũng như bình định Đức bằng cách biến Đức thành một phần trong một dự án quốc tế.
Đức dần dần được tái vũ trang nhưng dưới sự kiểm soát của Liên hiệp Tây Âu và sau đó là NATO.

Các chủ tịch của Thẩm quyền Cao cấp

Tổng hành dinh của Thẩm quyền Cao cấp tại Luxembourg
Ban hành pháp gồm 9 thành viên được lãnh đạo bởi 5 Chủ tịch. Ngay trước khi Hiệp ước Sát nhập năm 1967, có một chủ tịch lâm thời.

Thời biểu


Xem thêm

Đọc thêm

  • William I. Hitchcock. "France Restored: Cold War Diplomacy and the Quest for Leadership in Europe, 1944-1954." University of North Carolina Press, 1998. ISBN 0-8078-4747-X.

Tham khảo

Liên kết ngoài


Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính
 
Hoàng Kim
, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con
 

No comments:

Post a Comment