Monday, June 9, 2014

Chào ngày mới 10 tháng 6


Friedrich I. Barbarossa.jpg









CNM365 Chào ngày mới 10 tháng 6 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Bồ Đào Nha; ngày Bãi nô tại Guyane thuộc PhápNăm 1190Cuộc thập tự chinh thứ ba: Hoàng đế Friedrich I (tượng bán thân) của La Mã Thần thánh chết đuối trên sông Göksu thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay trong khi đang dẫn quân tiến đến Jerusalem.Năm 1829Cuộc đua thuyền đầu tiên giữa Đại học OxfordĐại học Cambridge diễn ra trên sông Thames tại Luân Đôn, Anh.Năm 1965Chiến tranh Việt Nam: Quân Giải phóng tiến công quân Việt Nam Cộng hòa tại Đồng XoàiNăm 1967 – Nguyên mẫu chiến đấu cơ MiG-23 của Liên Xô tiến hành chuyến bay thử nghiệm đầu tiên.

Friedrich I của Đế quốc La Mã Thần thánh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Friedrich I Barbarossa
Friedrich-barbarossa-und-soehne-welfenchronik 1-1000x1540.jpg
Friedrich Barbarossa ngồi ở giữa, hai bên là các con ông, Hoàng đế Heinrich VI (trái) và Quận công Friedrich VI (phải).'
Hoàng đế La Mã Thần thánh
Tại vị 1155-1190
Đăng quang 18 tháng 6 1155, Roma
Tiền nhiệm Lothar III Vua hoặc hoàng đế
Kế nhiệm Heinrich VI Vua hoặc hoàng đế
Vua Ý
Tại vị 1155–1190
Đăng quang khoảng. 1155, Pavia
Vua Đức
chính thức Vua của người La Mã
Tại vị 1152–1190
Đăng quang 9 tháng 3 1152, Aachen
Tiền nhiệm Konrad III Vua hoặc hoàng đế
Kế nhiệm Heinrich VI Vua hoặc hoàng đế
Vua Bourgogne
Tại vị 1152 – 1190
Đăng quang 30 tháng 6 năm 1178, Arles
Thông tin chung
Hoàng hậu
Hậu duệ
Hoàng tộc Nhà Hohenstaufen
Thân phụ Friedrich II, Quận công xứ Schwaben
Thân mẫu Judith xứ Bayern
Sinh 1122
Mất 10 tháng 6 năm 1190 (67–68 tuổi)
Sông Göksu, Thổ Nhĩ Kỳ
An táng Nhà thờ Thánh Phêrô tại Antioch
Thánh đường Týros
Tarsus
Tôn giáo Công giáo La Mã
Friedrich I Barbarossa[1] (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng hà. Ông được bầu làm vua nước Đức tại Frankfurt vào ngày 4 tháng 3 năm 1152 và lên ngôi tại Aachen ngày 9 tháng 3, lên ngôi vua nước Ý tại Pavia năm 1154, và cuối cùng được Giáo hoàng Ađrianô IV phong làm Hoàng đế La Mã vào ngày 18 tháng 6 năm 1155. Hai năm sau, tên gọi "thần thánh" (sacrum) mới xuất hiện lần đầu tiên trong một văn bản liên quan tới đế quốc của ông.[2] Về sau, ông lên ngôi vua xứ Bourgogne tại Arles ngày 30 tháng 6 năm 1178. Người ta gọi ông là Barbarossa (có nguồn gốc từ tiếng Ý nghĩa là "râu đỏ", từ các thành phố miền bắc Ý nơi ông cố gắng áp đặt nền của cai trị của mình), do ông có bộ râu màu đỏ và dài.[3] Trong tiếng Đức, ông được gọi là Kaiser Rotbart, với ý nghĩa tương tự.
Trước khi lên ngôi, ông lãnh quyền thừa kế Công quốc Schwaben (1147 – 1152, với danh hiệu Friedrich III). Ông là con trai của Friedrich II, Quận công xứ Schwaben, thuộc dòng dõi nhà Hohenstaufen. Mẹ ông là Quận chúa Judith xứ Bayern, con gái của Quận công Heinrich IX xứ Bayern, thuộc nhà Welf đối nghịch, và như vậy ông xuất thân từ hai gia đình thế lực nhất nước Đức, khiến cho ông trở thành lựa chọn khả dĩ với các vị Tuyển hầu tước Đức. Do chế độ phong kiến phân quyền nên vương quyền tại Đức rất mềm mỏng và trong thời gian trị vì của mình, Barbarossa chú trọng đến tình hình Ý. Năm 1154, ông phát động một chiến dịch quân sự ở Ý và phục ngôi cho Giáo hoàng Êugêniô III. Sau khi trở về Đức, ông thực hiện chính sách xoa dịu nhằm loại trừ các đối thủ tiềm ẩn của mình. Sau đó, ông chinh chiến tại Ý bốn lần nữa và thu được những kết quả lẫn lộn. Trở về Đức sau thất bại của chiến dịch Ý lần thứ năm vào năm 1777, ông trả đũa em họ mình là Heinrich Sư tử, một lãnh chúa có thế lực đã không hỗ trợ ông trong các cuộc chiến ở Ý, bằng việc tước đoạt các lãnh địa của ông này. Song vị hoàng đế không thể thống nhất nước Đức thành một quốc gia tập quyền như Anh.
Ngoài ra, ông cũng giành thắng lợi trong một số chiến dịch quân sựBöhmen, Ba Lan, Hungary. Năm 1189, vị hoàng đế cùng các vua Anh và Pháp tiến hành cuộc thập tự chinh thứ ba nhằm giành lại vùng Đất Thánh từ tay người Hồi giáo. Sau khi kéo quân qua lãnh thổ Hy Lạp với sự cho phép của Hoàng đế Đông La Mã với sự cho phép, ông tiến vào Tiểu Á và đập tan quân Thổ Seljuk trong một trận đánh lớn ở Konja. Nhưng rồi, ông bị chết đuối khi vượt sông Salelph ở miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Friedrich được đánh giá là vị hoàng đế vĩ đại nhất của triều Hohenstaufen, một lãnh đạo chính trị sắc sảo và thực dụng và là một nhà cai trị có tài, đồng thời là một viên tướng thao lược.[4][5] Ông được thần dân mến mộ đến mức mà trong vòng nhiều năm sau khi ông băng hà, những người nông dân không tin là ông đã mất, mà đang ngủ trong hang động trên một ngọn núi ở Đức, với dũng sĩ hầu cận xung quanh ông.[3][6] Về sau, truyền thuyết về Barbarossa đã trở nên gắn bó với chủ nghĩa dân tộc Đức vào thế kỷ 19.[7]

Thời trẻ

Friedrich chào đời năm 1122, năm 1147 ông trở thành Quận công xứ Schwaben, rồi chỉ một thời gian ngắn sau, tháp tùng chú của mình là vua Konrad III của Đức, tiến hành cuộc Thập tự chinh thứ hai. Cuộc thập tự chinh thất bại thảm hại, nhưng Friedrich lại nổi bật lên, và giành được sự tin tưởng tuyệt đối từ người chú của mình. Khi vua Konrad qua đời vào tháng 2 năm 1152, chỉ có Friedrich và Giám mục Bamberg có mặt tại giường bệnh của ông, và chứng thực rằng Konrad trao vương hiệu lại cho Friedrich, để nối nghiệp mình. Friedrich Barbarossa theo đuổi ngai vàng một cách đầy nhiệt tình, và tới ngày 4 tháng 3, các Tuyển hầu tước bầu ông làm vua nước Đức. Ông lên ngôi tại Aachen vài ngày sau, khi đó ông 28 tuổi.[8] Khi đó, có sự phân biệt giữa việc được chọn lên làm "vua người La Mã", nhưng lên ngôi tại Đức, và với việc đăng quang tại Rôma, và chính thức nhận đế hiệu. Ông nhận vương miện Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh từ Giáo hoàng, tại Rôma ngày 18 tháng 6 năm 1155.[9] Friedrich I là người nhà Hohenstaufen theo phía cha, và là người nhà Welf theo phía mẹ, tức là hai dòng họ hùng mạnh nhất nước Đức khi đó.
Friedrich I. Barbarossa
Lúc đó vương quyền rất yếu, vua không có thực quyền. Nhà vua được các công vương bầu lên, nhưng chỉ cai quản lãnh địa riêng của mình, và không thực sự có quyền gì trên các phần khác của vương quốc. Vương miện hoàng đế được truyền từ dòng họ này sang dòng họ khác, để ngăn ngừa một dòng họ nào chiếm lấy làm của riêng mình. Khi Friedrich I Hohenstaufen lên ngôi vua năm 1152, vương quyền thực tế đã vô chủ trong 25 năm, và ở một chừng mực nào đó là hơn 80 năm. Tài lực khi đó tập trung chủ yếu ở các thành phố giàu có miền bắc Ý, nơi chừng nào theo danh nghĩa vẫn thuộc về hoàng đế Đức[10] Dòng dõi Salia chấm dứt khi vua Heinrich V từ trần năm 1125. Các thân vương Đức không chịu trao vương miện cho cháu vua là quận công Schwaben, vì sợ rằng ông này sẽ tập trung vương quyền của Heinrich V. Thay vào đó, họ chọn Lothiar (1125 - 1137), ông này vướng vào vòng tranh chấp với nhà Hohenstaufen, và thông gia với nhà Welf. Một người của nhà Hohenstaufen giành được ngai vàng là Konrad III (1137 - 1152), và khi Friedrich Barbarossa kế nhiệm chú mình, ông có cơ hội tốt để chấm dứt xự xung khắc giữa hai nhà, vì ông xuất thân từ cả hai nhà. Nhưng quận công Welf xứ Sachsen là Heinrich Sư tử không hài lòng. Ông tiếp tục coi dòng vua Hohenstaufen là địch thủ. Barbarossa có các lãnh địa Schwaben và Franken, có cá tính mạnh mẽ, nhưng cũng chỉ có thế, để xây dựng nên đế quốc của mình.[11]
Nước Đức mà Friedrich muốn thống nhất khi đó là một tập hợp chắp vá gồm hơn 1.600 tiểu quốc, mỗi tiểu quốc cai trị bởi một ông hoàng. Một vài tiểu quốc như Bayern và Sachsen tương đối lớn, đa phần còn lại nhỏ đến mức khó mà chỉ ra được trên bản đồ.[12] Danh vị dành cho vua Đức khi đó là "Caesar", "Augustus" và "hoàng đế người La Mã". Lúc Friedrich đăng quang, các danh tước đó chỉ còn là hư danh[13] Friedrich là một người thực tế, ông đối tiếp các vương hầu Đức trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Không giống như Henry II của Anh, Friedrich không tìm cách chấm dứt chế độ phong kiến Trung Cổ, mà tìm cách hồi phục nó, nhưng điều này vượt quá khả năng của ông. Những phe phái lớn nhất trong cuộc nội chiến tranh giành ảnh hưởng tại Đức là Giáo hoàng, Hoàng đế, phe Ghibellini - tức nhà Hohenstaufen, và phe Guelfo - tức nhà Welf. Không phe nào trong số đó nổi trội hẳn lên được.[14]

Trỗi dậy

Gia huy nhà Hohenstaufen
Mong muốn khôi phục Đế quốc trở lại kỷ nguyên hoàng kim dưới thời các đại đế KarlOtto I, vị tân hoàng đế nhận rõ rằng tái lập trật tự tại Đức là điều kiện tiên quyết để thiết lập vương quyền trên đất Ý. Bằng cách ra các chỉ dụ hòa bình, ông ban cho giới quí tộc nhiều nhân nhượng rộng rãi. Đối ngoại, Friedrich I can thiệp vào cuộc nội chiến tại Đan Mạch và bắt đầu đàm phán với Hoàng đế Đông La MãManuel I Comnenus. Có lẽ cũng thời gian này, ông được phép của Giáo hoàng hủy bỏ cuộc hôn nhân của ông với Adelheid xứ Vohburg, với lý do họ hàng gần (ông tổ 5 đời của ông là anh trai của bà tổ 5 đời của Adelheid). Ông tiếp đó cố gắng tiến hành một cuộc hôn nhân với triều đình Constantinopolis, nhưng không thành công. Khi lên ngôi, ông báo tin cho Giáo hoàng Êugêniô III, nhưng sao lãng không yêu cầu Giáo hoàng chuẩn y. Tháng 3 năm 1153, Friedrich ký kết hiệp ước với Giáo hoàng, theo đó để đổi lại việc chấp thuận để ông lên ngôi, ông hứa sẽ bảo vệ Giáo hoàng, không chấp thuận hòa ước với vua Roger II xứ Sicilia hay các đối thủ khác của Giáo hội mà không có sự chấp thuận của Giáo hoàng, và giúp Giáo hoàng duy trì kiểm soát kinh thành Rôma.[15]

