Thursday, June 19, 2014

Chào ngày mới 20 tháng 6



CNM365 Chào ngày mới 20 tháng 6 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Thế giới về người tị nạn, ngày Quốc kỳ tại Argentina, ngày Tây VirginiaNăm 451 – Tướng Flavius Aetius chỉ huy quân Tây La Mã giành chiến thắng quyết định trước quân Hung của Attila trong trận Châlons. Năm 1894 – Tại Hồng Kông, Alexandre Yersin (hình) công bố phát hiện vi khuẩn gây bệnh dịch hạch. Năm 1895 – Hoàng đế Đức Wilhelm II khánh thành kênh đào Kiel băng qua bán đảo Jylland, hiện là thủy đạo nhân tạo bận rộn nhất trên thế giới. Năm 1991 – Quốc hội Liên bang Đức phê chuẩn dời đô từ Bonn về Berlin.

Alexandre Yersin

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Alexandre Yersin
Sinh 22 tháng 9, 1863
Aubonne, Vaud, Thụy Sĩ
Mất 1 tháng 3, 1943 (79 tuổi)
Nha Trang, Việt Nam
Quốc tịch Pháp-Thụy Sĩ
Ngành vi khuẩn học
Nơi công tác École Normale Supérieure
Nổi tiếng vì Yersinia pestis,
Tìm ra Cao nguyên Lâm Viên
Alexandre Émile Jean Yersin (22 tháng 9 năm 1863 tại Aubonne, Tổng Vaud, Thụy Sĩ - 1 tháng 3, 1943 tại Nha Trang, Việt Nam) là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, và nhà thám hiểm người Pháp.
Yersin đã tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch, sau này được đặt theo tên ông (Yersinia pestis).

Thiếu thời

Yersin là con út trong gia đình có ba người con. Họ là thành viên Giáo hội Tin Lành Cải cách bang Vaud (L'Église évangélique réformée du canton de Vaud). Mẹ ông là hậu duệ của những người HuguenotCévennes phải đào thoát khỏi nước Pháp để tránh bị bức hại tôn giáo sau khi Louis XIV ra Chỉ dụ Fontainbleau năm 1685 thu hồi Chỉ dụ Nantes do Henri IV ban hành năm 1598. Lúc ấy bang Vaud còn thuộc lãnh thổ Savoie, sau giành được độc lập ngày 24 tháng 1 năm 1798 và gia nhập Thụy Sĩ ngày 14 tháng 4 năm 1803.
Thân phụ ông, giáo viên môn khoa học tự nhiên tại những trường trung học ở Aubonne và Morges, qua đời chỉ ba tuần lễ trước khi Yersin chào đời.[1] Mẹ ông một mình nuôi ba con (Emily, Franck, và Alexandre), dời đến sinh sống ở Morges.
Từ năm 1883 đến 1884, Yersin theo học y khoa tại Lausanne, Thụy Sĩ; sau đó tại Marburg, Đức, rồi đến Paris, Pháp (1884-1886). Năm 1886, ông gia nhập viện nghiên cứu của Louis Pasteur tại Trường Sư phạm Paris (École Normale Supérieure) do lời mời của Émile Roux, và đã tham gia việc phát triển huyết thanh ngừa bệnh dại. Năm 1888 ông nhận bằng tiến sĩ với luận án Étude sur le Développement du Tubercule Expérimental (Nghiên cứu về sự phát triển của bệnh lao bằng thực nghiệm) và cộng tác với Robert Koch trong hai tháng tại Đức. Ông gia nhập Viện Pasteur ở Paris mới được thành lập vào năm 1889 làm người cộng tác với Roux và hai người đã cùng khám phá ra độc tố bạch hầu (do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae tạo ra).

Đến Đông Dương

Để hành nghề y tại Pháp, Yersin đã xin lại và nhận được quốc tịch Pháp vào năm 1888. Sau đó (1890), ông rời Pháp đến Đông Dương (lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp) để làm bác sĩ trong công ty Messageries Maritimes (Vận tải Hàng hải) trên tuyến đường Sài Gòn-Manila và sau đó tuyến đường Sài Gòn-Hải Phòng. Quyết định của Yersin rời bỏ môi trường học thuật tại Paris để đến một xứ thuộc địa khiến bạn hữu và đồng sự kinh ngạc.[2][3]
Yersin tại Cao nguyên Lâm Viên, năm 1893
Với nhiệm vụ kiểm tra sức khỏe thủy thủ đoàn và cấp giấy chứng nhận y tế, Yersin có nhiều thì giờ nhàn rỗi để học hỏi về hàng hải và hải đồ dưới sự chỉ dẫn của thuyền trưởng. Kiến thức thu lượm được trong những chuyển hải hành giúp ích cho ông trong công cuộc thám hiểm trong nội địa Đông Dương sau này.[4]

Thám hiểm

Năm 1891, Yersin xin thôi việc ở Messageries, quyết định đến sống tại Nha Trang, và bắt đầu thực hiện kế hoạch thám hiểm vùng cao nguyên Trung Việt, khi ấy còn là một vùng đất hoang dã và tiềm ẩn nhiều hiểm nguy. Muốn tìm một con đường bộ vào Sài Gòn, Yersin đi ngựa đến Phan Rí, thuê người dẫn đường vào rừng, ông tìm ra cao nguyên Di Linh,[5] nhưng không thể đi tiếp, phải trở lại Phan Thiết, rồi lấy thuyền về Nha Trang.[1]
Ngày 23 tháng 9 năm 1892, đoàn thám hiểm gồm bảy thành viên dưới sự lãnh đạo của Yersin khởi hành từ Nha Trang ra Ninh Hòa rồi lên Ban Mê Thuột, đến Stung Treng bên bờ sông Mekong, về Phnom Penh rồi theo đường thủy ra Phú Quốc về cảng Sài Gòn. Yersin chụp ảnh, vẽ họa đồ, và khảo sát phong tục tập quán các bộ tộc sinh sống trong vùng ông đi qua.[1]
Tháng 6 năm 1893, với sự ủy thác của Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan, Yersin tổ chức đoàn thám hiểm có bốn người Việt theo đường bộ từ Biên Hòa ra Đồng Nai, lên Di Linh, cuối cùng khám phá Cao nguyên Lâm Viên. Trong nhật ký đề ngày 21 tháng 6 năm 1893, Yersin ghi nhận có vài làng của người sắc tộc D'Lat[6] nằm rải rác trong vùng, "Từ trong rừng thông bước ra tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu giống như mặt biển tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Langbiang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này."[7] Đến năm 1899, tại vùng đất được Yersin khám phá, Toàn quyền Paul Doumer cho thiết lập một khu nghỉ dưỡng cho người Âu châu, sau trở thành Đà Lạt.[1]
Cuối năm 1893 có thêm một cuộc thám hiểm của Yersin, khởi hành từ Biên Hòa lên Đà Lạt, đi tiếp đến cao nguyên Đắk Lắk, vào Attopeu ở nam Lào, rồi đi theo hướng đông ra biển. Yersin đến Đà Nẵng vào ngày 17 tháng 5 năm 1894. Cuộc khảo sát lần thứ ba này thăm dò một vùng đất rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11 ở phía nam đến vĩ tuyến 16 ở phía bắc, và từ sông Mekong ở phía tây đến bờ biển Việt Nam ở phía đông.[7] Trang nhật ký ngày 11 tháng 4 của Yersin ghi, "Đường đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế mãi làm cho chúng tôi rất mệt mỏi. Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều vắt không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt rét mặc dầu đã uống thuốc ngừa..."[1]

Nghiên cứu bệnh dịch hạch

Tượng Alexandre Yersin,
Bảo tàng Y khoa Hồng Kông
Năm 1892, ít lâu sau vụ thám hiểm lần thứ nhất, theo lời khuyên của Albert Calmette, Yersin gia nhập đoàn y sĩ hải ngoại để khỏi phải lo lắng về mặt tài chính.[1] Sau 28 năm phục vụ, năm 1920 ông về hưu với cấp bậc Đại tá Quân y.
Trong khi Yersin đang chuẩn bị cho cuộc thám hiểm thứ tư thì bệnh dịch đã bộc phát ở miền Nam Trung Hoa và lan truyền xuống Đông Dương. Năm 1894, dịch phát mạnh tại Hồng Kông, gây tử vong cao. Nhà cầm quyền thuộc địa cử Yersin đến Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch.[4]
Ngày 15 tháng 6 năm 1894, Yersin đặt chân đến Hồng Kông, ba ngày sau khi Kitasato đến đây cũng để nghiên cứu về bệnh dịch. Với sự hỗ trợ dồi dào từ người Anh, Kitasato lập một phòng thí nghiệm trong bệnh viện Kennedy Town, Yersin được phép đến quan sát nhóm Kitasato làm việc. Năm ngày sau, Yersin quyết định hoạt động độc lập, ông nhờ người mua tử thi để khám nghiệm, và tìm ra nguyên nhân của bệnh này.[4]
Bởi vì những tường trình ban đầu của Kitasato còn mơ hồ và đôi khi có những mâu thuẫn, nhiều người tin rằng Yersin là người duy nhất tìm ra trực khuẩn.[8][9] Tuy nhiên, một cuộc phân tích hình thái học về những gì Kitasato khám phá cho thấy "Kitasato đã khảo nghiệm trực khuẩn gây bệnh ở Hồng Kông vào cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 1894", chỉ một thời gian ngắn sau khi Yersin công bố khám phá của ông (ngày 20 tháng 6). Do đó, "không thể bác bỏ sự đóng góp" của Kitasato.[10] Cũng nên biết rằng, trực khuẩn gây bệnh phát triển tốt hơn trong môi trường nhiệt độ thấp, vì vậy, phòng thí nghiệm được trang bị kém của Yersin lại có lợi thế hơn trong cuộc chạy đua với Kitasato.
Yersin cũng là người lần đầu tiên chứng minh rằng trực khuẩn hiện diện ở chuột bệnh và người bệnh là một, nhờ đó ông đã giải thích được phương thức truyền bệnh. Cũng trong năm ấy, khám phá này được cộng tác viên Émile Duclaux gửi đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trong bài báo nhan đề La Peste Bubonique de Hong-Kong (Bệnh dịch hạch ở Hồng Kông).
Từ năm 1895 đến 1897, Yersin nghiên cứu thêm về bệnh dịch hạch. Năm 1895 ông trở về Viện Pasteur tại Paris và cùng với Émile Roux, Albert CalmetteArmand Borrel đã điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch hạch đầu tiên. Cùng năm đó, ông trở về Đông Dương và lập một phòng thí nghiệm nhỏ tại Nha Trang để sản xuất huyết thanh, (năm 1905 viện này trở thành một chi nhánh của Viện Pasteur). Năm 1896, ông thành lập trại chăn nuôi Suối Dầu, nuôi ngựa để sản xuất huyết thanh. Năm 1896 tại Quảng ChâuMa Cao, và tại Bombay trong năm 1897, Yersin đã thử nghiệm huyết thanh gởi đến từ Paris nhưng huyết thanh không có hiệu quả.

Trường Y khoa Đông Dương

Yersin quyết định ở lại sinh sống tại Việt Nam, đất nước mà ông yêu mến. Năm 1902, Yersin hoạt động tích cực để thành lập École de Médecine de l’Indochine (Trường Y khoa Đông Dương) là tiền thân của Đại học Y Hà Nội, ông được bổ nhiệm làm hiệu trưởng đầu tiên cho đến năm 1904.[11]
Trường khai giảng ngày 1 tháng 3 năm 1902, năm học đầu tiên có 29 sinh viên, 15 người đến từ Bắc Kỳ, 5 từ Trung Kỳ, 8 từ Nam Kỳ, và 1 từ Cao Miên. Tất cả đều được nhận học bổng 8 đồng mỗi tháng.[12] Ông có công di chuyển trường khỏi làng Kinh Lược, cho xây dựng ngôi trường ở phố Bobillot (Lê Thánh Tông ngày nay), và xây dựng bệnh viện thực hành ở phố Lò Đúc.[11]

Nông nghiệp

Nhà riêng của Yersin tại Nha Trang, nay là Nhà nghỉ Bộ Công An.
Yersin cũng tham gia lĩnh vực nông nghiệp, và là người đi đầu trong việc nhập cây cao su từ Brasil vào trồng tại Việt Nam. Vì lý do này ông đã xin phép Toàn quyền thành lập một nông trại ở Suối Dầu. Ông cũng mở một trang trại ở Hòn Bà năm 1915, nơi ông đã gây dựng những đồn điền canh-ki-na đầu tiên ở Việt Nam (nhập từ Nam Mỹ) để sản xuất ký ninh chữa bệnh sốt rét.