Cai trị và chiến tranh ở Ý

Friedrich Barbarossa tiến hành sáu cuộc chinh phạt vào Ý. Cuộc chinh phạt đầu tiên, ông được trao vương miện Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh tại Rôma bởi Giáo hoàng Ađrianô IV, sau việc quân đội Hoàng gia đàn áp lực lượng nổi dậy công xã, theo chủ nghĩa cộng hòa, lãnh đạo bởi Arnold của Brescia. Trong chiến dịch năm 1155 tại Rôma, Friedrich nhanh chóng liên minh với Giáo hoàng Ađrianô IV để giành lại thành phố. Lực lượng chống đối chủ yếu theo Arnold của Brescia, ông này vốn theo học với nhà thần học Peter Abelard. Arnold bị bắt, bị treo cổ với tội phản nghịch và bạo loạn.[16]
Friedrich Barbarossa trong một cuốn biên niên sử ở thế kỷ 13
Friedrich Barbarossa rời nước Ý vào mùa thu năm 1155 để chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh mới và còn gay go hơn nữa.
Tình hình hỗn loạn lúc đó lan tràn tại Đức, đặc biệt là tại xứ Bayern, nhưng hòa bình đã được vãn hồi bởi các hoạt động mạnh mẽ, nhưng có tính xoa dịu của Friedrich. Đất quận công Bayern được chuyển từ tay bá tước Áo là Heinrich II Jasomirgott, cho người bà con đáng gờm của Friedrich là Heinrich Sư tử, quận công xứ Sachsen, thuộc nhà Guelph, cha ông này vốn kiểm soát cả hai vùng. Heinrich II Jasomirgott được phong làm quận công Áo, để bù lại việc mất Bayern. Với chính sách thỏa hiệp với các lực lượng chính của các thân vương Đức và chấm dứt nội chiến trong vương quốc, Friedrich ve vãn Henry của Áo bằng cách ban cho Henry chỉ dụ Privilegium Minus, phong Henry từ bá tước thành quận công Áo, việc chưa từng xảy ra. Đây được xem là cột mốc quan trọng, đánh dấu việc tách Áo khỏi Bayern, mở đầu cho việc thành lập nước Áo độc lập. Đây cũng là một sự nhân nhượng lớn từ phía Friedrich, vì ông hiểu rằng ông phải hòa giải với Heinrich Sư tử, thậm chí phải chia sẻ quyền lực nếu cần. Ông không thể ra mặt đối đầu với Heinrich ngay được.[17] Ngày 9 tháng 6 năm 1156 tại Würzburg, Friedrich cưới Béatrice I, quận chúa Bourgogne, con gái và là người thừa kế của bá tước Renaud III xứ Bourgogne, và như vậy thêm vào lãnh địa của mình vùng đất rộng lớn Bourgogne.
Tháng 6 năm 1158, Friedrich tiến hành cuộc viễn chinh Ý lần thứ hai, được hỗ trợ bởi Heinrich Sư tử và quân Sachsen của ông ta. Kết quả của cuộc viễn chinh là ông thiết lập các tướng lãnh Hoàng gia tại các thành phố bắc Ý, thành Milano nổi dậy và bị chinh phục, và ông bắt đầu cuộc đấu tranh dai dẳng với Giáo hoàng Alexanđê III. Để đối lại việc ông bị rút phép thông công bởi Giáo hoàng năm 1160, Friedrich tuyên bố ủng hộ địch thủ của Giáo hoàng là Victor IV (1159-1164).[18] Friedrich muốn triệu tập một hội đồng cùng với vua Louis của Pháp năm 1162 để quyết định ai sẽ là Giáo hoàng. Vua Louis đã đến gần nơi diễn ra hội nghị, thì biết rằng Friedrich đã dồn phiếu chống Giáo hoàng Alexanđê III, nên vua Louis quyết định không đến nữa. Kết quả là vấn đề này không được giải quyết xong khi đó.[19]
Lễ cưới giữa Friedrich và Béatrice xứ Bourgogne
Sự tranh chấp giữa ông và Giáo hoàng Alexanđê dẫn đến kết quả là vương quốc Sicilia của các vương tôn người Normandie và Giáo hoàng thành lập một liên minh chống lại Friedrich[20]. Trở về Đức vào cuối năm 1162, Friedrich ngăn ngừa sự leo thang xung đột giữa Heinrich Sư tử xứ Sachsen và một số các vương hầu lân bang, những người ngày càng tỏ ra lo ngại trước sự bành trướng thế lực, ảnh hưởng và lãnh thổ của Heinrich. Ông cũng trừng phạt dân chúng thành Mainz một cách khắc nghiệt vì tội nổi loạn chống lại Tổng giám mục Arnold. Trong cuộc viễn hành tới Ý năm 1163, kế hoạch chinh phục Sicilia của ông đổ vỡ vì một liên minh hùng mạnh đã thành lập để chống lại ông, nguyên nhân chính là để phản kháng lại việc đóng thuế cho vương quyền.
Friedrich sau đó quay sang tái lập hòa bình cho vùng Rheinland, nơi ông tổ chức một đại tiệc mừng lễ phong thánh cho Karl Đại đế tại Aachen. Tháng 10 năm 1166, ông lại tiến vào Ý để hỗ trợ cho Giáo hoàng đối lập Pascalê IIII, và để đăng quang cho vợ ông là Béatrice là hoàng hậu của Đế quốc La Mã thần thánh. Lần này, Heinrich Sư tử từ chối không đi Ý cùng ông, thay vào đó tập trung vào cuộc tranh giành với các lân bang và bành trướng vào lãnh thổ của người Slavơ ở đông bắc Đức. Quân của Friedrich đánh bại quân Rôma trong trận Monte Porzio, nhưng chiến dịch này phải ngưng lại vì bệnh dịch bùng phát, đe dọa tiêu hủy quân đội Hoàng gia, khiến ông phải chạy về Đức và ở lại đó trong 6 năm tiếp đó. Trong thời gian này, Friedrich phải ra các phán quyết phân định các lãnh địa giám mục thuộc về ai, áp đặt vương quyền lên các xứ Böhmen, Ba Lan, Hungary, thiết lập quan hệ hữu hảo với hoàng đế Đông La Mã là Manuel I Comnenus, và cải thiện mối liên lạc giữa các đối thủ Henry II của AnhLouis VII của Pháp. Nhiều bá tước xứ Schwaben, bao gồm cả người bà con của ông là vị Quận công xứ Schwaben trẻ tuổi, Friedrich IV, chết năm 1167, khiến ông có thể tập trung các vùng đất này thành lãnh địa Quận công Schwaben, đặt dưới tay ông. Đứa con nhỏ của ông, Friedrich V, trở thành tân Quận công Schwaben.

Những năm cuối đời

Năm 1174, vua Friedrich Barbarossa tiến hành cuộc viễn chinh Ý lần thứ năm, nhưng bị Liên minh Lombard (giờ có thêm Venezia, SiciliaConstantinopolis) theo phe Giáo hoàng chống lại.[21] Các thành phố miền bắc Ý đã trở nên hết sức thịnh vượng nhờ thương mại, và đại diện cho một bước ngoặt trong bước chuyển từ trật tự phong kiến Trung Cổ. Khi Friedrich Barbarossa bị liên minh các thành phố bắc Ý đánh bại, cả châu Âu bị sốc vì không tưởng tượng được việc đó có thể xảy ra.[22]
Cùng việc Heinrich Sư tử từ chối đưa viện quân vào Ý, cuộc viễn chinh thất bại thảm hại. Friedrich Barbarossa có thể hành binh vượt miền bắc Ý, chiếm Rôma, và đưa Giáo hoàng đối lập Pascalê III lên ngôi, nhưng người Lombard nổi dậy ở sau lưng ông, trong khi bệnh dịch làm quân đội của ông bị suy yếu nghiêm trọng.[21] Friedrich tiếp đó bị đánh bại trong trận Legnano gần Milano ngày 29 tháng 5 năm 1176. Ông bị thương, và có lúc người ta tưởng là ông đã chết. Trận chiến này là bước ngoặt trong cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ đế quốc của ông.[23] Ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thương lượng với Giáo hoàng Alexanđê III và Liên minh Lombard. Theo hòa ước Anagni 1176, Friedrich công nhận Alexanđê III là Giáo hoàng, và với hiệp ước Venezia 1177, Friedrich và Giáo hoàng Alexanđê III chính thức hòa giải.[24] Friedrich phải chịu khuất phục trước Giáo hoàng tại Venezia. Ông công nhận quyền lực của Giáo hoàng tại Quốc gia Giáo hoàng (tức Rôma và vùng phụ cận), đổi lại Giáo hoàng Alexanđê III thừa nhận quyền chủ tể của Hoàng đế với Giáo hội Đế quốc. Cũng theo hòa ước Venezia, hòa bình được thiết lập với Liên minh các thành phố Lombard từ tháng 8 năm 1178.[25] Tiếp đó, hòa bình vĩnh viễn được thiết lập với hòa ước Constance, Friedrich thừa nhận quyền của các thành phố này được tự bầu thị trưởng thành phố. Như vậy Friedrich giành lại quyền cai trị trên danh nghĩa trên đất Ý, đó là cách chủ yếu mà ông áp đặt sức ép lên Giáo hoàng[26]
Barbarossa và Heinrich Sư tử
Friedrich Barbarossa không tha thứ cho Heinrich Sư tử vì việc không đưa quân đến hỗ trợ cho ông trong chiến dịch năm 1174. Tới năm 1180, Heinrich đã thành công trong việc thiết lập một công quốc hùng mạnh và liên tục, gồm Sachsen, Bayern và nhiều lãnh thổ rộng lớn ở miền đông và bắc Đức. Lợi dụng sự thù địch của nhiều công vương Đức với Heinrich, Friedrich Barbarossa xử vắng mặt Heinrich trong một phiên tòa chủ tọa gồm nhiều giám mục và công vương Đức năm 1180, tuyên bố rằng luật đế quốc có hiệu lực hơn luật cổ truyền Đức, xử phạt Heinrich bằng cách tước bỏ đất đai của ông này, và đặt ông này ra ngoài vòng pháp luật.[27]
Tiếp đó, ông đưa quân đội Đế quốc tiến đánh Sachsen. Heinrich bị các đồng minh bỏ rơi, và cuối cùng Heinrich phải chấp nhận đầu hàng vào tháng 11 năm 1181. Heinrich phải chịu lưu vong trong 3 năm tại triều đình cha vợ mình là Henry II của Anh tại Normandy, trước khi được phép trở lại Đức. Heinrich sống những ngày cuối đời mình tại Đức với danh vị Quận công Brunswick trong một lãnh thổ nhỏ hẹp hơn rất nhiều. Khát vọng báo thù của Friedrich như vậy đã hoàn tất, Heinrich Sư tử giờ sống một cuộc đời bình lặng, bảo trợ nghệ thuật và kiến trúc.
Dù đã hạ bệ được Heinrich Sư tử, Friedrich không thể nào du nhập được hệ thống phong kiến tập quyền kiểu Anh vào Đức được.[28] Ông phải đối diện với thực trạng hỗn loạn tại các tiểu quốc Đức, với nội chiến diễn ra liên miên giữa các công vương giành giật ngôi vị và đất đai. Sự thống nhất nước Ý dưới quyền lãnh đạo của hoàng đế Đức cũng chỉ là hư danh. Dù rằng đã tuyên bố quyền bá chủ của hoàng đế Đức, nhưng thực quyền trên đất Ý nằm trong tay Giáo hoàng.[29] Trở về Đức sau thất bại tại bắc Ý, Friedrich phải ngậm bồ hòn làm ngọt, hoàn toàn kiệt lực. Các công vương Đức, thay vì phục tùng dưới trướng hoàng đế, lại thu thập của cải, quyền lực, củng cố thế lực của mình. Bắt đầu xuất hiện khuynh hướng trong xã hội nhằm "thiết lập nước Đại Đức" bằng cách chinh phục người Slavơ ở phía đông.[30]