Từ trần

Trong thời gian diễn ra Đệ nhị thế chiến, ngày 1 tháng 3 năm 1943, Yersin từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang, ông để lại di chúc, "Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn."[1] Dù vậy, rất đông người tìm đến để đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Di sản

Yersin để lại nhiều ký ức sâu đậm tại Việt Nam, nơi người dân trong vùng gọi ông cách thân mật là Ông Năm, theo cấp bậc Đại tá Quân y (quân hàm có năm gạch ngang).
Năm 1891, khi đặt chân đến Nha Trang, Yersin yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Trong một lá thư gởi Émile Roux, ông viết, "Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm."[13] Ông sống gần gũi với cư dân trong vùng, và tận tụy giúp đỡ những ngư dân nghèo khó trong xóm chài nhỏ bé. Ông sống trong một ngôi nhà cổ ba tầng, trên tầng thượng ông đặt kính thiên văn để quan sát báo bão cho làng chài.[1] Khi có bão, ông gọi dân làng đến trú ngụ ở nhà ông, và cung cấp thực phẩm cho họ.[14] Ông khám bệnh miễn phí cho người nghèo. Ông viết cho mẫu thân, "... không bao giờ con có thể đòi tiền người bệnh cho việc chăm sóc họ. Con coi y khoa như là một chuyên môn và là một mục vụ. Đòi tiền để chăm sóc bệnh nhân chẳng khác nào nói với người đó rằng: tiền hay mạng sống."[7]
Ngoài vi khuẩn Yersinia pestis được đặt tên để vinh danh Yersin, có nhiều địa danh tại Việt Nam được đặt tên theo ông.
Tại Hà Nội[15], Đà Nẵng[16], Nha Trang[15], Đà Lạt[17],Thủ Dầu Một[18] và Thành phố Hồ Chí Minh[19] đều có những con đường được đặt tên để vinh danh Yersin.
Tọa lạc bên trong khuôn viên Viện Pasteur Nha Trang là Bảo tàng Yersin, nơi lưu trữ nhiều kỷ vật của Yersin.[20] Công viên Yersin nằm dọc theo bờ biển Nha Trang, với tượng Yersin cao 4m, là một thắng cảnh của thành phố.[21] Phần mộ của Yersin tại Suối Dầu (cách Nha Trang 20 km) hằng năm có nhiều người đến viếng. Theo tập quán đối với người có công và được nhiều người yêu quí, người dân xây cho ông một miếu thờ.[22] Năm 1990, quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu và thư viện Yersin ở Viện Pasteur Nha Trang được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia; đây được xem là "trường hợp duy nhất nước Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia cho một người nước ngoài".[23] Làng Tân Xương ở Suối Dầu còn thờ cúng ông như một thành hoàng.[24]
Lycée Yersin,
nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt.
Một ngôi trường - khởi công xây dựng năm 1927 và khai giảng năm 1935 - được đặt theo tên Yersin để vinh danh ông. Lycée Yersin (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm) là một kiến trúc đẹp và độc đáo của Đà Lạt.[25][26] Tại thành phố này, cũng mang tên ông còn có Công viên Yersin,[27] và một ngôi trường thành lập năm 2004, Đại học Yersin.
Yersin được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp.
Năm 1934 ông được đề cử làm giám đốc danh dự của Viện Pasteur Paris, và là ủy viên Ban quản trị.
Tác phẩm Peste et choléra (Dịch hạch và thổ tả) của nhà văn Patrick Deville nói về cuộc đời của Yersin đoạt giải Femina năm 2012.[28] Hội Ái mộ Yersin, được thành lập năm 1992 với hơn 700 hội viên, với mục đích hoạt động giúp đỡ người nghèo và trẻ em khuyết tật cũng như truyền bá về thân thế và sự nghiệp của Yersin[29], là tổ chức phi chính phủ duy nhất ở Việt Nam nhận Huân chương Lao động.[30][31]
Ngày 20 tháng 9 năm 2013, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Yersin, Tổng công ty Bưu chính Pháp đã phối hợp với Viện Pasteur Paris, Viện Hàn lâm Khoa học Hải ngoại Pháp và Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp tổ chức lễ phát hành hai mẫu tem chung Việt Nam và Pháp về Alexandre Yersin.[32][33] Bộ Tư pháp Việt Nam cũng đề xuất việc truy tặng danh hiệu Công dân danh dự Việt Nam cho Yersin.[34]

Chuyện bên lề

  • Từ khi sống xa nhà cho đến khi mẹ ông mất năm 1905, Yersin thường xuyên viết thư cho mẹ. Với khoảng 1 000 lá thư, chúng ta biết nhiều chi tiết về cuộc đời cống hiến của ông, cũng có thể nhận thấy nét hóm hỉnh của nhà khoa học trong lá thư ông gởi từ Hồng Kông, "Con còn nhiều điều nữa muốn thưa với mẹ, nhưng có hai xác chết đang chờ con. Họ muốn ra nghĩa địa cho sớm. Tạm biệt mẹ thân yêu. Mẹ rửa tay sau khi đọc thư này kẻo bị lây dịch hạch, mẹ nhé."[1]
  • Tháng 11 năm 1920, khi đáp tàu Paul Lecat đi Marseille, Yersin bị ngăn không được vào phòng ăn trên tàu vì không đeo cà vạt. Ông quay về phòng rồi trở lại, hỏi người phục vụ, "Chiếc cà vạt này cậu có chấp nhận không?", vừa nói vừa chỉ tay vào cổ áo nơi ông đeo tấm huân chương Bắc Đẩu bội tinh.[1]

Chú thích

  1. ^ a ă â b c d đ e ê g Văn Bá. “Bác sĩ Alexandre - Người có công với Việt Nam”. Cỏ Thơm.
  2. ^ BÁC SĨ ALEXANDRE YERSIN NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI VIỆT NAM
    Yersin thường tâm sự, "Tôi luôn luôn mơ ước khám phá nơi nầy nơi nọ và đi thám hiểm. Khi ta còn trẻ không có gì là không thể được."
  3. ^ Alexandre Yersin
    Sau khi Yersin rời Paris, Louis Pasteur viết trong nhật ký vào ngày 21 tháng 10 năm 1890, "Sự thôi thúc đi đến các quốc gia xa xôi thình lình cuốn hút Yersin, và không có cách nào để giữ anh ở lại với chúng ta."
  4. ^ a ă â Nguyễn Văn Tuấn. “Alexandre Yersin và Việt Nam”. YkhoaNet.
  5. ^ Theo dấu Yersin
  6. ^ Nguồn gốc địa danh Đà Lạt. Có ba giả thuyết:
    * Yersin đã chọn cho thành phố xinh đẹp này một câu châm ngôn đầy ý nghĩa như các thành phố châu Âu bằng tiếng La tinh: DAT ALLIS LAETITUM ALLIIS TEMPERRIEM (Cho người này niềm vui, cho người kia sự mát lành). Năm chữ cái đầu tiên của năm từ ghép lại thành DALAT.
    * Năm 1956, khi ký sắc lệnh số 143/NV ngày 20/10/1956 đổi tên các tỉnh miền Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm muốn đổi tên các tỉnh, thành phố có ý nghĩa theo tiếng Hán - Việt. Do vậy, có một nhà nghiên cứu ở miền Nam giải thích: Do phát âm sai nên "Đa" biến thành "Đà", "Lạc" biến thành "Lạt". Thật ra, là "Đa Lạc", theo tiếng Hán - Việt: "Đa" là nhiều, Lạc là niềm vui. "Đa Lạc" nghĩa là "nhiều niềm vui".
    * Đà Lạt có gốc từ "Dà Làc", phát âm theo tiếng dân tộc là "Đaq Lạch". "Đạ" là nước, suối, sông. "Lạch" (Lạt) là tên của một bộ tộc người thiểu số đã chọn khu rừng thưa trên cao nguyên Lang Bian (Lâm Viên) để cư trú.
  7. ^ a ă â “Alexandre Yersin”. Thư viện Tin Lành.
  8. ^ Howard-Jones, Norman (1973). “Was Shibasaburo Kitasato the Co-Discoverer of the Plague Bacilllus?”. Perspectives in Biology and Medicine (Winter): 292–307.
  9. ^ Solomon, Tom (5 tháng 7 năm 1997). “Hong Kong, 1894: the role of James A Lowson in the controversial discovery of the plague bacillus.”. Lancet 350 (9070): 59–62. doi:10.1016/S0140-6736(97)01438-4.
  10. ^ Bibel, DJ; Chen, TH (September năm 1976). “Diagnosis of plaque: an analysis of the Yersin-Kitasato controversy.”. Bacteriological Reviews 40 (3): 633–651, quote p. 646. PMC 413974. PMID 10879. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012.
  11. ^ a ă “Hiệu trưởng tiền nhiệm các thời kỳ”. Trường Đại học Y Hà Nội.
  12. ^ Lịch sử Trường Y khoa Hà Nội
  13. ^ Thăm bảo tàng Alexandre Yersin ở Nha Trang
  14. ^ Alexandre Yersin trong ký ức “người bạn nhỏ thân thiết”
  15. ^ a ă Việt Phong (14 tháng 4 năm 2010). “Nhà bác học Yersin”. Sở khoa học và Xã hội thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  16. ^ Lê Gia Lộc (15 tháng 12 năm 2012). “Hồ sơ tên đường: A. Yersin, người vẽ lại bản đồ y học thế giới”. Báo Đà Nẵng. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2103.
  17. ^ Lâm Viên (13 tháng 7 năm 2013). “Sáu tuyến đường sắt ở Đà Lạt”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  18. ^ “Chùa ở Bình Dương”. ChuaBinhDuong.Com. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  19. ^ “Đường Yersin quá nhếch nhác”. Báo Công An TPHCM. 28 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  20. ^ Bảo tàng Yersin
  21. ^ Thêm một địa điểm gợi nhớ về ông Năm
  22. ^ Viếng mộ bác sĩ Yersin
  23. ^ Anh Hùng (2 tháng 3 năm 2013). “Ở Việt Nam, ông Năm Tây vẫn luôn hiện diện”. Pháp luật Xã hội. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2013.
  24. ^ Nguyễn Đình (19 tháng 4 năm 2011). “Theo ông Năm Yersin lên Suối Dầu”. Sài Gòn Tiếp thị. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  25. ^ LYCÉE YERSIN XƯA- CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NAY
    Ngày 28 tháng 6 năm 1935, trong lễ khai giảng khóa học đầu tiên, Yersin đã phát biểu: "... Các em làm tôi nhớ đến việc phát hiện ra cao nguyên Lang Bian vào tháng 6 năm 1893 trong một cuộc tìm kiếm, nghiên cứu nhằm mục đích khai phá một vùng rừng núi phía Nam Trung phần cho đến lúc đó vẫn chưa ai biết... Các em muốn đặt cho trường trung học đẹp đẽ này cái tên của người sống sót cuối cùng của phòng thí nghiệm Pasteur. Tôi xin cảm ơn các em".
  26. ^ Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
  27. ^ Công viên Yersin Đà Lạt
  28. ^ Trần Huyền Sâm (23 tháng 2 năm 2013). “Alexandre Yersin qua tiểu thuyết Dịch hạch và thổ tả”. Sức khỏe & Đời sống. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  29. ^ Nhân Tâm (15 tháng 3 năm 2013). “Địa chỉ tin cậy của bệnh nhân nghèo”. Báo Khánh Hòa. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2013.
  30. ^ Nguyễn Đình Quân (3 tháng 5 năm 2008). “Hội Ái mộ Yersin nhận Huân chương Lao động hạng Ba”. Tiền phong. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  31. ^ “Tập đoàn Vingroup tài trợ Hội Ái mộ Yersin làm từ thiện”. Quân đội nhân dân. 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  32. ^ Phát hành bộ tem chung Pháp-Việt về Alexandre Yersin
  33. ^ Phát hành đặc biệt bộ tem chung Việt - Pháp Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội
  34. ^ Nguyễn Đình Quân (20 tháng 9 năm 2013). “Truy tặng A. Yersin danh hiệu Công dân danh dự”. Tiền phong. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2013.

Tham khảo

Tiếng Anh

  • Barrett, O. (May năm 1989). “Alexandre Yersin and recollections of Vietnam”. Hosp. Pract. (Off. Ed.) 24 (5A): 13. PMID 2498345.
  • Bendiner, E. (March năm 1989). “Alexandre Yersin: pursuer of plague”. Hosp. Pract. (Off. Ed.) 24 (3A): 121–8, 131–2, 135–8 passim. PMID 2494200.
  • Haubrich, William S. (January năm 2005). “Yersin of Yersinia infection”. Gastroenterology 128 (1): 23. doi:10.1053/j.gastro.2004.11.040. PMID 15633119.
  • Holubar, K. (1999). “Alexandre Yersin (1863-1943) and the centenary of the plague in Nha Trang: A threat transformed”. Dermatology (Basel) 198 (1): 108–9. doi:10.1159/000018052. PMID 10026422.
  • Howard-Jones, N. (April năm 1975). “Kitasato, Yersin, and the plague bacillus”. Clio medica (Amsterdam, Netherlands) 10 (1): 23–7. PMID 54239.
  • Moseley, J. E. (1981). “Travels of Alexandre Yersin: letters of a pastorian in Indochina, 1890-1894”. Perspect. Biol. Med. 24 (4): 607–18. PMID 7027173.
  • Rosenberg, J. C. (February năm 1968). “Doctors afield: Alexandre Yersin”. N. Engl. J. Med. 278 (5): 261–3. doi:10.1056/NEJM196802012780507. PMID 4865333.
  • Solomon, T. (June năm 1995). “Alexandre Yersin and the plague bacillus”. The Journal of tropical medicine and hygiene 98 (3): 209–12. PMID 7783282.

Tiếng Pháp

  • Bernard, L. (May năm 1994). “[Memories of Monsieur Yersin]”. Revue médicale de la Suisse romande 114 (5): 439–44. PMID 8016523.
  • Bonard, E. C. (May năm 1994). “[The plague and Alexander Yersin (1863-1943)]”. Revue médicale de la Suisse romande 114 (5): 389–91. PMID 8016516.
  • Bonard, E. C. (December năm 1972). “[Two letters from Alexandre Yersin]”. Revue médicale de la Suisse romande 92 (12): 995–1000. PMID 4578823.
  • Bonifas, V. (May năm 1984). “[Alexandre Yersin (1863-1943)]”. Revue médicale de la Suisse romande 104 (5): 349–51. PMID 6379813.
  • Brossollet, J. (May năm 1994). “[Correspondence of Alexander Yersin to his family]”. Revue médicale de la Suisse romande 114 (5): 445–50. PMID 8016524.
  • Delaveau, P.; Clair G. (1995). “[Production of cinchona in the French empire: A. Yersin and E. Perrot]”. Revue d'histoire de la pharmacie 42 (304): 75–84. PMID 11640400.
  • Patrick Deville, Peste et choléra, éditions du Seuil, collection « Fiction & Cie », 2012 (ISBN 978-2-02-107720-9).
  • Dreifuss, J.-J. (May năm 1994). “[Discoveries and deceptions: Yersin from Hong Kong to Stockholm]”. Revue médicale de la Suisse romande 114 (5): 425–8. PMID 8016521.
  • Fantini, B. (May năm 1994). “[A young Pasteur scientist with Koch: Yersin, 1888]”. Revue médicale de la Suisse romande 114 (5): 429–37. PMID 8016522.
  • Kupferschmidt, H. (May năm 1994). “[Development of research on plague following the discovery of the bacillus by Alexander Yersin]”. Revue médicale de la Suisse romande 114 (5): 415–23. PMID 8016520.
  • Mafart, Y. (1965). “[Alexandre Yersin (1863-1943)]”. Médecine tropicale: revue du Corps de santé colonial 25 (4): 427–38. PMID 5320482.
  • Pilet, P. E. (May năm 1994). “[Yersin Senior and son. From biology to medicine]”. Revue médicale de la Suisse romande 114 (5): 405–14. PMID 8016519.

Ngôn ngữ khác

  • Bockemühl, J. (April năm 1994). “[100 years after the discovery of the plague-causing agent--importance and veneration of Alexandre Yersin in Vietnam today]”. Immun. Infekt. 22 (2): 72–5. PMID 7959865.
  • Raggenbass, R. (1995). “[Blackwater fever: a French episode drawn from the research of Alexandre Yersin]”. Gesnerus 52 (3-4): 264–89. PMID 8851059.

Liên kết ngoài

Tiếng Việt:
Tiếng Anh
Tiếng Pháp

Berlin

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Berlin
Huy hiệu Vị trí
Huy hiệu Berlin
Berlin ở Đức
Hành chính
Quốc gia Đức
Bang Berlin
Huyện không (Bang tự do)
Thị trưởng Klaus Wowereit
Đảng cầm quyền SPDDie Linke
Số liệu thống kê cơ bản
Diện tích 891,85 km² (344,3 mi²)
Cao độ 34 - 115 m
Dân số  3.468.900  [1]
 - Mật độ 3.890 /km² (10.074 /sq mi)
 - Đô thị 4.429.847 
Các thông tin khác
Múi giờ CET/CEST (UTC+1/+2)
Biển số xe B (for earlier signs see note)[2]
Mã bưu chính 10001–14199
Mã vùng 030
Website berlin.de Tọa độ: 52°30′2″B 13°23′56″Đ
Berlin (Phát âm tiếng Đức: [bɛɐ̯ˈliːn]  (Speaker Icon.svg nghe); hay còn được gọi trong tiếng ViệtBéc-lin hay là Bá Linh) là thủ đô, là một trong 16 tiểu bang của liên bang Đức. Với hơn 3.45 triêu người dân, đây là thành phố lớn nhất trong nước Đức. Tính trong Liên minh châu Âu, Berlin là thành phố lớn thứ hai, sau Luân Đôn.[3] Nằm ở miền Đông Bắc nước Đức, Berlin là trung tâm của khu vực đô thị Berlin-Brandenburg, trong đó có khoảng 4.5 triệu người đến từ hơn 190 quốc gia trên thế giới.[4] Nằm trong vùng Đồng bằng Châu Âu, Berlin bị ảnh hưởng bởi khí hậu ôn đới theo mùa. Khoảng 1/3 diện tích của thành phố là rừng, công viên, vườn, sônghồ, do đó thành phố này luôn có một bầu không khí trong lành.[5]
Được ghi nhận lần đầu tiên vào thế kỷ 13, Berlin từng là thủ đô của Vương quốc Phổ (1701-1918), Đế chế Đức (1871-1918), Cộng hòa Weimar (1919-1933) và Đệ Tam Quốc Xã (1933-1945).[6] Vào những năm 1920, Berlin là thành phố lớn thứ ba trên thế giới.[7] Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thành phố đã bị liên quân bốn nước chiếm đóng, và sau đó các khu vực do Anh, Pháp, Hoa Kỳ chiếm đóng được hợp nhất và trở thành Tây Berlin, được bao quanh bởi Bức tường Berlin và phần còn lại do Liên Xô chiếm đóng trở thành Đông Berlin (thủ đô của Cộng hòa Dân chủ Đức).[8] Sau khi nước Đức thống nhất ngày 3 tháng 10 năm 1990, Berlin trở thành thủ đô của toàn liên bang Đức, lưu trữ 147 đại sứ quán nước ngoài.[9] Sau Quyết nghị Thủ đô của Quốc hội liên bang Đức (Deutsche Bundestag) vào năm 1991 thành phố cũng thực thi chức năng của mình là trụ sở của chính phủ và quốc hội từ năm 1999.[10]
Berlin là một trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học quan trọng của châu Âu[11]. Đô thị lớn này là một điểm nút giao thông và một trong những thành phố thu hút được nhiều khách du lịch nhất của lục địa này. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, nhà hát và viện bảo tàng tại Berlin có danh tiếng quốc tế.

Địa lý

Vị trí địa lý

Berlin (màu đỏ) trong nước Đức
Berlin nằm ở phía Đông Bắc nước Đức và được bao quanh bởi tiểu bang Brandenburg. Berlin cách biên giới với Ba Lan 70 km và là một trong những khu vực đông dân cư nhất nước Đức.
Khu vực Berlin ngày nay nằm giữa hai vùng cao BarnimTeltow. Trung tâm lịch sử của Berlin trước đây bé hơn rất nhiều và được hình thành trong một thung lũng, ở bên bờ sông Spree tại nơi hẹp nhất của sông này. Sông Spree chảy từ hướng Đông sang Tây và đổ vào sông Havel ở tận cùng phía tây của quận Spandau. Sông Havel chảy theo hướng Bắc-Nam này tạo nên các hồ lớn ở Berlin như hồ Tegeler hay hồ Wannsee[12].
Phần lớn khu vực Berlin ngày nay nằm ở trên hai vùng cao này: phần lớn các quận ReinickendorfPankow nằm trên Barnim, trong khi phần chính của các quận như Charlottenburg-Wilmersdorf, Steglitz-Zehlendorf, Tempelhof-SchönebergNeukölln thì nằm trên Teltow.
Điểm cao nhất của Berlin là điểm cao nhân tạo Teufelsberg (114,7 m trên mực nước biển) được đắp lên từ những đống đổ nát sau Đệ nhị thế chiến và điểm cao tự nhiên Müggelberge (115,4 m) trong quận Treptow-Köpenick. Chiều dài nhất từ Đông sang Tây vào khoảng 45 km, theo hướng Bắc-Nam khoảng 38 km

Khí hậu

Thành phố nằm trong vùng khí hậu ôn hòa. Nhiệt độ trung bình cả năm ở Berlin-Dalem là 9,2 °C và lượng mưa trung bình hằng năm là 579 mm.
Các tháng nóng nhất trong năm là tháng 7 và tháng 8 với nhiệt độ bình quân là 18,4 hay 17,8 °C, tháng lạnh nhất trong năm: tháng 1 và tháng 2, nhiệt độ trung bình là 0,5 và 1,2 độ Celsius[13].
Tháng 7 là tháng có mưa nhiều nhất, trung bình là 67 mm, tháng có mưa ít nhất là tháng 2, trung bình 36 mm.
Nuvola apps kweather.svg Khí hậu Berlin
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Trung bình tối cao °C (°F) 3 (37) 4 (39) 9 (48) 13 (55) 19 (66) 22 (72) 24 (75) 24 (75) 19 (66) 13 (55) 7 (45) 4 (39)
Trung bình tối thấp °C (°F) -2 (28) -2 (28) -1 (30) 4 (39) 9 (48) 12 (54) 14 (57) 14 (57) 11 (52) 6 (43) 2 (36) 0 (32)
Lượng mưa mm (inch) 42 (1.7) 33 (1.3) 41 (1.6) 37 (1.5) 54 (2.1) 69 (2.7) 56 (2.2) 58 (2.3) 45 (1.8) 37 (1.5) 44 (1.7) 55 (2.2)
Nguồn: worldweather.org [13] 26 July, 2007.