Thập tự chinh và cái chết

"Cái chết của Hoàng đế Friedrich I" do Gustav Dore vẽ
Hoàng đế Friedrich bắt tay vào chuẩn bị cho cuộc Thập tự chinh lần thứ ba (1189), một cuộc viễn chinh qui mô lớn với sự phối hợp của quân Pháp, dưới quyền chỉ huy của vua Philippe II và quân Anh dưới quyền chỉ huy của vua Richard I. Ông tổ chức một đạo quân lớn với 100.000 người (bao gồm 20 ngàn hiệp sỹ) và hành tiến bằng đường bộ đến Đất Thánh.[31] Tuy nhiên, một số sử gia tin rằng đây là con số phóng đại, và lực lượng viễn chinh thực tế chỉ khoảng 15 ngàn chiến binh, với khoảng 3 ngàn hiệp sỹ.[32]
Thập tự quân vượt qua các Vương quốc Hungary, SerbiaBulgaria rồi tiến vào lãnh thổ Đông La Mã, đến Constantinopolis vào mùa thu năm 1189. Khi họ đến Hunary, Barbarossa thân hành mời một hoàng thân Hungary là Géza, em trai vua Béla III của Hungary tham gia cuộc Thập tự chinh, vì vậy 2.000 quân Hungary dưới sự chỉ huy của hoàng thân Géza hợp binh với quân Đức. Quân Tây Âu tiến sâu vào nội địa Tiểu Á (nơi họ giành thắng lợi và hạ được các thành Aksehir, Konya), rồi tiến vào vương quốc Cilicia của người Armenia. Cuộc tiến quân của cánh quân lớn này khiến cho Saladin và các thủ lĩnh Hồi giáo khác hết sức lo lắng, và họ bắt đầu hội binh để chặn quân của Barbarossa.
Tuy nhiên ngày 10 tháng 6 năm 1190, Hoàng đế Friedrich Barbarossa không may bị chết tại sông Saleph khi quân Đức đang tiến về Antioch từ Armenia; các sử gia Ả rập nói rằng đạo quân này đóng trại tại bờ sông, và hoàng đế ra bờ sông để tắm thì bị dòng sông chảy xiết cuốn đi, khiến ông bị chết đuối.[33]
Cái chết của Hoàng đế Friedrich đã đẩy đạo quân của ông vào tình trạng hỗn loạn. Không có chỉ huy, rối loạn, bị quân Thổ tấn công tứ phía, rất nhiều binh sỹ Đức bỏ trốn, bị giết, thậm chí tự sát. Chỉ có chừng 5.000 quân, tức là một bộ phận nhỏ của lực lượng ban đầu đến được Acre. Con trai ông, quận công Friedrich VI xứ Schwaben, tiếp tục cuộc viễn chinh với những lực lượng còn sót lại của cánh quân Đức, cùng với quân Hungary của hoàng thân Géza. Họ muốn chôn hoàng đế tại Jerusalem, nhưng thi thể của ông không giữ được nguyên vẹn trong giấm, nên xác thịt của ông được chôn tại nhà thờ Thánh Phê-rô tại Antioch, xương cốt của ông được chôn tại thánh đường Týros, trái tim và nội tạng của ông tại Tarsus.
Cái chết bất ngờ của Friedrich khiến cho quyền lãnh đạo cuộc Thập tự chinh chỉ còn nằm trong tay các vị vua Philippe II của PhápRichard I của Anh, mà hai người này lại đối nghịch với nhau, dẫn đến việc lực lượng Thập tự chinh bị phân tán. Quân Pháp quay trở về, chỉ còn quân Anh tiếp tục đông tiến và giao chiến với Saladin, nhưng không thực hiện được mục tiêu ban đầu của người Thiên chúa là chiếm lại Jerusalem và Đất Thánh.

Trong văn hóa

Friedrich phái tiểu đồng ra xem bầy quạ có còn bay lượn không
Đương thời, Barbarossa là vị quân vương được kính nể nhất trong thế giới Ki-tô giáo phương Tây.[34] Ông được thần dân yêu mến đến mức người ta truyền tụng rằng: "Nước Đức và Friedrich Barbarossa là một thứ nằm trong những con tim người Đức".[6] Ông trở thành là trung tâm của rất nhiều huyền thoại, trong đó có truyền thuyết về vị vua ngự trong núi, giống như truyền thuyết cổ hơn của nước Anh về vua ArthurBendigeidfrân. Truyền thuyết kể rằng ông không chết, mà ngủ trong một hang động tại vùng núi Kyffhäuser tại Thüringen, hay đỉnh UntersbergBayern, Đức, cùng với các hiệp sỹ của mình, và rằng bầy quạ sẽ ngừng bay xung quanh núi một khi ông thức giấc, và đưa nước Đức trở lại thời kỳ hoàng kim như xưa cũ. Theo truyền thuyết này, bộ râu đỏ của ông mọc dài tới cái bàn mà ông ngồi. Đôi mắt của ông lim dim như đang ngủ, nhưng thi thoảng ông lại phẩy tay, sai chú tiểu đồng ra xem bầy quạ đã ngưng bay chưa.[35] Một thuyết tương tự, bối cảnh tại Sicilia, được gán cho cháu nội ông là Friedrich II, Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh.[36]
Một huyền thoại khác kể rằng khi Friedrich Barbarossa chuẩn bị đánh chiếm thành Milano năm 1158, vợ ông là hoàng hậu Béatrice bị người Milano bắt giữ, và bị dong qua thành phố trên lưng lừa để biêu riếu. Theo nguồn này, để rửa hận, ông buộc giới chức thành này phải dùng răng để lấy hạt quả sung từ hậu môn một con lừa[37] Một nguồn khác thì cho rằng ông buộc tất cả đàn ông trong thành phố phải ngậm phân lừa. Người ta nói rằng hình phạt này là nguồn gốc của động tác sỉ nhục đặt ngón cái giữa ngón trỏ và ngón giữa, với bàn tay nắm chặt.[38]
Friedrich Barbarossa được nhìn nhận là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Đức. Vào thế kỷ 19, thế kỷ mà nước Đức được thống nhất, ông được chủ nghĩa dân tộc Đức đề cao như một vị anh hùng dân tộc, một trong những người đầu tiên đã chiến đấu vì lý tưởng dân tộc.[39][40] Truyền thuyết về Barbarossa ngủ trong hang chờ đợi sự hồi sinh của Đức, cùng với câu chuyện về Hermann, đã thúc đẩy sự tôn sùng đối với Wilhelm I, vị hoàng đế đầu tiên của một nước Đức thống nhất, và điều này được thể hiện qua các minh họa trong sách vở thời đó và những bích họa Goslar của Wislicenus. Đặc biệt, để thu thập sự ủng hộ về chính trị, Nhà nước Đế quốc Đức đã cho xây dựng đài kỷ niệm Kyffhäuser trên đỉnh núi Kyffhäuser, với ngụ ý ca ngợi Wilhelm I là hậu thân của Friedrich I; lễ cung hiến năm 1896 được tổ chức trong ngày 18 tháng 6 với sự có mặt của Đức hoàng Wilhelm II, chính là ngày đăng quang của ông.[41][7]
Trong thời kỳ Đức Quốc xã, Lãnh tụ Adolf Hitler đã tôn vinh Friedrich như một trong những tấm gương sáng của lịch sử đất nước. Trên tinh thần đó,[40] khi quân đội Đức tấn công Liên bang Xô viết năm 1941, chiến dịch này đã dược đặt theo tên hiệu của ông là Chiến dịch Barbarossa[42].

Con cái

  1. Sophie (1161 – 1187), kết hôn với Bá tước William VI xứ Montferrat.
  2. Beatrice (1162 – 1174). Bà được hứa hôn với vua xứ Sicilia William II nhưng qua đời trước khi kết hôn.
  3. Friedrich V, Công tước xứ Schwaben (Pavia, 16 tháng 7 năm 1164 – 28 tháng 11 năm 1170).
  4. Heinrich VI (Nijmegen, tháng 11 năm 1165 – Messina, 28 tháng 9 năm 1197), sau là Hoàng đế La Mã Thần thánh.
  5. Conrad (Modigliana, tháng 2 năm 1167 – Acre, 20 tháng 1 năm 1191). Sau khi Công tước Friedrich V qua đời, ông trở thành Friedrich VI, Công tước xứ Schwaben.
  6. Một công chúa (Gisela?) (tháng 10/tháng 11 năm 1168 – 1184).
  7. Othon I, Bá tước xứ Bourgogne (tháng 6/tháng 7 năm 1170 – bị giết tại Besançon vào ngày 13 tháng 1 năm 1200).
  8. Conrad II, Công tước xứ Schwaben và Rothenburg (tháng 2/tháng 3 năm 1172 – bị giết tại Durlach vào ngày 15 tháng 8 năm 1196).
  9. Renaud (tháng 10/tháng 11 năm 1173 – chết khi còn bé).
  10. William (tháng 6/tháng 7 1176 – chết khi còn bé).
  11. Philipp xứ Schwaben (tháng 8 năm 1177 – bị giết tại Bamberg vào ngày 21 tháng 6 năm 1208), lên ngôi vua nước Đức vào năm 1198.
  12. Agnes (1181 – 8 tháng 10 năm 1184). Bà được hứa hôn với vua Hungary Emeric nhưng qua đời trước khi kết hôn.

Tổ phụ của Friedrich I

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Có nghĩa là Râu đỏ.
  2. ^ Peter Moraw, Heiliges Reich, in: Lexikon des Mittelalters, Munich & Zurich: Artemis 1977–1999, vol. 4, 2025–2028.
  3. ^ a ă H. John Haaren,John H. Haaren, "Famous Men of the Middle Ages", các trang 123-126.
  4. ^ Christopher Tyerman, God's War: A New History of the Crusades
  5. ^ Spencer C. Tucker (biên tập), A Global Chronology of Conflict: From the Ancient World to the Modern Middle East: From the Ancient World to the Modern Middle East, trang 389
  6. ^ a ă H. John Haaren,John H. Haaren, "Famous Men of the Middle Ages", trang 115
  7. ^ a ă Robin Lenman, Artists and Society in Germany, 1850-1914, trang 39
  8. ^ Harold Joseph Berman, "Law and revolution: the formation of the Western legal tradition", Harvard University Press, 1983, tr. 488
  9. ^ Le Goff, J. Medieval Civilization, 400-1500, Barnes and Noble, New York, 2000, p. 266.
  10. ^ Cantor, N. F. Medieval History, Macmillan and Company, 1969, p. 302-3.
  11. ^ Cantor, N. F., ibid. p. 428-429.
  12. ^ Dahmus, p. 359, ibid.
  13. ^ Brown, R. A., The Origins of Modern Europe, Boydell Press, 1972.
  14. ^ Davis, R. H. C. A History of Medieval Europe, Longmans, 1957, p. 318-319.
  15. ^ Falco, G. The Holy Roman Republic, Barnes and Co., New York, 1964, p. 218 et seq.
  16. ^ Cantor, N. F., ibid. p. 368-9.
  17. ^ Davis, R. H. C., A History of Medieval Europe, Longmans, 1957, p. 319.
  18. ^ Dahmus, J., The Middle Ages, A Popular History, Doubleday & Co. Garden City, New York, 1969, p. 295.
  19. ^ Munz, Peter. Frederick Barbarossa: A Study in Medieval Politics. Cornell University Press, Ithaca and London, 1969, p. 228.
  20. ^ Davis, R. H. C., p. 326-7, ibid.
  21. ^ a ă Kampers, Franz. "Frederick I (Barbarossa)". The Catholic Encyclopedia. Vol. 6. New York: Robert Appleton Company, 1909. 21 tháng 5 năm 2009.
  22. ^ Le Goff, J. Medieval Civilization 400-1500. Barnes and Noble, New York, 2000, p. 104; reprint of B. Arthaud. La civilization de l'Occident medieval, Paris, 1964.
  23. ^ Davis, R. H. C., p. 332 et seq., ibid.
  24. ^ Brown, R. A., p. 164-5 "The Origins of Modern Europe", Boydell, 1972
  25. ^ online in the Yale Avalon project
  26. ^ Le Goff, J., ibid. p. 96-97
  27. ^ Davis, R. H. C., p. 333, ibid.
  28. ^ Cantor, N. F., ibid. pp. 433-434.
  29. ^ Le Goff, J. ibid. pp. 102-3.
  30. ^ Cantor, N. F., ibid. p. 429.
  31. ^ J. Phillips, The Fourth Crusade and the Sack of Constantinople, 66
  32. ^ Konstam, Historical Atlas of the Crusades, 162
  33. ^ See, eg, Ibn Al-Athir, XII, 30-32
  34. ^ Donald S. Detwiler, Germany: A Short History, trang 38
  35. ^ Brown, R. A., p. 172, ibid.
  36. ^ Kantorowicz, Frederick II; last chapter
  37. ^ Walford, Edward, John Charles Cox, and George Latimer Apperson. "Digit Folklore part II". The Antiquary: A Magazine Devoted to the Study of the Past 1885 Volume XI: January-June.
  38. ^ Novobatzky, Peter and Ammon Shea. Depraved and Insulting English. Orlando: Harcourt, 2001
  39. ^ David Ohana, David Maisel, The Origins of Israeli Mythology: Neither Canaanites Nor Crusaders, trang 132
  40. ^ a ă Cyprian Blamires, World Fascism: A Historical Encyclopedia, Tập 1, trang 80
  41. ^ Jarausch, KH. “After Unity; Reconfiguring German Identities”, Berghahn Books Inc. New York, 1997, P 35, ISBN 1-57181-041-2
  42. ^ Vasilevsky, Aleksandr Mikhailovich (1984), "Sự nghiệp cả cuộc đời", Moskva: NXB Tiến Bộ, tr. 567

Tài liệu tham khảo

Tài liệu chính
Tài liệu phụ
  • Haverkamp, Alfred. Friedrich Barbarossa, 1992
  • Novobatzky, Peter and Ammon Shea. Depraved and Insulting English. Orlando: Harcourt, 2001
  • Munz, Peter. "Frederick Barbarossa: A Study in Medieval Politics". Cornell University Press, Ithaca and London, 1969
  • Opll, Ferdinand. Friedrich Barbarossa, 1998
  • Reston, James. Warriors of God, 2001
  • Walford, Edward, John Charles Cox, and George Latimer Apperson. "Digit Folklore part II". The Antiquary: A Magazine Devoted to the Study of the Past 1885 Volume XI: January-June.
  • Louise Fargo Brown,George Barr Carson, "Men and centuries of European civilization", Ayer Publishing, 1971.
  • H. John Haaren,John H. Haaren, "Famous Men of the Middle Ages", BiblioBazaar, LLC, 2007.

Liên kết ngoài




Trận Đồng Xoài

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Đồng Xoài
Một phần của Chiến tranh Việt Nam
DongXoaiHuey-65a.JPG
Binh lính của tiểu đoàn kỵ binh số 52 - Quân Lực VNCH bên trái và 1 cố vấn quân sự Hoa Kỳ bên cạnh xác một chiếc trực thăng bị quân Giải phóng bắn rơi
.
Thời gian 10 tháng 6-11 tháng 6 năm 1965
Địa điểm Đồng Xoài, Nam Việt Nam UTM Grid YT 0764-7597[1]
Kết quả Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam VN giành chiến thắng
Tham chiến
FNL Flag.svg Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Flag of the United States.svgBộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam
Flag of South Vietnam.svg Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Chỉ huy
Lê Trọng Tấn Cao Văn Viên,
Charles W. Williams


Lực lượng
1500 2000
Tổn thất
Hoa Kỳ báo cáo tìm thấy 126 thi thể Quân đội VN Cộng hòa: 416 chết, 174 bị thương, 233 mất tích
Mỹ: 20 chết và bị thương, 13 mất tích
.
Trận Đồng Xoài hay Đợt II Chiến dịch Đồng Xoài là một trận đánh do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, mà phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa cũng gọi là Việt Cộng, trong thời kỳ chiến dịch Đông-Xuân năm 1965. Đây là trận lớn nhất trong giai đoạn này của Chiến tranh Việt Nam.
Tiếp theo sau chiến thắng tại Bình Giã chỉ huy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã quyết định thực hiện các cuộc tấn công tiếp theo đối với Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong một nỗ lực hủy diệt nhiều đơn vị của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Trong những tháng trước khi dẫn đến trận đánh này tại Đồng Xoài, Mặt trận đã xuất kích qua Phước BìnhSông Bé. Các cuộc tấn công này dù có quy mô nhỏ nhưng đã thúc giục phe Mặt trận đến huyện Đồng Xòai được củng cố bằng thêm việc thêm hai tiểu đoàn.
Quận Đồng Xoài đã được bố trí Lực lượng đặc biệt và dân quân của Việt Nam Cộng Hòa được Mỹ huấn luyện. Với hệ thống phòng thủ mạnh, Quân đội Việt Nam Cộng Hòa tự tin rằng căn cứ của họ có thể chống cự lại được tấn công của Mặt trận.
Dù các lực lượng Nam Việt Nam do Mỹ lãnh đạo cuối cùng đông hơn quân Mặt trận gần 10 lần, quân Mặt trận đã có thể áp dụng chiến thuật của mình và đã chặn (routed) được nhiều tiểu đoàn quân Việt Nam Cộng Hòa. Kết quả là một thất bại nữa và sự mất mặt của các lực lượng quân chính quy của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Bối cảnh

Doanh trại của Lực lượng đặc biệt Đồng Xoài nằm ở tỉnh Phước Long, cách Sài Gòn khoảng 88 km về phía tây bắc. Ngày 25 tháng 5 năm 1965, quân của biệt đội A-342 đã được chuyển vào khi doanh trại được xây xong.
Kể từ ngày Lực lượng đặc biệt đến, doanh trại này liên tục chịu các cuộc tấn công bằng súng cối của quân Mặt trận mà không biết ý định của quân Mặt trận là gì và Lực lượng đặc biệt trong trại tin rằng đó là quấy nhiễu như thông thường. Quan điểm đó được củng cố thêm bởi các cuộc tấn công của quân Mặt trận vào các mục tiêu liên quan ở Phước Bình, nơi Tiểu đoàn 5 của Trung đoàn 272 phòng thủ khu vực và phải gánh chịu thương vong nặng nề bởi lực lượng phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Việc phá hủy tiêu khu Phước Bình và các cuộc tấn công lớn vào Sông Bé đã khiến cho lực lượng tăng viện gồm 2 trung đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa được chuyển tới. Với việc bổ sung quân này, việc tuần tra được tăng cường. Trong vòng hơn 2 tuần, tần suất các cuộc tấn công tăng lên. Mặc dù vậy, quân trong doanh trại này có ít thời gian để chuẩn bị ứng phó với cuộc tấn công cuối cùng của quân Mặt trận với lực lượng gồm Trung đoàn 272 và một số bộ phận của Trung đoàn 273 mới được thành lập.

Trận đánh

Trận đánh bắt đầu vào ngày 10 tháng 6 sau nửa đêm, khi Trung đoàn 272 của Mặt trận với một số đơn vị từ Trung đoàn 273, một phần của Sư đoàn 9 đã tiến hành các cuộc tấn công với các loạt súng cối không ngớt và các hỏa lực nhỏ, bắn vào các boong ke và các vị trí súng máy. Vòng phòng thủ ngoài của tiêu khu bị phá hủy và quân Mặt trận chiếm được các hệ thống boong ke chủ chốt.
Do bất ngờ bởi bị tấn công vào sáng sớm, những người lính bên trong quận có ít thời gian để phản ứng. Thiếu úy Charles W. Williams, chỉ huy của biệt đội đã ra lệnh cho quân mình nắm giữ vị trí phòng thủ bên trong sở chỉ huy quận sau khi ông đã nhận ra rằng doanh trại đã gần như bị quân Mặt trận phá tan.
Lúc sáng sớm, quân lực Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện không tác vào các vị trí của quân Mặt trận bằng bom napalm, nhưng quân Mặt trận đã bám chặt các vị trí bên trong các đồn điền cao su. Trong khi quân Mặt trận tiếp bắn phá doanh trại, một trực thăng Huey UH-1 của Đại đội 118 Không lực Hoa Kỳ đã rời sân bay Tân Sơn Nhất chở theo Sư đoàn 5 Bộ binh 5 Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Nhiệm vụ chính của họ là tăng viện cho quân phòng thủ của họ đang bị vây hãm trong doanh trại.
Hỏa lực phòng không của quân Mặt trận đã ngăn trở việc hạ cánh của máy bay chở quân cứu viện tới, và quân Việt Nam Cộng hòa trên mặt đất chịu thương vong nặng nề. Sau đó một ngày, các lực lượng viện binh từ Tiểu đoàn 42 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị buộc phải hạ cánh xuống Thuận Lợi, nơi họ lập tức giao chiến và tiếp tục cho đến đêm. Một tiểu đoàn Mỹ đã hạ cánh tại đường băng Đồng Xoài nhưng đã không được tướng William Westmoreland cho tham chiến.
Các điều kiện bên trong quận Đồng Xoài tiếp tục xấu đi với việc thực phẩm, nước, thuốc men và đạn dược còn ít. Sau một đêm nữa kinh sợ bên trong trại, người ta đã quyết định rút quân.
Trước sáng sớm ngày 11 tháng 7, quân Mặt trận đã rút lui và biến mất trong rừng để lại quân Việt Nam Cộng hòa bị tan tác. Quân đội Việt Nam Cộng hòa hoảng loạn và mất tinh thần đã chịu tổn thất là 800 quân chết còn Mỹ thì chịu 35 trường hợp thương vong.

Hậu quả

Thương vong nặng nề tại Đồng Xòai là một sự bẽ mặt nữa của chính quyền Nam Việt Nam, một lần nữa thể hiện sự bất lực của Quân đội chính quy của Việt Nam Cộng hòa trong việc giao chiến với quân du kích của Mặt trận tại những giai đoạn đầu của xung đột.
Chiến thắng tại Đồng Xoài đã vượt quá mong đợi của Bộ Tư lệnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Dù quân Mặt trận đã thất bại trong việc chiếm giữ quận Đồng Xoài, họ vẫn có thể giữ được vị trí và giành được mục tiêu gây tổn thất cho những đơn vị tốt nhất của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quân Mặt trận rút lui và mang theo một chiến thắng chiến thuật cũng như các cơ hội tuyên truyền. Theo Mặt trận, chiến thắng Đồng Xoài đã "thêm một trang vẻ vang vào lịch sử đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chống cuộc chiến tranh của Đế quốc Mỹ xâm lược".
Trung đoàn 272 của Mặt trận đã được Mặt trận gọi tên "Trung đoàn Đồng Xoài" sau cuộc chiến thắng quân sự này.

Ghi chú

  1. ^ Kelley, Michael P. (2002). Where We Were In Vietnam. Hellgate Press. tr. p. 5–158. ISBN 1-55571-625-3.

Tham khảo

  • Tài liệu của Quân giải phóng do Mỹ thu được: Lịch sử Trung đoàn 272, Sư đoàn 9 Giải phóng quân - History of the 272nd Regiment, 9th PLAF Division. 1968
  • Dougan.C, Doyle.E, Lipsman.S, Martland.T, Weiss.S (1983) The Vietnam Experience: A Contagion of War. Boston Publishing Company, USA.

Báo chí đương đại

Liên kết ngoài


Mikoyan-Gurevich MiG-23

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
MiG-23
Mikoyan-Gurevich MiG-23MLD Flogger K USAF.jpg
MiG-23MLD Không quân Xô Viết
Kiểu Máy bay tiêm kích/cường kích
Hãng sản xuất Mikoyan-Gurevich OKB
Chuyến bay đầu tiên 10 tháng 6-1967
Được giới thiệu 1970
Hãng sử dụng chính Flag of the Soviet Union.svg Không quân Xô viết
Flag of India.svg Không quân Ấn Độ
Flag of Russia.svg Không quân Nga
Flag of Libya.svg Không quân Libya
Được chế tạo 1967-1985
Số lượng được sản xuất 5.047
Chi phí máy bay 3.6 đến 6.6 triệu USD tùy khách hàng
Những phương án tương tự Mikoyan MiG-27
Mikoyan-Gurevich MiG-23 (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "Flogger") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich của Liên Xô, và được coi là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ ba cùng với MiG-25 "Foxbat". Đây là máy bay tiêm kích đầu tiên của Liên Xô trang bị radar look-down/shoot-down (radar phát hiện, theo dõi, khóa, ngắm bắn và tiêu diệt mục tiêu ở ngoài tầm "nhìn" của radar) và tên lửa ngoài tầm nhìn, và đây cũng là máy bay tiêm kích đầu tiên của MiG được sản xuất với khe hút khi nằm bên cạnh thân máy bay. Việc sản xuất bắt đầu vào năm 1970 và đã có 5.047 chiếc được chế tạo. Ngày nay MiG-23 vẫn tiếp tục hoạt động hạn chế trong lực lượng không quân một số quốc gia. MiG-27 'Flogger-D/-J' cũng được phát triển từ MiG-23.