Lịch sử

Bài chi tiết: Lịch sử Berlin
Cölln, phần của thành phố đôi Berlin-Cölln được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1237, tiếp theo đó là Berlin vào năm 1244. Hai thành phố nằm hai bên bờ của sông Spree được nối liền bởi chiếc cầu bắc qua sông Spree đó là điểm hẹp nhất của sông. Vào năm 1307, hai thành phố có tòa thị chính chung.
Từ năm 1415 Friedrich I lên làm Tuyển hầu tước (Kürfürst) của xứ Brandenburg, trị vì lãnh địa cho đến năm 1440. Dòng dõi nhà Hohenzollern đóng đô tại thành Berlin cho đến năm 1918, đầu tiên là Tuyển hầu tước của xứ Brandenbrg, rồi là Vua của Vương quốc Phổ và cuối cùng là Hoàng đế của Đế chế Đức.
Cuộc Chiến tranh Ba mươi năm từ năm 1618 đến năm 1648 đã mang lại hậu quả nặng nề cho Berlin: 1/3 nhà cửa bị hư hỏng, dân số giảm chỉ còn một nửa. Friedrich Wilhelm (Brandenburg), được biết dưới danh hiệu đại tuyển hầu (Großer Kurfürst), kế tục sự nghiệp của cha vào năm 1640. Ông bắt đầu một chính sách nhập cư và khoan dung về tôn giáo. Từ năm sau đó các thành phố vùng ngoại ô Friedrichswerder, DorotheenstadtFriedrichstadt được thành lập.
Berlin năm 1737
thế kỷ 17, Berlin được mở rộng thêm ra các khu vực ngoại thành. Vao năm 1701, Friedrich I được phong thành vua của Phổ và đóng đô tại thành Berlin. Nhà vua rắp tâm gầy dựng kinh kỳ Berlin trở nên hoa lệ chả kém Versailles bên Pháp: ông khuếch trương lối kiến trúc barốc, cho hoàn thất tân cung của thân phụ ông tại Köpenick và chuyển Oranienburg từ một pháo đài tạm bợ, nhỏ nhoi thành một cung điện nguy nga tráng lệ. Vài dặm về phía Tây kinh đô, ông ban cho Hoàng hậu Sophie Charlottes (nguyên là Công chúa Anh Quốc) một cung điện đẹp đẽ tại Lietzenburg, bắt chước theo lối của Hoàng cung Schönbrunn của các Hoàng đế La Mã Thần thánh tại kinh thành Viên. Nhà làm vườn người Pháp tài hoa là Le Nôtre được nhà vua truyền lệnh cho thiết kế nên cung điện này. Sau này nàng Sophia Charlottes qua đời, nhà vua đổi tên cung điện thành Charlottenburg để tưởng nhớ đến nàng. Nhưng nhà vua vẫn chú tâm hơn cả đến việc xây cất Hoàng cung Stadtschloss trong chốn kinh kỳ. Hoàng cung này vốn được phát triển dần dần kể từ đời Tuyển hầu tước Friedrich II hồi thế kỷ 15. Thoạt đầu nhà vua Friedrich I chỉ tiếp nối phần mà cha ông còn dang dở, nhưng sau khi khởi lập Vương quốc Phổ thì ông quyết tâm gầy dựng Hoàng cung đồ sộ hơn hẳn. Nhà kiến trúc kỳ tài Andreas Schlüter được nhà vua giao phó trọng trách, và ông đã làm nên một trong những cung vua hoành tráng nhất ở phía Bắc dãy Anpơ, và có lẽ là cung điện lộng lẫy nhất của kiến trúc ba-rốc Đức. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng giá như cung điện được xây đúng theo ý tưởng của nhà vua Friedrich I thì nó sẽ dập tắt sự huy hoàng của Hoàng cung Versailles. Bên ngoài những bức tường thành Berlin có từ thời kỳ Trung đại, nhà vua cho làm nên đại lộ đầu tiên, qua việc mở con đường có hàng cây đoan ở hướng Tây. Đó là Đại lộ Unter den Linden, và ở đầu đại lộ nhà vua lệnh cho xây nên xưởng làm vũ khí đạn dược, lại là một kiệt tác kiến trúc ba-rốc nữa có những điểm tương xứng với khoảng đất trước bảo tàng Louvre trứ danh. Tuy kinh kỳ Berlin trở nên phồn vinh, huy hoàng (chỉ sau mỗi Dresden trên đất Đức),[14] nhưng những cung điện xa hoa của ông ít ai quan tâm và cho đến năm 1713 thì Vương quốc Phổ hãy còn nhỏ bé và không mạnh mẽ gì.[15]
Từ tháng 1 năm 1710 các thành phố Berlin, Cölln, Friedrichswerder, DorotheenstadtFriedrichstadt được sát nhập lại với nhau trở thành kinh đô và là nơi ngự trị của nhà vua. Không lâu sau đó, các khu vực ngoại thành mới lại được hình thành. Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin được thiết lập vào năm 1696, và viện Hàn lâm Khoa học Berlin cũng được thiết lập vào năm 1700 dưới triều vua Friedrich I.[16] Một trong những viện sĩ lừng danh của Viện Hàn lâm Khoa học Berlin này là nhà triết học - toán học Gottfried Leibniz, được Hoàng hậu Sophia Charlottes hết mực mến mộ.[17] Sang đời vua Friedrich Wilhelm I (trị vì: 1713 - 1740), nhà vua tiến hành cải cách đất nước. Vốn chán ghét xa hoa, ông chỉ tập trung vào việc xây dựng lực lượng Quân đội Phổ ngày một lớn mạnh. Khi còn ở ngôi Thái tử, ông đã gắn bó với thái ấp của mình tại Wuterhausen ở phía Đông Nam kinh thành Berlin, nơi ông gầy dựng một đội Cận Vệ hùng hậu.[14] Dù phụ vương của ông có cho thiết kế căn phòng hổ phách tuyệt đẹp tại Hoàng cung, ông đã tặng cả căn phòng này cho Sa hoàng Pyotr Đại Đế mang về nước Nga, trong một chuyến viếng thăm kinh đô Phổ làm Sa hoàng phải thán phục trước vẻ đẹp của căn phòng ấy. Đổi lại, nhà vua Friedrich Wilhelm I nhận lấy một nhóm chiến binh vũ dũng của Sa hoàng. Vào năm 1717, một quý tộc trong chuyến lên kinh có miêu tả rằng kinh đô không có gì nổi bật ngoài những chiến binh điêu luyện. Cung đình Berlin trở thành đại bản doanh của nhà vua, và trong những công viên Hoàng gia Berlin, người ta thường thấy những Sĩ quan Quân đội, thay vì các Kỵ sĩ và phu nhân quý tộc dạo chơi như ở tiên triều.[18] Nhờ chính sách kinh tế đúng đắn, ngân khố quốc gia Berlin được mở rộng. Thời bấy giờ người Do Thái ngày càng quy tụ về chốn kinh đô, nhà vua có những quan điểm khác nhau về họ. Dù sao đây nữa thì ông cũng cho rằng Triều đình cần phải đối đãi công bằng với dân Do Thái và đổi lại họ phải có tinh thần trung quân.[19] Các nhà du hành cũng thường hay đến kinh kỳ Berlin để tham quan phố phường cùng với những chiến binh tinh nhuệ của Hoàng gia.[20] Nhìn chung, nếu tiên vương Friedrich I đã đưa Berlin trở thành một "Athena của phương Bắc" thì với nhà vua Friedrich Wilhelm I, Berlin chuyển mình thành một "Sparta của phương Bắc".[21]
Friedrich lên làm vua Friedrich II Đại Đế (trị vì: 1740 - 1786). Khác với phụ vương Friedrich Wilhelm I, vị anh quân này khuếch trương văn hóa, đưa kinh thành Berlin trở nên một "Tân Athena".[22] Như nhà văn hào nước Pháp là Voltaire có viết thư gửi cho ông: "Dưới sự trị vì của Người Berlin sẽ trở thành một Athena của Đức, và có thể là của cả châu Âu".[23] Tuy nhiên, vào ngày 16 tháng 12 năm 1740, nhà vua rời khỏi kinh đô và dẫn đại quân vượt qua sông Crossen, mở ra cuộc Chiến tranh Silesia lần thứ nhất chống lại nước Áo.[24] Quân Phổ đại thắng, và chính tại Berlin một Hiệp định được ký kết vào ngày 28 tháng 7 năm 1742 theo đó Áo nhường Silesia cho Phổ.[25] Nhưng do tình hình trở nên không có lợi, nhà vua thân chinh thống suất 4 vạn đại quân rời khỏi Berlin mà đánh xứ Bohemia vào năm 1744, mở ra cuộc Chiến tranh Silesia lần thứ hai.[26] Tuy chiến dịch phạt Bohemia không thành nhưng quân Phổ đại phá tan nát quân Áo trong trận Hohenfriedberg tại Silesia vào năm 1745, sau đại thắng nhà vua Friedrich II Đại Đế kéo quân về kinh đô.[27] Nhưng tiếp theo đó vài trận đánh lớn nữa diễn ra tại Silesia và Sachsen, dù có lần liên quân Áo - Sachsen lập kế hoạch tiến chiếm Berlin nhưng đều bị nhà vua Friedrich II Đại Đế đập cho tan tành. Và, đến cuối năm 1745 thì vị vua anh hùng mới ca khúc khải hoàn kéo đoàn binh chiến thắng vào thành Berlin, trong niềm hân hoan thắng trận. Nhân dân đổ xô ra đường đón chào vị vua thiên tài với nhiệt huyết dâng trào.[28][29] Nhà vua khi ấy vừa là một dũng tướng mà vừa là một nhà hiền triết, bảo trợ nghệ thuật, tạo điều kiện cho nền văn hóa Berlin nở rộ. Với tinh thần ưa chuộng nhạc kịch, ông xuống lệnh cho nhà kiến trúc tài hoa Hans Georg Wenzeslaus von Knobelsdorff xây dựng Nhà hát lớn Berlin vào năm 1742.[30] Tuy nước Phổ khi ấy theo Kháng Cách nhưng nhà vua cho xây Đại giáo đường Thánh Hedwig của Công giáo ngay giữa chốn kinh kỳ vào năm 1747, như một phần của chính sách khoan dung tôn giáo của ông.[31] Các nghệ sĩ tài hoa đều được nhà vua triệu về kinh đô, đưa Berlin "Spart" quả thật trở thành một "Athena".[32]
Như một hoạt động nhân đạo của nhà vua sau chiến thắng, ông cho lập trại Thương binh (Invalidenhaus) tại kinh đô để đón nhận 600 cựu chiến binh hưởng trợ cấp vào sinh sống.[30] Thương binh Nhưng cũng trong năm 1747 thì nhà vua Friedrich II Đại Đế dời về ngự tại Hoàng cung Sans Souci tại Potsdam, chứ không ngự ở kinh thành Berlin nữa.[30] Ông chỉ dùng cung Charlottenburg làm nơi giám sát các hoạt động tập dợt và duyệt binh của ba quân.[33] Ông còn vời nhà văn hào Voltaire sang Phổ để trau dồi tri thức vào năm 1750, và trên đường đến Hoàng cung Potsdam thì Voltaire có đến Berlin. Ông có miêu tả rằng kinh đô Phổ to lớn hơn và được bố trí tốt hơn Paris, mà khi ấy sinh hoạt thường nhật của người Phổ là các buổi hòa nhạc, các lễ duyệt binh, đọc sách và học tập. Voltaire cũng cho biết nơi đây có những cung điện, nhà hát, những nàng Công chúa đầy quyến rũ, những góa phụ thân thiện và những cô hầu xinh xắn.[34] Nhà vua Friedrich II Đại Đế cũng cho lập nên diễn đàn "Forum Fredericianum" tại chốn kinh kỳ, để khuyến khích việc mở mang văn hóa đất nước.[35] Diễn đàn này nằm ở bên trái thư viện Hoàng gia, bên phải Nhà hát và đằng sau Đại giáo đường Thành Hedwig, là bằng chứng kiến trúc cho sự nở rộ của nền văn hóa Phổ dưới triều đại của ông.[36] Cuộc Chiến tranh Bảy Năm nổ ra vào năm 1756 giữa Phổ và liên minh Áo - Pháp - Nga, khi ấy kinh đô được phòng thủ rất mềm yếu.[37] Khi nhà vua đi chiến chinh ở phương xa, quân Khinh Kỵ binh Áo do Tướng András Hadik de Futak chỉ huy tiến chiếm Berlin vào ngày 16 tháng 10 năm 1757, Tướng Von Rochow là Thị trưởng thành phố lại không dám đánh địch.[38] Nhưng sau khi người Phổ cống nạp 20 vạn thaler thì quân Áo rút lui mà chẳng gây tổn hại nào cả.[39]
Sau khi nhà vua đại bại trong trận Kunersdorf vào năm 1759 thì Berlin lâm vào hiểm nguy, nhưng người Phổ đã chặn được đường tiến của quân Nga - vốn đã rệu rã sau trận Kunersdorf - vào kinh đô.[40] Bản chất của nhà nước quân chủ quân sự Phổ còn thể hiện qua địa hình, như vào năm 1760 một Thống chế Áo có miêu tả về làng mạc xung quanh kinh đô đứng trên đồng bằng trong như các Tiểu đoàn Bộ Binh.[41] Vào ngày 7 tháng 10 năm 1760, sau khi nhà vua đại thắng quân Áo tại Silesia thì một đạo quân Áo khác cùng quân Nga và quân Sachsen tràn vào Berlin. Sự kiện này mang lại tổn hại nặng nề cho nền công nghiệp đạn dược của Phổ, song xưởng dệt quan trọng Lagerhaus vẫn nguyên vẹn.[42] Quân Sachsen cũng cướp phá các cung vua phủ chúa để trả đũa việc nhà vua Friedrich II Đại Đế cho quân bắn phá khốc liệt vào kinh thành Dresden ít lâu trước đó.[43] Nhà vua kéo đại binh về giải phóng kinh kỳ.[44] Cuối cùng, thấy ông đang hành binh về, liên quân rút lui vào ngày 12 tháng 8.[45]
Vào năm 1763 thì nước Phổ toàn thắng cuộc Chiến tranh Bảy Năm, và thị dân Berlin hy vọng Đức Vua anh dũng sẽ quay về với họ. Lễ khải hoàn được tổ chức, và vua sẽ được đưa từ xa giá lên một chiếc xe ngựa bốn bánh mạ vàng mới mẻ được. Với nhiệt huyết sốt sắng, toàn dân tụ họp, các đội dân binh vận quân phục mới tổ chức diễu binh. Dù nhà vua vốn chẳng yêu thích gì Hoàng cung Berlin nhưng ông nghĩ rằng mình sẽ về đến lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng 3. Song, ông không hề muốn tổ chức lễ lạc hân hoan nhốn nháo gì cả. Nhà hiền triết Jean-Baptiste de Boyer, Hầu tước Argens khuyên vua rằng đây là dịp đại lễ, để thần dân được chứng kiến vị Quân vương của họ, vì ông là người chiến thắng kẻ thù, giải phóng kinh đô, cứu dân cứu nước. Tuy nhiên, nhà vua bỏ ngoài tai và ông về kinh thành bằng đường vòng.[46] Về cuối đời Friedrich II Đại Đế, những cuộc diễn tập ba quân tại Berlin cũng được tổ chức vào tuần thứ ba của tháng 5.[47] Trong suốt triều đại của ông, trào lưu Khai Sáng nở rộ tại chốn kinh kỳ Berlin, với nhiều danh sĩ (chẳng hạn như Friedrich Nicolai.[48] Những nhóm văn sĩ, thi sĩ giàu cảm hứng cũng thường tụ tập với nhau để trau dồi kiến thức. Điển hình như là những danh sĩ kết thân với thầy giáo dạy Trường Thiếu Sinh quân Berlin Karl Wilhelm Ramler, như Friedrich Nicolai, nhà soạn kịch Gotthold Ephraim Lessing, nhà thơ yêu nước Johann Wilhelm Ludwig Gleim, học giả Kinh Thánh Moses Mendelssohn, nhà luật học Johann Georg Sulzer và nhiều trí thức khác.[49]
Vào năm 1861, các khu vực ngoại ô Wedding, Moabit, TempelhoferSchöneberger được sát nhập thêm vào Berlin. Vào năm 1871, Berlin trở thành thủ đô của đế chế Đức mới được hình thành. Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, vào năm 1918 nước Cộng hòa Weimar được thành lập tại Berlin. Với Luật Berlin Lớn năm 1920, thành phố này được mở rộng thêm các thành phố lân cận, cũng như các quận, huyện xung quanh Berlin. Khi đó dân số Berlin vào khoảng 4 triệu người.
Sau khi đảng Quốc xã lên nắm quyền năm 1933, Berlin trở thành thủ đô của Đế chế thứ ba. Thế vận hội mùa hè năm 1936 được tổ chức tại Berlin. Đảng Quốc xã có lập nên các kế hoạch xây dựng Berlin thành thủ đô Germania của toàn thế giới. Tuy nhiên ý định này bị thất bại do thua trong Đại chiến thế giới lần thứ hai.
Bom đạn chiến tranh đã phá hủy phần lớn các khu vực ở Berlin. Vào ngày 16 tháng 4 năm 1945, khi Hồng quân Liên Xô phát động chiến dịch Berlin. Quốc trưởng Adolf Hitler tự sát vào ngày 30 tháng 4, và thủ đô thất thủ vào ngày 2 tháng 5 năm 1945.[50] Sau khi Đức Quốc Xã đầu hàng, Berlin bị chia giống như toàn thể nước Đức thành 4 phần. Các khu vực đóng chiếm của quân liên minh phương tây: Mỹ, AnhPháp tạo thành Tây Berlin, còn khu vực đóng chiếm của Liên Xô tạo thành Đông Berlin[51]. Tuy nhiên một bộ lãnh đạo cho cả Berlin được thành lập bởi 4 quân liên minh này. Sự khác biệt về đường lối chính trị giữa quân đội đồng minh phương tây và Liên Xô dẫn đến việc phong tỏa Tây Berlin vào năm 1948/1949. Quân đội đồng minh phương tây đã trả lời hành động này bằng cách tiếp tế Berlin bằng đường không[52].
Sau khi nước Cộng hòa Liên bang Đức được thành lập ở Tây Đức với nền kinh tế thị trường, và nước Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập ở Đông Đức với nền kinh tế kế hoạch tập trung, cuộc Chiến tranh lạnh trở nên sâu sắc hơn ngay cả ở Berlin. Trong khi nước Cộng hòa Liên bang Đức dời thủ đô về Bonn, lúc đầu được xem như là một giải pháp tạm thời, thì Đông Berlin thành thủ đô của nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Cao điểm của cuộc phân tranh Đông-Tây được đạt tới với việc nước Cộng hòa Dân chủ Đức dựng lên Bức tường Berlin vào ngày 13 tháng 8 năm 1961 chia cách Đông và Tây Berlin. Sự đi lại giữa hai khu vực này chỉ có thể xảy ra ở một số điểm kiểm tra nhất định.
Mãi đến năm 1989, dưới áp lực đấu tranh của nhân dân Đông Đức bức tường thành ngăn cách mới bị phá bỏ. Vào năm 1990, hai nước Đức tái thống nhất thành nước Cộng hòa Liên bang Đức, và theo Hiệp ước Thống nhất Berlin trở thành thủ đô của nước Đức. Năm 1991 quốc hội Đức quyết định Berlin cũng là trụ sở chính phủ của Đức. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 9 năm 1999 quốc hội và chính phủ bắt đầu làm việc tại Berlin.

Dân số

Theo thống kê, Berlin có tất cả 3.402.312 nhân khẩu vào tháng 9 năm 2006[53]. Trong số đó có 327.870 người được báo cáo là thất nghiệp vào tháng 1 năm 2005, chiếm tỉ lệ 19,4%.
Vào tháng 11 năm 2006 có 463.723 (13.9%) người nước ngoài từ 185 nước sống tại Berlin[54]. Độ tuổi trung bình của người Berlin trong năm 2004 là 41,7 tuổi. Điều này tương ứng với một sự gia tăng ở mức 2,5 tuổi trong vòng 12 năm.

Sự phát triển dân số

Năm Dân số
1250 1.200
1307 7.000
1400 8.500
1576 12.000
1600 9.000
1648 6.000
1685 20.000
1709 57.000
1750 113.289
1775 136.137
1800 172.132
1825 219.968
1850 418.733
3 tháng 12 1861 ¹ 547.200
1 tháng 12 1871 ¹ 824.484
1 tháng 12 1875 ¹ 964.539
1 tháng 12 1880 ¹ 1.123.749
Năm Dân số
1 tháng 12 1885 ¹ 1.315.665
1 tháng 12 1890 ¹ 1.578.516
2 tháng 12 1895 ¹ 1.678.924
1 tháng 12 1900 ¹ 1.888.313
1 tháng 12 1905 ¹ 2.042.402
1 tháng 12 1910 ¹ 2.071.907
8 tháng 10 1919 ¹ 1.902.509
16 tháng 6 1925 ¹ 4.024.165
16 tháng 6 1933 ¹ 4.242.501
17 tháng 5 1939 ¹ 4.338.756
29 tháng 10 1946 ¹ 3.170.832
31 tháng 12 1960 3.274.016
31 tháng 12 1970 3.208.719
31 tháng 12 1980 3.048.759
31 tháng 12 1990 3.433.695
31 tháng 12 2000 3.382.169
1 tháng 1 2005 3.398.362
  1. Những số liệu trước năm 1860 đều là dự đoán. Các số liệu sau này do thống kê ghi lại.

Tôn giáo

Trong số khoảng 3,4 triệu người ở Berlin có 23% theo Tin Lành, 9% là Công giáo, 6% theo đạo Hồi, 0,4% theo đạo Do Thái và 60% không có tôn giáo[55].
Berlin là trụ sở của giáo khu tổng Giám mục Công Giáo cũng như là của tổng Giám mục Tin Lành. Ngoài ra Berlin còn có 11 đền thờ đạo Hồi và 2 ngôi chùa Phật giáo.

Chính trị

Bài chi tiết: Chính trị ở Berlin
Sau khi nước Đức tái thống nhất tái thống nhất vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, Berlin trở thành một tiểu bang thành phố độc lập của Đức. Berlin được chia ra thành 12 quận. Bên cạnh đó, Berlin còn là thủ đô và trụ sở chính phủ của nước Cộng hòa Liên bang Đức từ ngày 20 tháng 6 năm 1991.

Thủ đô

Nghị quyết Thủ đô của Quốc hội Liên bang Đức lần thứ nhất sau tái thống nhất vào năm 1991 quyết định Berlin, thủ đô của liên bang, sẽ là trụ sở của Quốc hội Liên bang, của chính phủ liên bang và của Hội đồng Liên bang. Từ năm 1994 trụ sở của tổng thống liên bang cũng ở tại Berlin[56]. Trong năm 1999 một phần lớn chính phủ liên bang đã chuyển từ Bonn về Berlin. Nhưng Berlin không phải là thủ đô tập trung vì phần lớn các cơ quan liên bang nằm ở thành phố Bonn trực thuộc liên bang hay trong khác thành phố khác[57].

Tiểu bang Berlin

Tòa thị chính Berlin
Từ khi tái thống nhất hai quốc gia Đức vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, Berlin là một tiểu bang của nước Cộng hòa Liên bang Đức. Số quận trực thuộc Berlin được giảm từ 23 xuống còn 12. Trong quốc hội tiểu bang Berlin, theo Hiến pháp của Berlin là quyền lực lập pháp, hiện nay bao gồm nghị sĩ của các đảng SPD, CDU, Đảng Cánh tả (tiếng Đức: Linkspartei), Đảng Xanh (Büdnis 90/Die Grüne) và FDP. Chính phủ tiểu bang, quyền lực hành pháp, bao gồm thị trưởng và đến 8 nghị sĩ. Thị trưởng đương nhiệm đồng thời cũng là người đại diện cho tiểu bang và thành phố.

Các quận

Các quận của Berlin
Sau cuộc cải cách vào ngày 10. tháng năm 1998 23 quận lẻ của Berlin trước đây được gộp lại thành 12 quận chính như hiện tại, bao gồm: Mitte, Friedrichshain-Kreuzberg, Pankow, Charlottenburg-Wilmersdorf, Spandau, Steglitz-Zehlendorf, Tempelhof-Schöneberg, Neukölln, Treptow-Köpenick, Marzahn-Hellersdorf, LichtenbergReinickendorf.

Hành chính

Vì Berlin là một đơn vị hành chính thống nhất nên các quận không phải là một đơn vị hành chính độc lập và vì thế mà phụ thuộc nhiều vào quốc hội tiểu bang và các cơ quan hành chính dưới quyền của quốc hội tiểu bang giám sát các quận trên bình diện hành chính. Mặc dù vậy, mỗi quận đều có đại diện nhân dân riêng, hội đồng nhân dân quận (Bezirksverordnetenversammlung) bầu ra ủy ban quận (Bezirksamt) bao gồm quận trưởng và 5 thành viên. Các quận trưởng họp thành Hội đồng quận trưởng, có chủ tịch là người thị trưởng đương nhiệm, cố vấn cho quốc hội tiểu bang.

Huy hiệu và cờ

Bài chi tiết: Huy hiệu Berlin
Biểu tượng của Berlin là một con gấu màu đen đang đứng với lưỡi màu đỏ và móng vuốt màu đỏ, còn được gọi là Con gấu Berlin. Nguồn gốc của con gấu biểu tượng không được biết rõ. Người ta phỏng đoán rằng biểu tượng này có thể xuất phát từ người thành lập hầu quốc Brandenburg: Albrecht Gấu hay xuất phát từ diễn đạt cách phát âm của tên thành phố. Con gấu được nhìn thấy lần đầu tiên trên con dấu vào năm 1280. Tuy vậy, mãi đến thế kỷ 19 Con gấu Berlin mới vượt qua được chim đại bàng Brandenburg trở thành huy hiệu của thành phố. Cờ tiểu bang Berlin có hình con gấu trên nền trắng và 2 vạch đỏ ờ phía trên và phía dưới. Huy hiệu tiểu bang là con gấu trên khiên bạc phía trên có một vương miện vàng.
Huy hiệu tiểu bang Biểu tượng tiểu bang Cờ tiểu bang
Huy hiệu tiểu bang Biểu tượng tiểu bang Cờ tiểu bang Cờ cơ quan tiểu bang

Thành phố kết nghĩa

USA Los Angeles, USA (1967) Pháp Paris, Pháp (1987)
Tây Ban Nha Madrid, Tây Ban Nha (1988) Thổ Nhĩ Kỳ Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ (1988)
Nga Moskva, Nga (1990) Ba Lan Warszawa, Ba Lan (1991)
Hungary Budapest, Hungary (1991) Bỉ Brussel, Bỉ (1992)
Uzbekistan Tashkent, Uzbekistan (1993) Indonesia Jakarta, Indonesia (1993)
Mexico Thành phố Mexico, Mexico (1993) Trung Quốc Bắc Kinh, Trung Quốc (1994)
Nhật Tokyo, Nhật Bản (1994) Argentina Buenos Aires, Argentina (1994)
Cộng hoà Séc Praha, Cộng hoà Séc (1995) Namibia Windhoek, Namibia (2000)
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Luân Đôn, Liên hiệp Anh (2000)

Kinh tế

Bài chi tiết: Kinh tế Berlin
Tổng sản phẩm quốc nội của Berlin trong năm 2006 là 80,3 tỉ Euro[58]. Để so sánh: thành phố Hamburg đạt 73,7 tỉ Euro tổng sản phẩm quốc nội với dân số chỉ vào khoảng gần một nửa, tiểu bang Brandenburg đạt 42,3 tỉ Euro với khoảng 2/3 dân số (Nguồn: Báo cáo của IHK 2000/2001).
Trên 80% doanh nghiệp thuộc vào khu vực thứ ba. Động cơ kinh tế chính hiện nay là khu vực dịch vụ với 591.000 lao động chiếm 41% trong tổng số lao động ở Berlin.

Truyền thông

Bài chi tiết: Truyền thông ở Berlin
Berlin là trụ sở của rất nhiều đài phát thanh và truyền thông địa phương cũng như toàn liên bang[59]. Bên cạnh các đài truyền hình như MTV, Nick, VIVA, VIVA Plus, Sat.1, N24, TV.Berlin hay FAB tại Berlin còn có nhiều đài phát thanh tư nhân. Các đài phát thanh và truyền hình thuộc nhà nước như RBB, Deutsche Welle TV và DeutschlandRadio cũng có trụ sở tại Berlin. Góp phần vào tầm quan trọng chính trị của thủ đô là các "studio thủ đô" của các đài phát sóng trên toàn liên bang như ARD, ZDF hay RTL.
Đa số nhật báo được phát hành tại Berlin. Các báo lớn nhất là Berliner Zeitung, Berliner Morgenpost cũng như là Tagesspiegel, cả ba đều có một phần lớn chuyên về Berlin. Có tầm quan trọng trên toàn liên bang là tờ taz tự do cánh tả, tờ Welt bảo thủ, tuần báo bảo thủ cánh tả Junge Freiheit, tờ Neues Deutschland thiên về Đảng Cánh tả và tờ Neue Welt xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra ở Berlin còn có các tờ báo khổ nhỏ B.Z., Bild BerlinBerliner Kurier.
Bên cạnh đó là có nhiều báo chuyên đăng quảng cáo như Berliner Woche, Berliner Abendblatt hay Zweite Hand; ngoài ra còn có nhiều tạp chí thành phố như der Tip, 030 hay Zitty.
Berlin cũng là trụ sở của nhà xuất bản Walter de Gruyter và Stringer.

Văn hóa và danh lam thắng cảnh

Nhà hát, hòa nhạc và hợp xướng

Nhà hát Phương Tây
Philharmonie
Alte Nationalgalerie
Berlin nổi tiếng với rất nhiều sân khấu[55]. Nổi tiếng nhất là Berliner Ensemble, Volksbühne (Sân khấu Nhân dân) ở Rosa-Luxemburg-Platz (Quảng trường Rosa Luxembourg), Schaubühne am Lehniner Platz, Theater des Westens (Nhà hát Phương Tây), Renaissance-Theater (Nhà hát Phục Hưng) và Deutsches Theater Berlin (Nhà hát Đức Berlin). Ngoài ra Berlin còn có 3 nhà hát opera: Staatsoper Unter den Linden (Nhà hát opera quốc gia Unter den Linden), Deutsche Oper Berlin (Nhà hát opera Đức ở Berlin) và Komische Oper Berlin (Nhà hát opera hài Berlin). Được tổ chức hằng năm ở Berlin là Liên hoan phim quốc tế Berlin Berlinade với giải thưởng Con Gấu Vàng.
Bên cạnh đó Berlin cũng có nhiều đoàn hòa nhạc và hợp xướng. Ngoài Berliner Philharmoniker, Staatskapelle BerlinBerliner Sinfonie Orchester, ở Berlin còn có nhiều đoàn hòa nhạc và hợp xướng của công ty Rundfunk Orchester und Chöre GmbH.

Viện bảo tàng

Berlin có nhiều viện bảo tàng. Ngay từ năm 1841, hòn đảo viện bảo tàng (Museuminsel) được bao bọc bởi sông Spree và kênh đào Kupfergraben đã được quy định trở thành "một quận cống hiến cho nghệ thuật và khoa học nghiên cứu thời Cổ đại" qua một sắc lệnh của vua. Trong thời gian sau đó nhiều viện bảo tàng đã được thành lập như Altes Museum (Viện bảo tàng Cũ) trong Lustgarten, Neues Museum (Viện bảo tàng Mới), Alte Nationalgalerie (Phòng trưng bày tranh Quốc gia Cũ), BodenmuseumPergamonmuseum. Các viện bảo tàng này chủ yếu trưng bày hiện vật của thời Cổ đại. Đảo viện bảo tàng đã được đưa vào danh sách di sản văn hóa thế giới của UNESCO năm 1999.
Ngoài hòn đảo viện bảo tàng này Berlin còn có nhiều viện bảo tàng khác với nhiều chủ đề đa dạng. Gemäldegalerie (Phòng trưng bày tranh), Neue Nationalgalerie (Phòng trưng bày tranh Quốc gia Mới) là các viện bảo tàng nghệ thuật, Bauhaus-Archiv là một viện bảo tàng kiến trúc. Viện bảo tàng Lịch sử Đức (Deutsches Historisches Museum) trong Zeughaus trên đường Unter den Linden minh họa 2000 năm lịch sử Đức. Viện Bảo tàng Do Thái (Jüdisches Museum) trưng bày trong một phòng triển lãm cố định lịch sử Do Thái-Đức trong khoảng thời gian tương tự. Lâu đài đi săn Grunewald chứa đựng một bộ sưu tập tranh được lựa chọn của thời gian từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Tập trung trong Berlin-Dahlem là nhiều viện bảo tàng về dân tộc học. Viện bảo tàng về Bộ An ninh Quốc gia ngày xưa của nước Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập trong khu Lichtenberg, trên khu đất của Bộ An ninh Quốc gia ngày xưa. Viện bảo tàng tại Checkpoint Charlie trưng bày các khoảng khắc từ lịch sử chia cắt nước Đức. Từ năm 2005, ở gần Potsdamer Platz (Quảng trường Potsdam) là tượng đài kỷ niệm những người Do Thái ở châu Âu đã bị giết chết của tác giả Peter Eisenman.
Quỹ về Nghệ thuật Phổ do liên bang và tất cả các tiểu bang cùng tài trợ có trụ sở chính tại Berlin. Quỹ ủng hộ cho Lâu đài và Vườn hoa Phổ Berlin-Brandenburg cũng có nhiều trụ sở quan trọng ở Berlin. Cả hai quỹ quản lý, gìn giữ, chăm sóc và bổ sung hiện vật văn hóa của vương quốc Phổ ngày xưa trong các cơ sở có tầm quan trọng quốc tế.
Quỹ bảo tàng thành phố Berlin hợp nhất các viện bảo tàng có nhiều truyền thống khác của Berlin. Quỹ được thành lập vào ngày 23 tháng 6 năm 1995 này là viện bảo tàng thành phố lớn nhất Đức. Là Viện bảo tàng Tiểu bang về Nghệ thuật và Lịch sử Berlin, viện bảo tàng này hình thành chủ yếu là từ việc sáp nhập Märkisches Museum – thành lập năm 1974 – và Berlin Museum (Viện bảo tàng Berlin) – thành lập năm 1962. Nhiều bộ sưu tập, một phần đã thành hình ngay từ thế kỷ 19, là tư liệu cho tất cả các lĩnh vực phát triển của Berlin một cách rất đa dạng, từ những dấu vết định cư đầu tiên của con người trong Thời kỳ Đồ đá cho đến hiện nay.