Thiết kế và phát triển

Buồng lái của MiG-23
MiG-21 (tên ký hiệu của NATO 'Fishbed'), là loại máy bay tiêm kích phát triển trước MiG-23, đây là loại máy bay nhanh nhẹn và chắc chắn, nhưng MiG-21 bị giới hạn trong khả năng hoạt động vì radar yếu, tầm hoạt động ngắn và mang được ít vũ khí (không mang được nhiều tên lửa không đối không). MiG-23 là một máy bay hạng nặng, được thiết kế với nhiều máy móc mạnh hơn để khắc phục những khuyết điểm trên MiG-21, và vượt trội so với loại F-4 Phantom của phương Tây. Loại máy bay chiến đấu mới này có những nét mới hoàn toàn mà chưa có loại máy bay nào có vào thời điểm ấy, nó có hệ thống cảm biến mới S-23 và hệ thống vũ khí có thể bắn và điều khiển tên lửa ngoài tầm nhìn (BVR).
Mối tâm chính đến bản thiết kế của MiG-23 là khả năng cất hạ cánh. Những máy bay phản lực của Liên Xô lúc đó cần đường băng rất dài, cùng với tầm bay và thao tác phối hợp chiến thuật hạn chế. Không quân Xô viết đòi hỏi loại máy bay mới phải hoạt động được trên đường băng ngắn hơn, có tốc độ bay thấp và khả năng điều khiển tốt hơn MiG-21. Mikoyan đã xem xét đến 2 lựa chọn: máy bay có trang bị thêm vòi xả tạo lực nâng bổ sung, và cánh có thể thay đổi hình dạng, được phát triển bởi TsAGI.
Nguyên mẫu đầu tiên gọi là "23-01" nhưng được biết đến với cái tên MiG-23PD, nguyên mẫu này có cánh tam giác giống như MiG-21 nhưng có thêm hai vòi nâng trong thân. Tuy nhiên nó bộc lộ những khiếm khuyết về hình dạng, và những trọng lượng vòi nâng trở thành vô ích khi đã ở trên không. Nguyên mẫu thứ 2 là "23-11", lắp cánh thay đổi được hình dạng (cánh cụp cánh xòe) có thể xoay góc 16°,45° và 72°, và nó thể hiện kết quả khá tốt. Chuyến bay lần đầu tiên của 23-11 vào ngày 10 tháng 6-1967,, và 3 nguyên mẫu nữa đã được thiết kế cho những chuyến bay và thử nghiệm sau đó. Tất cả các mẫu đều được lắp động cơ Tumansky R-27-300 với lực đẩy 7850 kg. Sau những thử nghiệm, MiG-23 đã được đưa vào sản xuất hàng loạt vào tháng 12-1967.
F-111 General DynamicsMcDonnell Douglas F-4 của Hoa Kỳ đã có ảnh hưởng đến thiết kế của MiG-23. Tuy nhiên người Nga muốn có một máy bay tiêm kích nhẹ hơn và đã thiết kế MiG-23 chỉ có một động cơ để đạt độ nhanh nhẹn tối đa. Cả F-111 và MiG-23 đều được thiết kế như máy bay tiêm kích, nhưng vì trọng lượng quá nặng của F-111 nên nó không bao giữ vai trò tiêm kích, thay vào đó nó trở thành máy bay ném bom chiến thuật. Ngược lại MiG-23 lại có những thông số bay phù hợp để hạ gục máy bay kẻ thù trong những trận hỗn chiến trên không.
Không quân Hoa Kỳ cũng có một số lượng nhỏ MiG-23, nó được biết đến với cái tên YF-113G cho thử nghiệm đánh giá máy bay và đóng vai kẻ địch cho công tác huấn luyện các phi công từ năm 1977 đến năm 1988 trong một trương trình có mật danh "Constant Peg".[1]

Thế hệ đầu tiên của MiG-23

Flogger-A

MiG-23S
  • Ye-231 là nguyên mẫu đầu tiên được chế tạo cho thử nghiệm, và nó thiếu gờ răng cưa ở cánh, chi tiết này sau đó đã xuất hiện trên tất cả các kiểu MiG-23/-27. Mẫu thử nghiệm này là cơ sở cho các mẫu máy bay MiG-23/27 và Sukhoi Su-24, nhưng Su-24 có những sửa đổi lớn từ kinh nghiệm của mẫu Ye-231 so với MiG-23/27.
  • MiG-23 là mẫu tiền sản xuất, nó thiếu những giá treo vũ khi trên cánh, những giá treo này được thiết kế trên những phiên bản sản xuất sau này, nó được vũ trang bằng súng. Gờ răng cưa ở cánh đã xuất hiện trên mẫu này. Mẫu này đã thể hiện rõ ranh giới giữa MiG-23/MiG-27 và Su-24 so với mẫu đầu tiên Ye-231.
  • MiG-23S là biến thể đầu tiên được sản xuất. Có khoảng 60 chiếc được sản xuất giữa 1969-1970. Nó được sử dụng cho cả 2 nhiệm vụ thử nhiệm bay và hoạt động. MiG-23S được lắp động cơ phản lực cải tiến R-27F2-300 với lực đẩy tối đa là 9980 kg, vì radar Sapfir-23 bị trì hoãn lắp đặt, nên máy bay được trang bị hệ thống điều khiển vũ khí S-21 với rada RP-22SM, về cơ bản hệ thống vũ khí giống MiG-21MF/bis. 2 súng 23 mm GSh-23L với 200 viên đạn dưới thân máy bay. Nó chưa bao giờ được đưa vào chiến đấu do gặp một số vấn đề với hệ thống cánh.
  • MiG-23SM Là mẫu tiền sản xuất thứ 2, nó còn được biết đến với tên MiG-23 Type 1971. Nó có nhiều thay đổi lớn so với MiG-23S: có hệ thống vũ khí S-23 hoàn thiện, radar Sapfir-23L với tên lửa BVR Vympel R-23R (NATO: AA-7 'Apex'). Nó còn được gắn động cơ cải tiến R-27F2M-300 (sau này có tên R-29-300) với lực đấy tối đa lên tới 12.000 kg. Loại cánh sửa đổi "mẫu số 2" tăng thêm diện tích cánh và có gờ răng cưa lớn hơn. Phần cánh nhỏ phía trước cánh chính bị loại bỏ và góc quét tăng thêm 2.5 độ. Vị trí cánh có thể thay đổi 18.5°, 47.5° và 74.5°. Bộ phận đuôi giữa thăng bằng được di chuyển về sau, và thùng nhiên liệu phụ được thêm vào phần sau thân máy bay, nó còn có một mẫu biến thể 2 chỗ. Có khoảng 80 chiếc được chế tạo. Tất cả những mẫu sau đều chứng tỏ được sự tin cậy so với những biến thể trước, nhưng loại rada Sapfir lại tỏ ra chưa chín muồi.

Flogger-B

  • MiG-23M: biến thể này bay lần đầu vào tháng 6-1972. Nó là phiên bản đầu tiên được sản xuất với số lượng lớn của loại MiG-23, và là máy bay tiêm kích đầu tiên của VVS có khả năng look-down/shoot-down (dù nó vẫn còn khả năng hạn chế). Cánh được làm nhẹ hơn nhưng vẫn chắc chắn. Động cơ R-29-300 (R-29A) đã được nâng cấp với lực đẩy là 12.500 kg. Phiên bản này cuối cùng cũng được sử dụng hệ thống cảm biến đồng bộ, hiện đại: rada cải tiến Sapfir-23D (NATO: 'High Lark'), một cảm biến hồng ngoại dò tìm theo dõi (IRST) TP-23 và một súng ngắm tự động ASP-23D. Rada "High Lark" có khả năng phát hiện mục tiêu từ khoảng cách 45 km. Radar 'High Lark' không hẳn là một radar Doppler đúng nghĩa, nhưng thay thế dùng kỹ thuật "tách sóng đường bao" hiệu quả kém, tương tự như radar trên một số máy bay của phương Tây vào thập niên 1960.
  • MiG-23MF ("Flogger-B"): là phiên bản xuất khẩu của MiG-23M cho các nước thuộc khối hiệp ước Vác-xa-va, nhưng nó cũng còn được bán cho cả những nước khác. Trên thực tế nó có 2 phiên bản. Phiên bản thứ nhất được bán cho các nước trong khối Vác-xa-va, về bản chất nó giống với MiG-23M của Liên Xô, với một thay đổi nhỏ trong hệ thống phân biệt bạn hoặc thù (IFF) và trang bị hệ thống truyền thông tin cao cấp hơn. Phiên bản thứ 2 được bán cho các nước ở ngoài khối hiệp ước Vác-xa-va, phiên bản này có một sự khác biệt về hệ thống IFF, hệ thống liên lạc (vẫn truyền thông tin theo cách thông thường với hệ thống truyền dữ liệu kết nối), sử dụng rada cũ hơn, thiếu hệ thống đối phó điện tử (ECCM). MiG-23MF được ưa chuộng hơn phiên bản MiG-23MS và có một số lượng lớn được xuất khẩu, đặc biệt là ở Trung Đông.
MiG-23MF
Hệ thống tia hồng ngoại có thể dò tìm mục tiêu trong khoảng 30 km để phát hiện máy bay ném bom, nhưng nó lại không nổi trội về phát hiện mục tiêu là có kích thước của máy bay tiêm kích. Nó được trang bị hệ thống truyền dữ liệu Lasur-SMA. Trang bị vũ khí tiêu chuẩn gồm có 2 tên lửa dẫn đường bằng rada hoặc tia hồng ngoại Vympel R-23 BVR (NATO: AA-7 'Apex') và 2 tên lửa dẫn đường bằng hồng ngoại tầm ngắn Molniya R-60 (NATO: AA-8 'Aphid'). Sau năm 1974, thêm 2 giá lắp tên lửa R-60 được thêm vào, nâng tổng số tên lửa R-60 lên thành 4 quả. Bom, rocket và tên lửa được trang bị cho vai trò cường kích. Sau đó nó còn được cải tiến để thêm vào loại tên lửa không đối đất dẫn đường bằng sóng vô tuyến Zvezda Kh-23 (NATO: AS-7 'Kerry'). Nhiều chiếc MiG-23 của Liên Xô còn được cải tiến để mang vũ khí hạt nhân chiến thuật. Khoảng 1.300 chiếc MiG-23M và MiG-23MF đã được sản xuất cho không quân Xô viếtQuân chủng phòng không Liên Xô (PVO Strany) giữa những năm 1972-1978. Nó đóng vai trò là loại máy bay chiến đấu quan trọng trong giữa những năm 1970.

Flogger-C

  • MiG-23U: là biến thể 2 chỗ dành cho huấn luyện. Nó là lọai cải tiến từ MiG-23S, nhưng được làm dài buồng lái với một chỗ nữa cho phi công huấn luyện. Thùng xăng phía trước được thay thế để có thêm chỗ trong buồng lái, thay vào đó, một thùng xăng mới được gắn vào sau thân máy bay. MiG-23U có hệ thống cũ khí S-21, mặc dù rada vẫn là loại cũ. So với loại MiG-23M thì cánh và động cơ đều được cải tiến. Việc sản xuất bắt đầu ở Irkutsk năm 1971 và cuối cùng MiG-23U được cải tiến thành MiG-23UB.
  • MiG-23UB: nó rất giống với MiG-23U, nhưng động cơ R-29 đã được thay thế cho R-27 của MiG-23U. Việc sản xuất diễn ra cho đến trước năm 1985 (cho phiên bản xuất khẩu). Tổng cộng có 769 chiếc được sản xuất, bao gồm cả những mẫu cải tiến từ MiG-23U

Flogger-E

MiG-23MS
  • MiG-23MP: nó khá giống với MiG-23MS, nhưng chỉ sản xuất vài chiếc và không bao giờ xuất khẩu. Nó thực sự là khuôn mẫu của MiG-23MS ngoại trừ thêm vào chất điện môi trên giá đỡ vũ khí, nó liên kết với phiên bản cường kích làm cho sức mạnh của mẫu MiG-23MP tăng lên.
  • MiG-23MS: nó là phiên bản xuất khẩu, nó được cải tiến từ loại MiG-23M để bán cho các nước thuộc thế giới thứ 3. Nó khác với MiG-23M về một số mặt, nhưng có hệ thống vũ khí tiêu chuẩn S-21, với một rada RP-22SM (NATO: 'Jay Bird'), và hệ thống IRST (cảm biến hồng ngoại dò tìm theo dõi). Phiên bản này sử dụng tên lửa không đối không R-3S (NATO: AA-2a 'Atoll'), R-60 (NATO: AA-8 'Aphid') điều khiển bằng sóng vô tuyến và tên lửa R-3R NATO: AA-2d 'Atoll') được dẫn đường từ rada mặt đất bán chủ động, MiG-23MS không có khả năng tấn công BVR (ngoài tầm nhìn). Hệ thống điện tử áp dụng trên máy bay rất cơ bản. Phiên bản này được sản xuất giữa những năm 1973-1978 và được xuất khẩu phần lớn đến Bắc Phi và Trung Đông.