Kiến trúc

Cổng Brandenburg
Cổng Brandenburg (Brandenburger Tor) được xây dựng trong khoảng thời gian từ 1788 đến 1791 là biểu trưng của Berlin và cũng là tượng trưng của sự chia cắt nước Đức trong quá khứ. Cổng này dựa theo cổng Propylaea của AcropolisAthena, phía trên có một cỗ xe tứ mã với nữ thần chiến thắng Victoria. Thật ra người sáng tạo ra cổng Brandenburg Johann Gottfried Schadow đã nghĩ đến nữ thần hòa bình Eirene khi xây dựng công trình này. Cổng nằm ở cuối đường Unter den Linden về phía tây, con đường chạy dài cho đến đảo viện bảo tàng trên sông Spree và Nhà thờ chánh tòa Berlin. Ranh giới giữa hai nước Đức chạy qua đây cho đến khi tái thống nhất Đức vào ngày 3 tháng 10 năm 1990.
Nằm trong khu vực này là Nhà hát Quốc gia Unter den Linden (Staatsoper Unter den Linden) được xây dựng năm 1743 theo phong cách Rococo, Thư viện Quốc gia Berlin (Staatsbibliothek zu Berlin) được kiến tạo trong khoảng từ 1774 đến 1780, Zeughaus Berlin kiểu Baroque được xây dựng từ 1695 cho đến 1706 theo bản vẽ của Andreas SchlüterNhà thờ thánh Hedwig, nhà thờ chính của giáo khu công giáo Berlin. Nhà thờ Pháp (Französicher Dom) trên Gendarmenmarkt đã là trung tâm của Khu phố Pháp trong thế kỷ 17. Trường Đại học Humbolt Berlin khánh thành năm 1809, nơi nhà triết học Wilhelm Friedrich Hegel đã từng giảng dạy và là nơi đã đào tạo 27 người nhận giải thưởng Nobel.
Nhà thờ Tưởng niệm Hoàng đế Wilhelm
Tại đường Unter der Linden, kiến trúc sư Christian Daniel Rauch đã dựng nên một bức tượng tuyệt hảo, cho thấy vua Friedrich II Đại Đế (trị vì: 1740 - 1786) trên lưng ngựa[60]. Một con đường mua sắm được ưa chuộng ở Berlin là Kürfürstendam với rất nhiều khách sạn, cửa hàng và nhà hàng. Nhà thờ Tưởng niệm Hoàng đế Wilhelm (Kaiser-Wilhelm-Gedächtniskirche) được xây dựng từ 1891 đến 1895, bị phá hủy trong Đệ nhị thế chiến. Nhà thờ này nằm ở cuối đại lộ về hướng đông. Phần tháp đổ nát còn lại được giữ nguyên như đài kỷ niệm. Ngay bên cạnh đó là một nhà thờ mới được xây dựng theo thiết kế của Egon Eiermann từ 1959 đến 1961, nằm trên một mặt bằng hình bát giác với một tháp nhà thờ hình lục giác đứng riêng lẻ.
Đường nối dài Kurfürstendamm về phía đông là Tauentzienstraße, nơi có Trung tâm mua sắm phương Tây (Kaufhaus des Westens - KaDeWe), trung tâm mua sắm lớn nhất trên lục địa châu Âu, và Europa-Center được xây dựng từ 1963 cho đến 1965. Trong ngôi nhà 22 tầng này là rất nhiều cửa hàng, nhà hàng, văn phòng, một rạp chiếu phim và một tầng để ngắm cảnh quang. Trải dài về hướng đông bắc với chiều dài 3 km là công viên lớn nhất Berlin: Vườn thú Lớn (Großer Tiergarten).
Gần Cổng Brandenburg là hội trường Kongresshalle (Berlin) được kiến tạo năm 1957Nhà Quốc hội Đế chế (Reichtagsgebäude) được xây trong khoảng thời gian từ 1884 cho đến 1894. Tòa nhà này bị hư hại nặng trong cuộc hỏa hoạn vào ngày 27 tháng 2 năm 1933 và cũng bị hư hại nhiều trong Đệ nhị thế chiến. Từ năm 1999 tòa nhà này là trụ sở của Quốc hội Liên bang Đức. Cũng đáng đến thăm là Lâu đài Bellevue được xây dựng năm 1785, nơi ở mùa hè của hoàng tử August Ferdinand, em trai của vua Friedrich II Đại đế (Friedrich der Großen), ngày nay là dinh tổng thống liên bang Đức.
Orianienburger Straße (Đường Orianienburg) trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai là trung tâm của Khu phố Do Thái. Nằm trong những nỗ lực tái kiến thiết là việc tái tạo Hội Đường Do Thái Mới (Neue Synagoge) đã bị hư hại nặng do bom trong Đệ nhị thế chiến. Tái khánh thành vào năm 1995, Hội Đường Do Thái này là trung tâm của nghiên cứu và gìn giữ văn hóa Do Thái. Nằm về hướng bắc là nghĩa trang Do Thái lâu đời nhất của thành phố: Nghĩa trang Do Thái Berlin-Mitte. Nghĩa trang được biết đến nhiều hơn rất nhiều là Nghĩa trang Do Thái Berlin-Weißensee, là nghĩa trang Do Thái lớn nhất châu Âu.
Nằm về phía đông của hai nhánh sông Spree bao bọc lấy đảo Spree là Quảng trường Alexander (Alexanderplatz) với nhiều cửa hàng và nhà hàng, ngay gần đấy là Tháp truyền hình Berlin cao 368 m, công trình kiến trúc cao nhất Berlin, Nhà thờ Đức bà (Berlin) (Marienkirche (Berlin)) và Tòa thị chính Berlin (Rotes Rathaus). Đáng đến tham quan trong trung tâm phía đông Berlin là khu phố cổ Prenzlauer Berg và các con đường mua sắm Schönhauser AlleKastanienalle. Từ năm 2006 Cung điện Cộng hòa (Palast der Republik) bị đập bỏ. Theo kế hoạch, Cung điện Thành phố Berllin (Berlliner Stadtschloss) sẽ được tái xây dựng tại đây cho đến năm 2015. Thời điểm này cũng không chắc chắn vì hiện nay đang thiếu tiền.
Quảng trường Potsdam (Potsdamer Platz) là một trọng điểm giao thông trong trung tâm Berlin với nhiều đường lớn tỏa ra từ đây. Quảng trường được xây dựng theo lệnh chiếu chỉ của vua Phổ Friedrich Wilhelm I vào năm 1741. Vào năm 1923, lịch sử truyền thanh ở Đức bắt đầu trong Nhà Vox (Vox-Haus) ở ngay gần đấy. Cho đến năm 1940, Quảng trường Potsdam là quảng trường có mật độ giao thông cao nhất châu Âu. Sau nhiều cuộc bỏ bom của quân đội Đồng minh trong Đệ nhị thế chiến quảng trường chỉ còn là đống gạch vụn.
Năm 1961 Quảng trường Potsdam bị chia cắt bởi Bức tường Berlin và vì thế khu vực này suy sụp. Từ vài năm nay, nơi Bức tường Berlin trước kia được xây cắt ngang qua quảng trường được đánh dấu bằng cách lót đá. Việc
xây dựng các nhà cao tầng ở Quảng trường Potsdam sau ngày tái thống nhất với rất nhiều cửa hàng và quán ăn đã phát triển nơi đây trở thành chiếc cầu nối giữa 2 nửa thành phố đã từng bị chia cắt.
Trong khu Berlin-CharlottenburgSân vận động Olympia Berlin được xây dựng cho Thế vận hội mùa hè năm 1936 cũng như là Tháp truyền thanh Berlin cao 150 m, được xây dựng trong khoảng thời gian 1924-1925 nhân dịp Triển lãm Truyền thanh Quốc tế (Internationale Funkausstellung Berlin - IFA) lần thứ ba và đã nhanh chóng trở thành biểu tượng cho Berlin. Các thắng cảnh khác của thành phố là Lâu đài Charlottenburg (Schloss Charlottenburg) được bắt đầu xây dựng năm 1695, một công trình xây dựng tiêu biểu theo kiểu Baroque của dòng họ Hohenzollern với bộ sưu tập tranh có tầm quan trọng lớn, Thành SpandauLâu dài Tegel (cũng được gọi là Lâu đài Humbolt) được xây dựng theo phong cách cổ điển, đã từng là cơi cư ngụ của nhà nghiên cứu tự nhiên và địa lý Alexander von Humbolt.

Công viên

Toàn cảnh Vườn thú Lớn nhìn từ Đài Chiến thắng
Berlin là một thành phố xanh: Bên cạnh nhiều khu rừng rộng trong vùng phía tây và đông nam thuộc thành phố, Berlin còn có một loạt công viên lớn và hầu như toàn bộ đường phố đều có cây trồng dọc theo. Hơn 2.500 vườn hoa, khu nghỉ ngơi và công viên xanh có diện tích tổng cộng trên 5.500 hecta tạo nên nhiều khả năng nghỉ ngơi và sử dụng thời gian rảnh rỗi đa dạng.
Đài Chiến thắng
Ngay trong trung tâm thành phố là Vườn thú Lớn (Großer Tiergarten)[61]. Công viên này là công viên lâu đời nhất và với 210 hecta cũng là công viên lớn nhất và quan trọng nhất của Berlin, đã được tạo dáng trong tiến trình của hơn 500 năm qua. Nguyên thủy ngày xưa là một khu rừng rộng trước thành phố, được giới quý tộc vương quốc Phổ dùng để săn bắn và cưỡi ngựa, công viên dần dần bị bao bọc bởi thành phố liên tục phát triển. Ngày nay công viên trải dài từ Nhà ga Vườn thú Berlin cho đến Cổng Brandenburg và nằm ngay cạnh khu vực của quốc hội và chính phủ. Một vài đường lớn cắt xuyên qua Vườn thú Lớn, trong đó là Đường ngày 17 tháng 6 là trục đông-tây. Các đường này gặp nhau tại Ngôi sao Lớn (Großer Stern), ở chính giữa là Đài Chiến thắng (Siegessäule) được xây dựng từ năm 1939. Vườn thú Lớn được tạo dáng theo quang cảnh công viên tự nhiên: Đặc trưng của công viên này là các bãi cỏ rộng lớn có nhiều cụm cây và nhiều đường nước xuyên qua cũng như là hồ với đảo nhỏ và nhiều cầu cũng như đại lộ. Nhiều vườn hoa như Vườn Anh, đảo Luisen và Vườn Hồng tạo thành các điểm nhấn về mặt vườn cây cảnh.
Công viên Treptow (Treptower Park) trong vùng đông nam Berlin, bên cạnh Vườn Thú, là một trong những công viên quan trọng nhất của thành phố. Công viên được kiến tạo từ 1876 đến 1882 bởi giám đốc xây dựng công viên đầu tiên của Berlin Gustav Mayer và là địa điểm trưng bày của Triển lãm Nghề nghiệp Berlin Lớn năm 1896. Công viên nằm cạnh sông Spree này là một trong những địa điểm dạo chơi được người dân Berlin ưa thích nhất, không những chỉ vì Nhà hàng Zenner được Carl Ferdinand Langhans xây năm 1821/1822, thời đấy có tên là Quán ăn cạnh sông Spree (Gasthaus an der Spree).
Nhà Nhiệt đới trong Vườn Thực vật Berlin
Một điểm đặc biệt trong các công viên là Vườn Thực vật Berlin (Botanischer Garten Berlin). Nằm trong khu vực tây nam của thành phố, bên cạnh mục đích chính là phục vụ khoa học (vườn thuộc về trường Đại học Tự do Berlin), vườn cũng được sử dụng như công viên nghỉ ngơi. Tiền thân của vườn trước đây đã có từ năm 1697 trên khu đất của Kleinstpark ngày nay trong Schöneberg. Việc xây dựng công viên mới tại Dahlem bắt đầu từ năm 1897. Với một diện tích trên 43 hecta và vào khoảng 22.000 loại cây khác nhau, vườn thực vật này thuộc vào trong số các vườn thực vật lớn nhất và quan trọng nhất trên toàn thế giới và lớn nhất châu Âu. Nhà Nhiệt đới cao 25 m, rộng 30 m và dài 60 m là nhà kính trồng cây lớn nhất thế giới.
Cổng vào Vườn Bách thú Berlin
Ngoài ra Berlin có hai vườn bách thú: Vườn Bách thú Berlin (Zoologischer Garten Berlin) và Vườn Thú Berlin (Tierpark Berlin)[62]. Vườn bách thú Berlin ở Charlottenburg được khánh thành ngay từ năm 1844 là vườn bách thú lâu đời nhất của Đức và đồng thời cũng là vườn có nhiều loài thú nhất trên thế giới (khoảng 14.000 con thú của 1.500 loài). Vườn Thú Berlin trẻ tuổi hơn rất nhiều và việc thành lập vườn bách thú này hàm ơn sự chia cắt nước Đức sau Đệ nhị thế chiến: Vì Vườn Bách thú Berlin nằm trong khu vực của quân đội Anh nên thủ đô của nước Cộng hòa Dân chủ Đức không có một cơ sở bách thú riêng. Vì thế mà Vườn thú Berlin được thành lập năm 1954 ở Friedrichsfelde. Với diện tích 160 hecta, vườn bách thú này là vườn bách thú lớn nhất châu Âu.
Nhiều vườn hoa khác có ảnh hưởng lớn đến gương mặt xanh của Berlin: bên cạnh các vườn hoa trong lâu đài Charlottenburg, lâu đài Glienicke và trên Đảo Công (Pfaueninsel) (hai địa điểm cuối là di sản văn hóa của UNESCO) là các vườn hoa lịch sử Lustgarten, Công viên Viktoria (Viktoriapark), Công viên Rudolph Wilde (Rudolph-Wilde-Park) và Công viên Schiller (Schillerpark) cũng như nhiều công viên nhân dân lớn khác. Ngoài ra ở phía nam của thành phố là Vườn Britz (Britzer Garten), đã là nơi Triển lãm Vườn Liên bang năm 1985. Đối trọng về phía đông là Công viên Marzahn (Erholungspark Marzahn) rộng 20 hecta, được khánh thành năm 1987 cho Triển lãm Vườn Berlin. Mới được kiến tạo là Công viên Bức tường (Mauerpark) trên dãi đất tử thần ngày xưa dọc theo Bức tường Berlin, Công viên Tự nhiên Südgelände (Natur-Park Südgelände), Công viên Ga GörlitzCông viên Vòng cung Spree (Spreebogenpark) gần Nhà ga Chính và khu vực các cơ quan của chính phủ.