Thế hệ thứ 2 của MiG-23

Flogger-G

MiG-23ML
  • MiG-23P: đây là một phiên bản chuyên không chiến đánh chặn được phát triển cho PVO Strany. Nó có khung và động cơ giống với MiG-23ML, nhưng bộ phận thăng bằng được làm ngắn bớt so với những phiên bản khác. Hệ thống điện tử đồng bộ được cải tiến nhằm đáp ứng những đòi hỏi của PVO và thực hiện nhiệm vụ. Rada là loại cải tiến Sapfir-23P, nó có thể sử dụng kết hợp với hệ thống súng tự động ngắm trên máy bay để có khả năng look-down/shoot-down tốt nhất trong các cuộc không chiến khi mà sự đe dọa ngày càng tăng từ các loại vũ khí bay thấp như các loại tên lửa hành trình hiện đại. Hệ thống IRST không được gắn vào phiên bản này. Hệ thống lái tự động bao gồm cả một loại máy tính điện tử mới, được kết nối với hệ thống truyền dữ liệu Lasur-M. Nó còn được nhận được thông tin từ những trạm điều khiển mặt đất để đánh chặn mục tiêu một cách nhanh nhất; mọi phi công có thể điều khiển dễ dàng động cơ và vũ khí. MiG-23P là máy bay đánh chặn với số lượng lớn phục vụ trong PVO những năm 1980. Khoảng 500 chiếc đã được sản xuất giữa những năm 1978-1981. MiG-23P không được xuất khẩu, và chỉ hoạt động trong biên chế của PVO.
  • MiG-23bis: nó giống với MiG-23P nhưng hệ thống IRST đã được sử dụng trên phiên bản này và màn hình hiện thị radar cồng kềnh đã được loại bỏ, vì mọi thông tin cung cấp được hiển thị trên màn hình trước mặt phi công(HUD).
  • MiG-23ML: đây là phiên bản Flogger đầu có ý định sử dụng tên lửa tấn công tốc độ cao. Phiên bản sản xuất đầu tiên có hiện tượng rạn nứt dưới giá đỡ vũ khí. Khả năng thao diễn của phiên bản này cũng bị chỉ trích. Kết quả lớn nhất từ loại MiG-23ML (L - trọng lượng nhẹ) là khung máy bay đã được hoàn thiện, và nó là cơ sở của những loại máy bay mới sau này. Trọng lượng rỗng của máy bay giảm xuống 1250 kg, vì bỏ bớt đi thùng nhiên liệu phụ trong thân máy bay. Bộ phận hạ cánh được thiết kế lại. Khung máy bay chịu được gia tốc trọng trường tối đa là 8.5 g, so với 8 g của phiên bản MiG-23M/MF 'Flogger-B'. Động cơ mới R-35F-300 cung cấp lực đẩy là 8550 kg và 13.000 kg với nhiên liệu phụ. Hệ thống điện tử cải tiến đã góp phần nâng cao hiệu suất của máy bay. Hệ thống tiêu chuẩn S-23ML gồm cả rada Sapfir-23ML và hệ thống TP-23ML IRST. Rada mới đáng tin cậy và nó có thể dò tìm mục tiêu trong phạm vi 65 km. Radio mới và hệ thống đường truyền dữ liệu mới được lắp đặt. Phiên bản này bay lần đầu vào năm 1976 và bắt đầu sản xuất năm 1978.
  • MiG-23MLA: đâu là biến thể được sản xuất sau của dòng "ML" được ký hiệu là "MLA". Về dáng vẻ bên ngoài thì MLA giống hệt ML. Bên trong, MLA được gắn hệ thống radar đối phó điện tử EMC, nó vừa có thể thăm dò mặt đất và gây nhiễu đối với rada của đối phương. Nó có hệ thống hiển thị ngắm bắn mới ASP-17ML HUD, và tên lửa cải tiến Vympel R-24R/T. Giữa những năm 1978-1982, khoảng 1100 chiếc ML/MLA đã được sản xuất cho không quân Xô viết và xuất khẩu. MiG-23MF nó có sự khác biệt với phiên bản MiG-23ML để xuất khẩu: MiG-23MF được xuất khẩu cho những nước trong khối hiệp ước Vác-xa-va, còn MiG-23ML sử dụng rada phiên bản cũ để xuất khẩu cho những nước đồng minh của Liên Xô thuộc thế giới thứ 3.

Flogger-K

MiG-23MLD
  • MiG-23MLD: MiG-23MLD là phiên bản tiêm kích cuối cùng của MiG-23. Điểm chính trong việc nâng cấp là cải thiện khả năng cơ động, linh hoạt, đặc biệt là khả năng tấn công với góc tấn lớn (AoA). Hệ thống lái được cải thiện tăng khả năng điều khiển và an toàn hơn trong tấn công với tốc độ cao. Sự cải tiến quan trọng nhất là hệ thống điện tử được lắp đặt trên máy bay: Sapfir-23MLA-II có những thay đổi vượt bậc trong phát hiện, bắn hạ và chiến đấu trong khoảng không hẹp. Radar cảnh báo từ xa SPO-15L, hệ thống gây nhiễu bằng các mảnh kim loại và bắn pháo hiệu được lắp đặt. Đặc biệt là loại tên lửa tầm ngắn mới và hiệu quả Vympel R-73 (NATO: AA-11 'Archer') đã được trang bị. Không có một chiếc "MLD" nào được cung cấp cho VVS, vì đã có loại máy bay hiện đại hơn là MiG-29 được bắt đầu sản xuất. Thay vì sản xuất loại MiG-23MLD, thì những chiếc ML/MLA đã được nâng cấp lên thành loại MLD. Khoảng 560 chiếc đã được nâng cấp giữa những năm 1982-1985. Cũng giống như những phiên bản ban đầu của MiG-23, 2 phiên bản xuất khẩu riêng đã được giới thiệu. Không giống như kiểu của Liên Xô, chúng là những máy bay được chế tạo mới, dù hình dáng khí động học không được cải tiến như những chiếc 'MLD' của Liên Xô; 16 chiếc đã được giao cho Bulgaria, và 50 chiếc cho Syria. Đây là những chiếc tiêm kích MiG-23 một chỗ cuối cùng được chế tạo và là mẫu cuối cùng được trước khi dây chuyền sản xuất đóng cửa vào tháng 12-1984.

Phiên bản cường kích

Flogger-F

  • MiG-23B: Một đòi hỏi về một loại máy bay vừa có thể làm nhiệm vụ tiêm kích vừa có thể ném bom đã được đưa ra vào cuối những năm 1960, MiG-23 ra đời đã được lựa chọn là mẫu thích hợp nhất để tiến hành thử nghiệm đòi hỏi trên. Mẫu đầu tiên của dự án có ký hiệu là "32-34", nó bay thử lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 8-1970. MiG-23B đã được thiết kế lại phần khung máy bay phía trước, nhưng nó lại có những bộ phận khác giống với MiG-23S. Ghế ngồi của phi công được cải tiến để tăng tầm nhìn, kính chắn được thay bằng loại kính chống đạn. Phần mũi được làm nhọn và có hình nón. Phiên bản này không có rada, thay vào đó là hệ thống ngắm bắn tấn công mặt đất Sokol-23, nó tương tự như một máy tính vật lý, hệ thống đo khoảng cách bằng tia lade và bom định hướng PBK-3. Hệ thống lái đồng bộ và lái tự động đã được cải tiến nhằm tăng khẳ năng chính xác khi thả bom. Phiên bản này giữ lại súng GSh-23L, và giá treo vũ khí tăng thêm tối đa trọng tải 3000 kg. Khả năng sống sót được bảo đảm bằng việc cải tiến với hệ thống tác chiến điện tử và khí trơ trong thùng nhiên liệu nhằm ngăn ngừa cháy nổ. Nguyên mẫu đầu tiên có kiểu cánh của MiG-23S, nhưng đến những mẫu sau thì được lắp loại cánh lớn hơn có tên "type 2". Quan trọng nhất là động cơ phản lực AL-21F-3 với lực đẩy cực đại lên tới 11.500 kg thay thế cho phiên bản động cơ R-29. Việc sản xuất phiên bản này được giới hạn, do động cơ AL-21 được ưu tiên cung cấp cho sản xuất Sukhoi Su-17Sukhoi Su-24. Ngoài ra, động cơ này không được xuất khẩu vào thời điểm đó. Chỉ có 3 mẫu MiG-23B và 24 chiếc được sản xuất trong năm 1971-1972.
MiG-23BN
  • MiG-23BN: đây là phiên bản cuối cùng trong biến thể tiêm kích-bom. Nó khá giống với MiG-23B, nhưng sử dụng động cơ R-29-300 giống với những phiên bản tiêm kích Flogger khác. Nó được lắp mẫu cánh "type 3". Nó cũng có một số thay đổi nhỏ không quan trọng trong hệ thống điện tử và vũ khí trang bị, và một số thay đổi là làm tăng thời gian bay lâu hơn. Phiên bản này đã tỏ ra ưu việt và khá phổ biến, nó được xuất khẩu rộng rãi. Như thường lệ, phiên bản yếu hơn cũng được chế tạo để bán cho các khách hàng ở Thế giới thứ ba. Việc sản xuất bắt đầu vào năm 1973 cho đến năm 1985, với 624 chiếc đã được chế tạo. Phần lớn trong đó được xuất khẩu, chỉ một số ít được phục vụ trong không quân Liên Xô.

Flogger-H

  • MiG-23BK: phiên bản này giống với MiG-23BN. Nó chỉ được xuất khẩu cho các nước trong khối Vác-xa-va. Phiên bản này được lắp rada cảnh báo từ xa, hệ thống lái PrNK-23 và tấn công.
Nguyên mẫu MiG-23
  • MiG-23BM: đây là MiG-23BK cải tiến, với hệ thống PrNK-23M thay thế cho PrNK-23, và hệ thống máy tính digital thay thế cho máy tính analog.
  • MiG-23BM thí nghiệm: phiên bản này tập hợp toàn bộ những ưu việt của những phiên bản trước cho một chiếc máy bay tấn công. Sau đó nó được thiết kế lại và thiết kế cuối cùng có tên gọi Mikoyan-Gurevich MiG-27 (NATO: 'Flogger-D') nó được coi là một loại máy bay tách riêng khi đi vào hoạt động. MiG-23BM thí nghiệm được coi là người tiền nhiệm của MiG-27. Nó không giống với mẫu MiG-23BM và những phiên bản MiG-23 khác.

Các phiên bản trong đề án và nâng cấp

MiG-23 không quân Ukraina
  • MiG-23R là một phiên bản trinh sát trong đề án; nhưng nó không bao giờ được hoàn thành.
  • MiG-23MLGD, MLGMLS là những phiên bản chiến đấu cải tiến cao cấp hơn với rada và hệ thống tác chiến điện tử mới, đến chừng mực nào đó thì những phiên bản này khá giống với MiG-29. Chúng bị lãng quên khi người ta dành sự ưu tiên cho chương trình MiG-29.
  • MiG-23K là một phiên bản cho tàu sân bay được cải tiến từ MiG-23ML.
  • MiG-23A là phiên bản đa chức năng phát triển từ MiG-23K. Đã có kế hoạch phát triển MiG-23A thành 3 biến thể khác nhau: MiG-23AI, MiG-23ABMiG-23AR. MiG-23AI là máy bay chiến đấu, MiG-23AB là biến thể tấn công và MiG-23AR là biến thể trinh sát. Tuy nhiên, chúng đã không được hoàn thành do những phiên bản MiG-23K và MiG-23A đã bị hủy bỏ.
Ngoài ra còn có phiên bản MiG-23 khác là MiG-23MLK, phiên bản này định sử dụng 2 động cơ mới R-33 hay 1 động cơ R-100, và MiG-23MD về cơ bản là MiG-23M với hệ thống rada Saphir-23MLA-2. MiG-23ML-1 là một phiên bản khác với những lựa chọn khác nhau về động cơ; nó được chọn sử dụng một động cơ là loại R-100 hoặc R-69F, nếu dùng 2 động cơ thì sẽ sử dụng 2 động cơ loại R-33. Nó có kế hoạch trang bị loại tên lửa không đối không mới loại R-146.
Vào cuối những năm 1990, Cục thiết kế Mikoyan, tiếp theo sau sự thành công của phiên bản cải tiến MiG-21, đã đưa ra phiên bản cải tiến MiG-23-98 được đánh giá khá thành công với một radar mới, hệ thống phòng thủ đồng bộ, hệ thống điện tử mới, cải tiến buồng lái, hệ thống ngắm bắn mới, và nâng cấp để MiG-23 có thể mang được tên lửa đời mới Vympel R-27 (NATO: AA-10 'Alamo') và Vympel R-77 (NATO: AA-12 'Adder'). Giá thành mỗi chiếc được nâng cấp khoảng 1 triệu USD. Sau đó có thêm một số cải tiến nữa được đưa ra là cải tiến loại rada hiện đang trang bị là Sapfir-23 để có thể kết hợp với những loại tên lửa mới và hệ thống điện tử. Khung máy bay cũng được gia cố kéo dài tuổi thọ.
MiG-23 không quân Xô viết
Nhưng sau đó những cải tiến này chỉ giành được sự chú ý từ một số nước. Năm 2005, Angola đã cải tiến rada Saphir trên những chiếc MiG-23ML; rada cải tiến cho phép những chiếc MiG-23 của Angola có thể sử dụng những loại vũ khí không đối không và không đối đất mới. Loại rada cải tiến này trông khá giống với rada cải tiến trên phiên bản MiG-23-98-2. Năm 2006, Ấn Độ đã chọn động cơ AL-21 để thay thế cho động cơ R-29B-300 cho những chiếc MiG-23BN và MiG-27 thuộc các phi đội của không quân Ấn Độ. Loại động cơ mới này là một cải tiến gần đây cho MiG-23 của Lyulka.
Tổng cộng có 5047 chiếc MiG-23 được sản xuất bao gồm phiên bản tiêm kích, cường kích và huấn luyện (không kể đến MiG-27), trong đó có 3630 chiếc là phiên bản tiêm kích.
MiG-23 và Mikoyan-Gurevich MiG-25 là những máy bay phản lực đầu tiên thử nghiệm hệ thống cảnh báo trong buồng lái, hệ thống này sử dụng giọng nói của phụ nữ thu âm sẵn trong bộ nhớ, nó thông báo cho phi công biết các tham số chuyến bay. Giọng của phụ nữ được chọn có đặc trưng là trong và dễ phân biệt giữa sự truyền đạt thông tin từ mặt đất và từ các máy bay khác trong hệ thống truyền tin, từ lâu giọng nam đã được lựa chọn để truyền thông tin từ mặt đất trong Không quân Xô Viết. Sau này những máy bay của Phương Tây cũng áp dụng hệ thống này, và nó trở thành hệ thống tiêu chuẩn cho các máy bay phản lực trên toàn thế giới.

Giá thành

MiG-23 có một thuận lợi để xuất khẩu là có giá thành khá rẻ vào những năm 1980. Ví dụ, MiG-23MS có giá khoảng 3.6 - 6.6 triệu USD phụ thuộc vào khách hàng. Trong khi đó một chiếc F-16 Fighting Falcon cùng thời điểm đó có giá 14 triệu USD, và đối thủ cạnh tranh chính của MiG-23 từ phương Tây là Kfir C2 có giá là 4.5 triệu USD.

Vũ khí

Các loại vũ khi trang bị trên MiG-23
Vũ khí của MiG-23 phát triển theo các phiên bản mới được triển khai và hệ thống điện tử hàng không được nâng cấp. Những phiên bản ban đầu, được trang bị với hệ thống điều khiển hỏa lực của MiG-21, hệ thống hạn chế không sử dụng những phiên bản mới của tên lửa R-3 (AA-2 'Atoll'). R-60 (AA-8 'Aphid') thay thế R-3 trong thập niên 1970, và từ phiên bản MiG-23M, tên lửa R-23/R-24 (AA-7 'Apex') đã được trang bị. Những chiếc Flogger thế hệ thứ 3 có khả năng bắn tên lửa R-73 (AA-11 'Archer') khi loại tên lửa này được trang bị, nhưng tên lửa không được xuất khẩu cho đến khi MiG-29 cũng được xuất khẩu. Hệ thống hiển thị trên mũ phi công kết hợp với AA-11 'Archer' (R-73) được trang bị trên các phiên bản phụ thử nghiệm là MiG-23MLD/MLDG, đây là những phiên bản chưa bao giờ được sản xuất như đã lên kế hoạch trước đó. Lý do là phiên bản phụ MiG-23MLD đã mất sự ưu tiên so với chương trình MiG-29 lúc đó, và phòng thiết kế Mikoyan quyết định tập trung mọi nỗ lực của mình vào chương trình MiG-29 và tạm ngừng những công việc xa hơn trên loại MiG-23. Tuy vậy, hệ thống hiển thị trên mũ phi công hiện nay là một phần trong chương trình nâng cấp MiG-23-98. Các báo cáo về MiG-23MLD có khả năng bắn tên lửa AA-10 'Alamo' (R-27) ngoài những kiểm tra thử nghiệm bắn của nó; tuy nhiên, có vẻ chỉ có những chiếc MiG-23-98 của Angola có khả năng làm việc đó. Một chiếc MiG-23 được sử dụng để kiểm tra và bắn các loại tên lửa không đối không AA-10, AA-11 và AA-12 trong khi diễn ra những cuộc thử nghiệm vũ khí và bay đầu tiên. Vũ khi tấn công mặt đất bao gồm rocket 57 mm, bom công dụng chung có trọng lượng lên tới 500 kg, súng, và tên lửa dẫn hướng bằng sóng vô tuyến Kh-23 (AS-7 'Kerry'). Ngoài ra 4 thùng nhiên liệu phụ cũng được mang thêm.

Lịch sử hoạt động

Những sử gia hàng không của Phương Tây và Nga thường bất đồng về hồ sơ chiến đấu của MiG-23, một phần vì sự thiên vị vì lợi ích của ngành công nghiệp máy bay của mỗi quốc gia. Họ thông thường cũng chấp nhận những tuyên bố đi cùng với những tầm nhìn chính trị tương ứng của họ, thông thường nhiều báo cáo trái ngược, mẫu thuẫn được viết ra và được cấp nhận bởi những sử gia của từng quốc gia. Có các bằng chứng bằng hình ảnh đã được xuất bản chứng minh MiG-23 có cả những thất bại và chiến thắng trong không chiến.
MiG-23
Chiếc MiG-23 đầu tiên được nhìn thấy trong không chiến là một phiên bản xuất khẩu với nhiều hạn chế. MiG-23MS thiếu những hệ thống cơ bản như radar cảnh báo. Ngoài ra, khi so sánh với MiG-21, loại máy bay này có máy móc phức tạp và đắt hơn. Những phiên bản xuất khẩu đầu cũng thiếu nhiều "kiểu dự đoán chiến tranh" trong những radar của mình, khiến máy bay dễ bị tổn thương khi phòng chống với hệ thống đối phó điện tử (ECM), mà Israel lại đặc biệt thành thạo. Israel tuyên bố trong giai đoạn 1982-1985, không máy bay nào của Israel bị mất do bị bắn hạ từ máy bay đối phương, chỉ có 5 chiếc bị tên lửa SAM của Syria bắn hạ. Những báo cáo của Israel (phần lớn do các sử gia phương Tây xác nhận) nói rằng trong thời kỳ khốc liệt của cuộc chiến từ 6 tháng 6 đến 11 năm 1982 trong cuộc chiến Liban, 85 máy bay của Syria đã bị bắn hạ trong không chiến[cần dẫn nguồn]. Ít nhất 30 chiếc là MiG-23[cần dẫn nguồn], nhưng chủ yếu là phiên bản cường kích MiG-23BN, phiên bản này không được thiết kế cho không chiến. Những báo cáo này tất nhiên có cả tuyên truyền của Israel, chúng không được Syria cũng như Liên Xô và các sử gia ngoài phương Tây công nhận.
Israel cũng tuyên bố những chiếc F-15 của họ đã bắn hạ 2 chiếc MiG-23ML vào năm 1985[cần dẫn nguồn].
Theo các sử gia Liên Xô/Nga, ngày 11 tháng 6 năm 1982, 2 phi công lái 2 chiếc MiG-23MS tên là Heyrat và Zabi đã bắn hạ 1 chiếc phản lực F-4 của Israel bằng 2 tên lửa AA-2 'Atolls'..[2]
Theo những nguồn tin của Liên Xô/Nga, thì người Syrian chỉ mất 6 chiếc MiG-23MF và 4 phiên bản xuất khẩu MiG-23MS trong suốt cuộc chiến tháng 6 tại thung lũng Bekaa, và 14 chiếc MiG-23 thuộc phiên bản tấn công mặt đất MiG-23BN cũng bị mất. Cũng trong thời gian đó thì những chiếc MiG-23 của Syria đã hạ ít nhất là 5 chiếc F-16, 2 chiếc F-4E và 1 chiếc BQM-34 trinh sát không người lái.[2]
Vào ngày 7 tháng 6-1982, 3 chiếc MiG-23MF (phi công lái là Hallyak, Said, và Merza) tấn công một nhóm F-16. Đại úy Merza đã phát hiện ra những chiếc F-16 ở khoảng cách 25 km và đã bắn rơi 2 chiếc F-16 với tên lửa R-23 (AA-7 'Apex') (một chiếc ở cách 9 km, chiếc còn lại trong khoảng 8 km) trước khi Merza bị bắn hạ. Ngày 8 tháng 6-1982, 2 chiếc MiG-23MF khác lại gặp một nhóm F-16. MiG-23 đã phát hiện ra 1 chiếc F-16 từ 21 km và bắn hạ nó bằng tên lửa R-23 từ khoảng cách 7 km. Và phi công Syrian lại bị bắn hạ bằng tên lửa AIM-9 Sidewinder từ chiếc F-16 khác. Ngày 9 tháng 6-1982, 2 chiếc MiG-23 phi công lái là Dib và Said, tấn công một nhóm F-16. Dib đã bắn hạ một chiếc F-16 từ xa 6 km bằng tên lửa R-23, nhưng sau đó cũng bị bắn hạ bằng tên lửa Sidewinder.
MiG-23 trưng bày tại Israel
Những nguồn tin từ Liên Xô/Nga cho biết 3 chiếc F-15 và 1 chiếc F-4 bị bắn hạ trong tháng 10-1983 bằng những chiếc MiG-23ML mới và không chiếc MiG-23 nào bị bắn hạ..[2] Nhưng những học giả phương Tây phủ nhận tin này và cho rằng đã có 2 chiếc MiG-23ML bị F-15 của Israeli bắn hạ.
MiG-23 cũng có mặt trong chiến tranh Iran-Iraq, nhưng kết quả không chiến khó xác định.
Vài chiếc MiG-23ML của CubaMirage F1 của Nam Phi đã chạm chán trong nội chiến Angola, một chiếc F1 đã bị bắn hạ bởi tên lửa R-60 (NATO: AA-8 'Aphid') từ một chiếc MiG-23ML của Cuba.
Những chiếc MiG-23MLD của Liên Xô và F-16 của Pakistan đã xung đột một vài lần trong cuộc chiến của Liên Xô ở Afghanistan, 1 chiếc F-16 đã bị hạ năm 1987 bởi MiG-23MLD. Nhưng Pakistan lại nhất quyết cho rằng chiếc F-16 bị bắn hạ bởi chính những chiếc F-16 cùng phi đội. Một năm sau, MiG-23MLD của Liên Xô dùng tên lửa R-24 (NATO: AA-7 'Apex') đã hạ 2 chiếc AH-1J Cobra của Iran khi xâm nhập vào không phận của Afghan. Vào ngày 21 tháng 6-1978, một chiếc MiG-23M của Lực lượng phòng không Xô viết do đại úy phi công V. Shkinder điều khiển đã bắn hạ 2 chiếc trực thăng CH-47 Chinook của Iran xâm phạm vào không phận Liên Xô, 1 chiếc bị hạ bởi 2 tên lửa R-60 và chiếc khác bị pháo trên máy bay bắn hạ.
2 chiếc MiG-23MS của Libya đã bị bắn hạ bởi những chiếc F-14 trong sự kiện Vịnh Sidra năm 1989. Trong suốt chiến tranh vùng vịnh, những chiếc F-15 của không quân Mỹ đã hạ 8 chiếc MiG-23 của Iraq. Một số nguồn của Nga công bố một chiếc F-16 của Mỹ đã bị bắn hạ bởi một chiếc MiG-23 của Iraq trong chiến tranh.