Thời gian nhàn rỗi và nghỉ ngơi

Wannsee nhìn từ Cầu Wannsee
Vào khoảng 18% diện tích của thành phố Berlin là rừng. Phòng lâm nghiệp của thành phố quản lý diện tích rừng trong thành phố lớn nhất Đức (khoảng 29.000 hecta). Được biết đến nhiều nhất chính là Grunewald chạy dài từ chuỗi hồ Grunewald cho đến sông Havel về phía tây.
Hồ Wann Lớn (Große Wannsee) có sông Havel chảy xuyên qua chiếm một diện tích 260 hecta. Với hồ này, khu Zehlendorf, một khu dân cư được ưa chuộng, có khu nghỉ ngơi được yêu thích nhất Berlin bao gồm các loại thể thao trên mặt nước, đi thuyền du ngoạn và bãi tắm Warnsee.
Hồ Müggel (Müggelsee) và đồi Müggel nằm trong vùng đông nam của Berlin là điểm du ngoạn được yêu thích trong suốt cả năm. Bãi tắm Rahnsdorf là điểm thu hút khách trong mấy tháng mùa hè. Hồ Müggel là hồ lớn nhất của Berlin. Hồ chiếm diện tích 7,4 km² (dài nhất 4,3 km, rộng nhất 2,6 km) và sâu đến 8 m. Hồ thường được gọi là Hồ Mügel Lớn và nó có người anh em là Hồ Müggel Nhỏ chỉ có diện tích 0,16 km². Hồ này và các ngọn đồi Müggel nằm ở rìa phía nam, với độ cao 115,4 m là điểm cao nhất Berlin, thành hình trong kỷ Pleistocene. Tháp Müggel trên sườn đồi phía nam của đồi Müggel Nhỏ được xây mới từ 1959 đến 1961 sau khi tháp cũ đã bị cháy trong năm 1958. Đứng trên tháp này có thề nhìn thấy bao quát từ các hồ và các khu rừng trong vùng phụ cận cho đến hình dáng thành phố Berlin ở chân trời.

Thể thao

Olympiastadion
Ở Berlin có rất nhiều đội thể thao, nhưng phần lớn đều mang tính nghiệp dư. Tuy nhiên cũng có các đội thể thao chuyên nghiệp như đội bóng đá Hertha BSCUnion Berlin, đội khúc côn cầu trên băng Eisbären Berlin (dịch: "Bầy gấu trắng Berlin"), và đội bóng rổ Alba Berlin hay đội bóng bầu dục Berlin Thunder. Có đến ba đội bóng đại diện cho Berlin trong Giải vô địch bóng chuyền liên bang. Nổi tiếng nhất có lẽ là SCC Charlotteburg. Các vận động viên bóng nước của đội Wasserfreunde Spandau 04 thường xuyên là vô địch bóng nước Đức từ 1979 cho đến 2005, chỉ với một ngoại lệ duy nhất trong năm 1993.
Hàng năm, ở Berlin được tổ chức giải Ma-ra-tông nổi tiếng thế giới Berlin-Marathon[63]. Trận chung kết của Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 đã diễn ra tại đây vào ngày 9 tháng 7 năm 2006[64]. Sân vận động Olympia đã được sửa chữa lại toàn bộ nhân dịp này. Trong năm 2009 Giải vô địch điền kinh thế giới 2009 sẽ được tổ chức tại đấy.

Hạ tầng cơ sở

Giao thông công cộng

Tàu điện ngầm ở Berlin
Phục vụ cho giao thông công cộng nội thành là 15 đường S-Bahn (do Công ty TNHH S-Bahn Berlin vận hành) cũng như là 9 đường tàu điện ngầm, 22 đường tàu điện, 150 tuyến xe buýt và 6 tuyến phà (tất cả đều được vận hành bởi Công ty Các Xí nghiệp Giao thông Berlin Berliner Verkehrsbetriebe – BGV) [55].
Nội thành được cắt xuyên theo hướng đông – tây bởi đường tàu điện được xây dựng trên cao, chạy song song với S-Bahn cũng như với giao thông khu vực và xa giao thông xa. Đường tàu điện này nối Nhà ga Berlin Wetskreuz với Nhà ga Berlin Ostkreuz, chạy qua các nhà ga Berlin-Charlottenburg, Berlin Zoologischer Garten, Nhà ga Chính Berlin, Friedrichstraße, Quảng trường Alexander và Nhà ga Đông (Ostbahnhof). Tuyến tàu điện ngầm số 9 đảm nhận phần lớn nhất của lượng hành khách giao thông trên trục bắc – nam, được bổ sung bởi tuyến S-Bahn bắc – nam một phần chạy ngầm dưới đất. Tuyến S-Bahn cắt tuyến tàu điện nói trên tại Nhà ga Friedrichstraße. Bao bọc nội thành là tuyến tàu điện vòng đai. Tất cả các tuyến khác đều cắt ngang tuyến này[65].
Vào ngày 28 tháng 5 năm 2006 Nhà ga Chính Berlin được đưa vào sử dụng. Với nhà ga này, giao thông tàu hỏa vùng và xa lần đầu tiên có một nhà ga trung tâm ở Berlin theo cái gọi là Phương án Nấm. Từ thời điểm đấy, giao thông xa phần lớn được dẫn từ Nhà ga Südkreuz Berlin dưới Đường hầm Vườn thú qua Nhà ga Chính berin cho đến Nhà ga Gesundbrunnen Berlin. Nhà ga nối toa tàu Seddin ở phía nam gần Potsdam cũng là một giao điểm đường tàu hỏa. Các tuyến đường tàu hỏa của Công ty Tàu hỏa Đức (Deutsche Bahn) và 2 tuyến đường của InterConnex phục vụ cho giao thông vùng[66].

Đường cao tốc

Nội thành được bao bọc từ phía tây bởi một vòng cung xa lộ (A 100 – vòng đai thành phố Berlin), trong tương lai sẽ được bổ sung thành một vòng tròn vành đai và sẽ là một vành đai xa lộ thành phố.
Từ A 100 có các đường cao tốc sau đây trong phạm vi thành phố di về hướng Vòng đai Berlin:
  • A 111 đi hướng tây-bắc (hướng HamburgRostock)
  • A 113 đi hướng đông-nam (hướng DresdenCottbus). Đường cao tốc này hiện nay chỉ mới bắt đầu ở Ngã ba Treptow, ở phía cực đông-nam của thành phố. Cho đến năm 2007 khoảng đường từ giao lộ với A 100 (bắt đầu từ Ngã ba Neuköln) cho đến ranh giới thành phố Berlin sẽ được xây dựng xong).
  • A 115 đi hướng tây-nam (hướng đi HanoverLeipzig).
Thêm vào đó còn có đường cao tốc A 114 từ phía bắc thành phố đi hướng ra đường cao tốc A 10 (đi Stettin).

Cảng hàng không

Vị trí các sân bay của Berlin
Thuộc về Berlin là ba sân bay Tegel, TempelhofSchönefeld, mặc dù sân bay Schönefeld nằm trên lãnh thổ của bang Brandenburg[67]. Hiện tại Berlin và Brandenburg đang có ý định mở rộng sân bay Schönefeld, xây dựng nơi này trở thành sân bay lớn nhất nước Đức, (sân bay lớn nhất nước Đức hiện nay là Cảng hàng không Frankfurt-Main), một mặt để giảm tải cho sân bay Tegel và Tempelhof nằm trong trung tâm thành phố và cũng như đóng cửa hai sân bay này, mặt khác để tăng thêm sức cạnh trạnh nội địa và quốc tế của sân bay Schönefeld và đem lại lợi nhuận cho Berlin và Brandenburg. Tuy nhiên kế hoạch xây dựng này hiện tại đang gặp phải nhiều trở ngại, chưa thể thực hiện được bởi sự phản đối của nhiều người dân cư ngụ tại chỗ. Những người này đã nộp đơn kiện chống lại dự án xây dựng cảng hàng không thủ đô này. Vào ngày 16 tháng 3 năm 2006 Tòa án Hành chánh Liên bang tại Leipzip đã cho phép xây dựng cảng hàng không lớn này dưới nhiều điều kiện hạn chế. Vì thế nên có thể bắt đầu khởi công xây dựng vào cuối 2006 đầu 2007.
Với Phi trường Johannisthal khánh thành vào năm 1909, Berlin đã có phi trường đầu tiên của nước Đức (đóng cửa vào năm 1995).

Giao thông đường thủy nội địa

Berlin nằm trong trung tâm của khu vực đường nước liên bang phía Đông. Giao thông thủy có ba đường thủy từ và đến Berlin, trong đó quan trọng nhất là đường liên kết thông qua sông Havel, kênh đào Elbe-Havelkênh đào Mittelland đi đến sông ElbeBiển Bắc hay sông Wesersông Rhein. Chỉ được mở rộng có giới hạn và có mật độ giao thông ít hơn là đường thủy Spree-Oder như là đường liên kết qua sông Spree đến sông Oder và đến Schlesien.
Bốn cảng có thể sử dụng để chuyển tải: Cảng Đông (Osthafen), Cảng Kölln Mới (Neukölln), Cảng Nam cũng như Cảng Tây. Cảng cuối cùng nằm trong vùng Berlin-Moabit, vùng ranh của nội thành Berlin và là cảng lớn và quan trọng nhất trong số bốn cảng. Cảng bao gồm một trung tâm hàng hóa và tiếp vận (logistics) tạo khả năng chuyển tải giữa tàu thủy nội địa, tàu hỏa và xe tải.

Điện lực

Việc cung cấp điện ở Berlin có một vài tính đặc biệt. Trong Đệ nhị thế chiến đã có kế hoạch cung cấp điện cho Berlin từ nhà máy điện Dessau thông qua một đường dây điện cao thế một chiều ngầm dưới đất. Công việc xây dựng được bắt đầu vào năm 1943 nhưng không còn có thể đưa vào sử dụng.
Trong thời gian chia cắt, Tây-Berlin bị cắt khỏi mạng lưới điện của vùng chung quanh. Thực hiện việc cung cấp điện là các nhà máy nhiệt điện nằm trong khu vực của thành phố như nhà máy điện Rueter-West, Wilmersdorf và các nhà máy phát điện khác. Để làm đệm cho những lúc cao tải, nhiều ắc quy đã được lắp đặt trong một số nhà máy điện từ những năm 1980. Thông qua máy đổi chiều chúng được nối với mạng lưới điện và trong thời gian thấp tải được nạp điện, trong thời gian cao tải sẽ phát điện.
Mãi đến 1993 đường dây điện kết nối với vùng chung quang bị cắt vào năm 1952 mới được tái kết nối. Trong các quận phía tây của Berlin gần như tất cả các đường dây điện đều được chôn ngần dưới đất,chỉ có một đường dây 380 kV và một đường dây 110 kV là đường dây trên cao, dẫn từ nhà máy điện Rueter ra đến đường cao tốc thành phố. Xuyên qua Berlin là đường dây điện xoay chiều 380 kV dài nhất Đức và có nhiều khả năng là đường dây điện đắt tiền nhất Đức.

Nghiên cứu và đào tạo

Đại học và nghiên cứu

Tòa nhà chính của Đại học Humbolt Berlin
Berlin là nơi tập trung các cơ sở khoa học và nghiên cứu đông nhất châu Âu. Trong thành phố tròn 140.000 sinh viên học tại tổng cộng 4 trường đại học tổng hợp (Universität), 3 trường đại học nghệ thuật, 7 trường đại học thực hành (Fachhochschule) và 10 trường đại học tư nhân[68]. Chỉ riêng 4 trường đại học tổng hợp Berlin đã có 112.000 sinh viên. Đó là các trường:
Khoa Y của trường Đại học Tổng hợp Tự do và của trường Đại học Humbolt được sáp nhập vào năm 2003 trở thành Charité – Universitätsmedizin Berlin, là khoa Y lớn nhất châu Âu với 4 cơ sở.
Hơn 50.000 nhân viên giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại hơn 70 cơ sở nghiên cứu độc lập với các trường đại học và do nhà nước tài trợ. Các tổ chức nghiên cứu lớn trên bình diện quốc gia cũng có nhiều viện tại Berlin như Viện Fraunhofer, Helmholtz, Leibnitz và Max Plack cũng như là nhiều bộ liên bang khác nhau với tổng cộng 8 viện nghiên cứu. Phần lớn các cơ sở nghiên cứu đều tập trung ở Berlin-Buch, Berlin-Charlottenburg, Berlin-Dahlem, Berlin-Mitte cũng như là ở địa điểm tập trung dành cho khoa học và kinh tế ở Adlershof: WISTA.
Hằng năm có tròn 1,8 tỉ Euro tiền nhà nước được đầu tư hỗ trợ, hơn 13% trong số các đăng ký bằng phát minh ở Đức đến từ Berlin.

Hệ thống trường phổ thông

Trường phổ thông cơ sở ở Berlin bao gồm 6 lớp, tiếp theo đó là hệ thống trường phổ thông trung học được chia làm ba loại: Hauptschule (hết lớp 9), Realschule (hết lớp 10) và Gymnasium (hết 12). Trong tháng 2 năm 2004 một đạo luật giáo dục mới được thông qua. Một số cải cách chính bao gồm:
  • Rút ngắn thời gian học hết phổ thông từ 13 năm xuống còn 12 năm
  • Giảm tuổi nhập học xuống còn năm tuổi rưỡi
  • Thi tốt nghiệp phổ thông (Zentralabitur) bao gồm tiếng Đức (văn), toán và ngoại ngữ thứ nhất
  • Tự do báo chí cho các loại báo của học sinh

Tham khảo

  1. ^ “Weiterhin steigende Bevölkerungszahl in Berlin”. Amt für Statistik Berlin-Brandenburg (bằng tiếng Đức). Tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2011.
  2. ^ Prefixes for vehicle registration were introduced in 1906, but often changed due to the political changes after 1945. Vehicles were registered under the following prefixes: "I A" (1906– April 1945; devalidated on 11 August 1945); no prefix, only digits (since July till August 1945), "БГ" (=BG; 1945–1946, for cars, lorries and busses), "ГФ" (=GF; 1945–1946, for cars, lorries and busses), "БM" (=BM; 1945–1947, for motor bikes), "ГM" (=GM; 1945–1947, for motor bikes), "KB" (i.e.: Kommandatura of Berlin; for all of Berlin 1947–1948, continued for West Berlin until 1956), "GB" (i.e.: Greater Berlin, for East Berlin 1948–1953), "I" (for East Berlin, 1953–1990), "B" (for West Berlin as of 1 July 1956, continued for all of Berlin since 1990).
  3. ^ INSEE. “Population des villes et unités urbaines de plus de 1 million d'habitants de l'Union européenne” (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2008.
  4. ^ “City Profiles Berlin”. Urban Audit. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2008.
  5. ^ “Gren Berlin”. Lonely Planet. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
  6. ^ “Documents of German Unification, 1848–1871”. Modern History Sourcebook. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2008.
  7. ^ “Topographies of Class: Modern Architecture and Mass Society in Weimar Berlin (Social History, Popular Culture, and Politics in Germany).”. /www.h-net.org. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
  8. ^ “Berlin Wall”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2008.
  9. ^ “Diplomatic Berlin”. Deutschland Online. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2009.
  10. ^ “Berlin – Capital of Germany”. German Embassy in Washington. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2008.
  11. ^ Leading cities in cultural globalisations/Media, lấy ngày 27/6/2007
  12. ^ Satellite Image Berlin, Google Maps, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  13. ^ a ă Climate figures, World Weather Information Service, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  14. ^ a ă Giles MacDonogh, Frederick the Great: A Life in Deed in Letters, các trang 13-16.
  15. ^ Robert B. Asprey, Frederick the Great: The Magnificent Enigma, trang XV
  16. ^ Norman Davies, Europe: a history, trang 648
  17. ^ Robert Reinhold Ergang, The Potsdam führer, Frederick William I: father of Prussian militarism, trang 15
  18. ^ Robert Reinhold Ergang, The Potsdam führer, Frederick William I: father of Prussian militarism, trang 54
  19. ^ Robert B. Asprey, Frederick the Great: The Magnificent Enigma, các trang 12-13.
  20. ^ Giles MacDonogh, Frederick the Great: A Life in Deed in Letters, trang 7
  21. ^ Robert Reinhold Ergang, The Potsdam führer, Frederick William I: father of Prussian militarism, trang 56
  22. ^ T. C. W. Blanning, The Culture of Power and the Power of Culture: Old Regime Europe 1660-1789, trang 320
  23. ^ Robert B. Asprey, Frederick the Great: The Magnificent Enigma, trang 117
  24. ^ Reed Browning, The War of the Austrian Succession, trang 41
  25. ^ Reed Browning, The War of the Austrian Succession, trang 107
  26. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 51
  27. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 72
  28. ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 4
  29. ^ Robert B. Asprey, Frederick the Great: The Magnificent Enigma, trang 162
  30. ^ a ă â David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, các trang 232-237.
  31. ^ T. C. W. Blanning, The Culture of Power and the Power of Culture: Old Regime Europe 1660-1789, trang 213
  32. ^ Giles MacDonogh, Frederick the Great: A Life in Deed in Letters, trang 122
  33. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 248
  34. ^ Giles MacDonogh, Frederick the Great: A Life in Deed in Letters, trang 213
  35. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang IX
  36. ^ T. C. W. Blanning, The Culture of Power and the Power of Culture: Old Regime Europe 1660-1789, trang 289
  37. ^ Giles MacDonogh, Frederick the Great: A Life in Deed in Letters, trang 297
  38. ^ Giles MacDonogh, Frederick the Great: A Life in Deed in Letters, trang 262
  39. ^ Robert B. Asprey, Frederick the Great: The Magnificent Enigma, trang 467
  40. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 191
  41. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang XVIII
  42. ^ Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 132
  43. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 297
  44. ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 438
  45. ^ Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 231
  46. ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 470
  47. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 254
  48. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, các trang 25-26.
  49. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 250
  50. ^ Christopher Duffy, Red storm on the Reich: the Soviet march on Germany, 1945, trang 307
  51. ^ Agreement to divide Berlin, FDR-Library, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  52. ^ Berlin Airlift / Blockade, Western Allies Berlin, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  53. ^ Berlin statistical figures(German), Statistisches Landesamt Berlin, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  54. ^ Foreign residents of Berlin(German), Statistisches Landesamt Berlin, Truy cập 5 tháng 11 năm 2006
  55. ^ a ă â Berlin fact sheetPDF (99.1 KB), www.berlin.de, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  56. ^ Bundespräsident Horst Köhler, www.bundespraesident.de, Truy cập 12 tháng 11 năm 2006
  57. ^ URBAN regeneration, an European Commission initiative, ErasmusPC, Truy cập 12 tháng 3 năm 2007
  58. ^ Gross domestic product Berlin, Statistische Ämter des Bundes und der Länder, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  59. ^ Media Companies in Berlin and Potsdam, www.medienboard.de, Truy cập 7 tháng 11 năm 2006
  60. ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 686
  61. ^ Peter Joseph Lenné, Senate Department of Urban Development, Truy cập 18 tháng 11 năm 2006
  62. ^ Hauptstadt-Zoo beliebtester Tierpark[liên kết hỏng](German), RBB online, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  63. ^ Berlin Marathon, www.scc-events.com, Truy cập 12 tháng 11 năm 2006
  64. ^ 2006 FIFA World Cup Final in Berlin, Fifaworldcup Official Site, Truy cập 18 tháng 11 năm 2006
  65. ^ Route planner, BVG (Berlin Transport Authority), Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  66. ^ Map S-Bahn Stadtbahn [liên kết hỏng], www.s-bahn-berlin.de, Truy cập 12 tháng 11 năm 2006
  67. ^ Airport Berlin Brandenburg International, Airports Berlin, Truy cập 20 tháng 10 năm 2006
  68. ^ Metropolis of Sciences[liên kết hỏng], Berlin Partner GmbH, Truy cập 7 tháng 11 năm 2006

Liên kết ngoài




Kênh đào Kiel

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Các cửa cống tại Brunsbüttel kết nối kênh đào với cửa sông Elbe, từ đó tới biển Bắc
Bản đồ tuyến kênh đào
Kênh đào Kiel (tiếng Đức: Nord-Ostsee-Kanal, NOK), được gọi là Kaiser-Wilhelm-Kanal cho đến năm 1948, là một kênh đào dài 98 kilômét (61 mi) tại bang Schleswig-Holstein của Đức.
Kênh đào kết nối biển Bắc (tại Brunsbüttel) đến biển Baltic (tại Kiel-Holtenau). Trung bình, các tàu sẽ rút ngắn được 250 hải lý (460 km) nếu sử dụng kênh đào Kiel thay vì đi vòng qua bán đảo Jutland. Kênh đào không chỉ giúp các tàu biển tiết kiệm được thời gian đi lại mà còn giúp chúng tránh được nguy hiểm do bị bão biển tấn công. Kênh đào Kiel là thủy đạo nhân tạo bận rộn nhất trên thế giới; trên 43.000 tàu lớn đã đi qua kênh đào trong năm 2007, không kể các tàu nhỏ.[1][2]
Ngoài hai lối vào, tại Oldenbüttel, kênh Kiel nối với sông Eider có khả năng thông hành bởi kênh đào Gieselau.[3]

Lịch sử

Công trình kết nối đầu tiên giữa biển Bắc và biển Baltic đã được xây dựng trong lúc khu vực nằm dưới quyền cai trị của Đan Mạch-Na Uy. Nó được gọi là kênh đào Eider, kênh đào này tận dụng sông Eider kể nối giữa hai biển. Eiderkanal được hoàn thành trong thời gian trị vì của Christian VII của Đan Mạch năm 1784 và là một phần dài 43 kilômét (27 mi) của một thủy đạo dài 175 kilômét (109 mi) từ Kiel đến cửa sông Eider tại Tönning trên bờ biển phía tây. Kênh đào này chỉ rộng 29 mét (95 ft) và sâu ba mét, vì thế chỉ có các tàu có trọng tải dưới 300 tấn mới có thể đi qua.
Bản đồ kênh Kiel tại Schleswig-Holstein
Trong thế kỷ 19, sau khi Schleswig-Holstein nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền Phổ (từ 1871 là Đế quốc Đức) sau Chiến tranh Schleswig lần thứ hai năm 1864. Hải quân Đế quốc Đức muốn kết nối các căn cứ của mình tại biển Baltic và biển Bắc mà không phải đi qua Đan Mạch để đảm bảo an ninh, ngoài ra, áp lực thương mại cũng đã góp phần khiến người Đức hình thành một con kênh mới.
Tháng 6 năm 1887, việc xây dựng bắt đầu tại Holtenau, gần Kiel. Việc xây dựng kênh đào cần đến 9.000 nhân công trong tám năm. Ngày 20 tháng 6 năm 1895, kênh đào chính thức được Hoàng đế Wilhelm II khánh thành với việc đi từ Brunsbüttel đến Holtenau. Ngày hôm sau, một buổi lễ được tổ chức tại Holtenau và tại đây Wilhelm II đã đặt cho kênh tên gọi Kaiser Wilhelm Kanal (theo tên Hoàng đế Wilhelm I), và đặt viên đá cuối cùng.[4] Việc khánh thành kênh đào được đạo diễn người Anh Birt Acres quay phim và những cảnh còn lại trong thước phim này được bảo quản tại Bảo tàng Khoa học tại Luân Đôn.[5]
Để đáp ứng lưu lượng giao thông ngày càng tăng và nhu cầu của Hải quân Đế quốc Đức, từ năm 1907 đến 1914, kênh đào đã được mở rộng. Việc mở rộng kênh đào cho phép thiết giáp hạm có kích cỡ như Dreadnought đi qua. Điều này có nghĩa rằng các ầu chiến này có thể đi từ biển Baltic đến biển Bắc và ngược lại mà không cần vòng qua Đan Mạch. Các dự án mở rộng đã hoàn thành với việc lắp đặt hai cửa cống lớn hơn tại Brunsbüttel và Holtenau.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hòa ước Versailles đã quốc tế hóa kênh đào, song Đức vẫn có quyền quản lý. Chính quyền Adolf Hitler đã bác bỏ vị thế quốc tế của kênh đào vào năm 1936. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kênh đào tái mở cửa cho tất cả các phương tiện thủy.

Hoạt động

Có những quy tắc giao thông chi tiết cho kênh đào. Mỗi tàu lớn đi qua được phân loại vào một trong sáu nhóm phương tiện tùy theo kích thước. Các tàu lớn hơn bắt buộc phải chấp nhận người lái tàu chuyên môn qua kênh đào, và trong một số trường hợp phải có sự hỗ trợ của một tàu kéo. Hơn nữa, có các quy định liên quan đến các tàu đang đi và đang đến. Các tàu lớn hơn có thể được yêu cầu phải bỏ neo tại các cọc buộc thuyền để cho phép tàu đang tới di chuyển.
Nhìn về phía tây-tây nam từ phòng đợi đuôi tàu của du thuyền
MS Norwegian Dream
Tuy nhiên, nhiều du thuyền hiện đại không thể đi qua kênh đào này do vượt giới hạn cho phép dưới gầm cầu, MS Norwegian Dream có các ống khói và cột buồm (cột cờ, cột ăngten) đặc biệt và có thể được hạ xuống trong khi đi quan kênh đào. Minerva của Swan Hellenic, tàu Balmoral của Fred Olsen Cruises, Regatta của Oceania Cruises, và MS Prinsendam của Holland America Line cũng có thể đi qua kênh đào.
Tàu Gorch Fock của Hải quân Đức được thiết kế để có thể hạ thấp cột buồm (thành bậc), đặc biệt là để cho tàu có thể đi qua kênh đào Kiel, nếu không con tàu sẽ quá cao đối với các cầu bắc qua kênh.

Vượt qua

Một vài tuyến đường sắt và đường bộ liên bang (AutobahnenBundesstraßen) đi qua kênh đào bằng 11 cầu lớn. Các cầu này có khoang trống cao 42 mét (138 ft) và cho phép các tàu cao đến 40 mét (130 ft) đi qua. Cầu cổ nhất vẫn được sử dụng là Cầu cao Levensau từ năm 1893; tuy nhiên, cây cầu sẽ phái được thay thế khi mở rộng kênh. Từ phía tây (Brunsbüttel) đến phía đông (Holtenau), có các cầu là:
Các phương tiện địa phương có thể sử dụng 14 tuyến phà và một hầm đi bộ. Đáng chú ý nhất là cầu băng tải (tiếng Đức: Schwebefähre) bên dưới cầu cao Rendsburg. Tất cả các tuyến phà do Cơ quan Kênh đào phụ trách và phục vụ miễn phí.

Tham khảo

  1. ^ Kiel Canal official web-site
  2. ^ “World's Busiest Artificial Waterway Set to Grow”. Spiegel. 27 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2012.
  3. ^ Sheffield, Barry (1995). Inland Waterways of Germany. St Ives: Imray Laurie Norie & Wilson. ISBN 0-85288-283-1.
  4. ^ “Kiel-Canal History”. UCA United Canal Agency GmbH. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011.
  5. ^ “Opening of the Kiel Canal”. Screenonline. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2007.

Liên kết ngoài

Tọa độ: 53°53′B 9°08′Đ

No comments:

Post a Comment