Phục vụ Liên Xô và Khối Warszawa

MiG-23MF trưng bày tại bảo tàng Kbely, Praha, Cộng hòa Séc.
Vì hai khe hút khí lớn ở bên cạnh thân máy bay đã khiến máy bay có biệt danh "Cheburashka" bởi một số phi công Liên Xô sau khi một nhân vật hoạt hình hư cấu của Nga được vẽ với hai cái tai to. Biệt danh này sau này đã được dùng cho Antonov An-72/74, mặc dù ngày nay tên gọi này cũng được dùng cho một số loại máy bay khác có hình dáng bên ngoài tương tự nhân vật hoạt hình Cheburashka, bao gồm cả A-10 Thunderbolt II của USAF.
Loại máy bay này không được sử dụng số lượng lớn trong các lực lượng không quân thuộc khối Warszawa như hình dung trước đó. Khi những chiếc MiG-23 được triển khai lần đầu, chúng được coi là một kiểu điển hình máy bay của lực lượng không quân Đông Âu. Tuy nhiên, nhanh chóng sau đó những bất lợi trở nên hiển nhiên và MiG-23 đã không thay thế MiG-21 như dự định ban đầu. MiG-23 có một số khiếm khuyết, hạn chế khả năng hoạt động và chi phí vận hành theo giờ cao hơn so với MiG-21. Không quân khối Đông Âu sử dụng những chiếc MiG-23 để thay thế những chiếc MiG-17MiG-19.
Năm 1990, khoảng 1500 chiếc MiG-23 thuộc nhiều phiên bản đang phục vụ trong Không quân Xô Viết VVS và Quân chủng phòng không Xô Viết PVO. Với sự tan rã của Liên Xô, Không quân Nga bắt đầu cắt giảm số lượng máy bay chiến đấu của mình, và những chiếc MiG-23 và MiG-27 đã bị cắt giảm khỏi biên chế và đưa vào các nhà kho lưu trữ. Và phiên bản cuối cùng của MiG-23 còn phục vụ cho đến năm 1998 là MiG-23P.
Khi Đông và Tây Đức hợp nhất, không một chiếc MiG-23 nào được sử dụng trong Luftwaffe (Không quân Đức), nhưng 12 chiếc MiG-23 từ Đông Đức đã được chuyển cho phía Mỹ. Khi Tiệp Khắc tách thành Cộng hòa SécSlovakia, Séc đã được quyền sử dụng toàn bộ số MiG-23 của Tiệp Khắc, nhưng chúng cũng về hưu vào năm 1998. Hungary cho những chiếc MiG-23 của mình về hưu năm 1996, Ba Lan năm 1999, Romania năm 2000 và Bulgaria năm 2004. Nhiều chiếc MiG-23 của Liby và Cuba cũng không bay trong những năm gần đây. Và một số chiếc MiG-23 đã được dùng làm vật trưng bày.
MiG-23 là máy bay gây chiến được Không quân Xô viết sử dụng huấn luyện không chiến từ cuối thập niên 1970 đến cuối thập niên 1980. Nó chứng tỏ là một đối thủ gây khó khăn cho những phiên bản MiG-29 đời đầu do những phi công thiếu kinh nghiệm điều khiển. Những bài tập cho thấy khi bay tốt, một chiếc MiG-23MLD cũng có thể đạt được tỷ lệ hạ đối phương tốt khi tập trận với MiG-29 trong các trận không chiến giả, khi sử dụng chiến thuật bắn và chạy và không lôi kéo những chiếc MiG-19 vào hỗn chiến. Thông thường những chiếc MiG-23MLD gây chiến được sơn hàm cá mập ở mũi, và nhiều được điều khiển bởi nhiều phi công kỳ cựu trong chiến tranh Xô viết-Afghan. Vào cuối thập niên 1980, mhững chiếc MiG-23 gây chiến bị MiG-29 thay thế, và những chiếc MiG-29 này cũng sơn hàm cá mập ở mũi.

Kiểm tra hiệu suất

MiG-23 với 6 giá treo tên lửa R-23 và R-60
Rất nhiều quốc gia thù địch và bạn hàng của Liên Xô mong muốn có cơ hội được đánh giá hiệu suất của MiG-23. Vào năm 1970, sau một cuộc tổ chức lại xã hội bởi những người đứng đầu Ai Cập, Ai Cập đã cung cấp cho Hoa Kỳ một số máy bay MiG-23MS của mình và Hoa Kỳ cũng nhận được MiG-23 từ Trung Quốc trong một cuộc trao đổi vũ khí. Những chiếc MiG-23MS đã giúp Trung Quốc phát triển loại Shenyang J-8II, loại máy bay này của Trung Quốc có vài chi tiết vay mượn của MiG-23, đó là bộ phận giữ thăng bằng và khe hút không khí. Tại Mỹ, những chiếc MiG-23MS và những phiên bản khác thu được sau khi nước Đức hợp nhất đã giúp cho các nhà khoa học đánh giá được chương trình vũ khí của quân đội Liên Xô. Phi công Hà Lan Leon Van Maurer, người có hơn 1200 giờ bay với F-16, đã bay với chiếc MiG-23ML Flogger-G tại căn cứ không quân ở Đức và Hoa Kỳ trong các trận chiến giả khi MiG-23ML được trang bị vũ khí của Liên Xô. Leon Van Maurer đã nhận xét MiG-23ML tỏ ra ưu việt hơn hẳn những phiên bản đầu của F-16 trong thao tác bay, và hệ thống không chiến ngoài tầm nhìn BVR (Beyond Visual Range).
Người Israel đã thử nghiệm một chiếc MiG-23MLD thu được của Syri và nhận thấy rằng nó có tốc độ nhanh hơn những chiếc F-16 và F/A-18.
Sau khi tìm hiểu một chiếc MiG-23 khác, người Mỹ và Israel kết luận rằng, MiG-23 ngoài một màn hình hiển thị trước mặt phi công HUD, nó còn có một HUD khác hiển thị như một màn hình radar khoảng cách, cho phép phi công quan sát không giới hạn và làm việc đơn giản hơn với hệ thống rada của mình. Nét đặc trưng này cũng được lắp trên MiG-29, mặc dù trên máy bay có một màn hình CRT (màn hình ống phóng tia ca-tốt) có tác dụng như hệ thống kia. Người Israel cực kỳ ấn tượng với hệ thống này, nhưng một phi công F-16 của Mỹ lại chê bai hệ thống này dễ gây kẹt hỏng bản đồ hiển thị trên màn hình HUD.
Ngoài sự đào ngũ của một phi công Syri lái MiG-23 tới Hy Lạp năm 1981, còn có một phi công Cuba đã lái chiếc MiG-23BN tới Mỹ năm 1991. Trong cả 2 trường hợp, những chiếc máy bay đều bị trả lại chậm trễ cho Syri và Cuba.

Các quốc gia sử dụng

Bản đồ các nước sử dụng MiG-23 trong biên chế chính thức

Các nước vẫn đang sử dụng

 Algérie
29 MiG-23BN/MS/UB
 Angola
32 MiG-23M/UB
 Belarus
34 MiG-23M
 Cuba
69 MiG-23MF/ML/UB
 Ethiopia
32 MiG-23BN/UB làm nhiệm vụ cường kích. Phiên bản đánh chặn là MIG-23ML, đã ngừng hoạt động.
Cờ của Gruzia Gruzia
Flag of India.svg Ấn Độ
60 MiG-23BN/UB. Phiên bản MiG-23MF ngừng hoạt động vào 20 tháng 3-2007.
 Kazakhstan
100 MiG-23M/UB
 Libya
130 MiG-23MS/ML/BN/UB
 CHDCND Triều Tiên
56 MiG-23ML/UB
 Sri Lanka
Một chiếc huấn luyện MiG-23UB, chỉ sử dụng huấn luyện cho phi đội MiG-27
 Syria
146 MiG-23MS/MF/ML/MLD/BN/UB
 Turkmenistan
230 MiG-23M/UB
 Việt Nam
30 MiG-23ML, 6 MiG-23UB. Thu được ở Cam Ranh không rõ tình trạng. Một số nguồn thông tin là số MiG-23 này được cất trong kho và bỏ ngoài bãi không sử dụng.
 Yemen
44 MiG-23BN/UB
 Zimbabwe
3 MiG-23M/UB[3]
Chú thích: Còn những chiếc MiG-23 của Belarussia không biết chắc về tình trạng hoạt động.

Các nước không còn sử dụng

MiG-23MF
 Afghanistan
MiG-23BN/UB có thể đã phục vụ trong Không quân Afghan từ năm 1984. Nhưng không chắc đấy có phải là máy bay Liên Xô sơn cờ của Afghan.
 Bungary
Tổng cộng 90 MiG-23 hoạt động trong Không quân Bulgaria từ năm 1976, ngừng hoạt động năm 2002. Bao gồm 33 MiG-23BN, 12 MiG-23MF, 1 MiG-23ML, 8 MiG-23MLA, 21 MiG-23MLD và 15 MiG-23UB.
 Cộng hòa Séc
MiG-23 ngừng hoạt động năm 1994 (BN,MF) và 1998 (ML, UB).
Flag of the Czech Republic (bordered).svg Tiệp Khắc
MiG-23 chuyển cho Cộng hòa Séc.
Flag of East Germany.svg Cộng hòa Dân chủ Đức
Chuyển cho Luftwaffe. Luftwaffe chuyển 2 chiếc MiG-23 cho không quân Mỹ và 1 chiếc cho bảo tàng ở Florida, những chiếc khác giao lại cho các quốc gia khác hoặc bị loại bỏ.
 Iran
24 từ Iraq năm 1991, đang cất giữ trong kho.
Flag of Egypt.svg Ai Cập
6 MiG-23BN/MF/U đã gửi cho Trung Quốc để trao đổi vũ khí quân sự; Trung Quốc dùng chúng để đánh giá. Ít nhất 8 chiếc được giao cho Mỹ.
 Hungary
16 MiG-23 ngừng hoạt động năm 1997; gồm 12 MiG-23MF và 4 MiG-23 UB.
 Iraq
Một số MiG-23 của Iraq gửi cho Nam Tư để nâng cấp khi chiến tranh vùng vịnh và chiến tranh Nam Tư bắt đầu, hiện số MiG-23 này đang ở Bảo tàng hàng không Belgrade.
 Ba Lan
36 MiG-23MF một chỗ và 6 MiG-23UB huấn luyện được giao cho Không quân Ba Lan từ 1979-1982, ngừng hoạt động tháng 9-1999.
 România
46 MiG-23 hoạt động từ 1979 đến 2001 và ngừng hoạt động năm 2003; gồm 36 MiG-23MF và 10 MiG-23 UB.
 Nga
Xấp xỉ 300, tất cả đang lưu trữ trong kho.
 Liên Xô
Chuyển cho các nước cộng hòa.
 Sudan
 Ukraina

Các quốc gia chỉ sử dụng đánh giá

 Trung Quốc
MiG-23 nhận từ Ai Cập.
 Israel
1 chiếc của Syria đào ngũ sang Israel.
Cờ Hoa Kỳ Hoa Kỳ
MiG-23 nhận từ Ai Cập tiếp tục bay đánh giá đến cuối thập niên 1980 và hiện đang ở Căn cứ không quân Nellis
Chú thích: Không quân Nhân dân Việt Nam không sử dụng MiG-23. Những chiếc MiG-23 ở Việt Nam là máy bay Xô Viết đóng tại căn cứ quân cảng Vịnh Cam Ranh trong suốt những năm 1980.
Không quân Albania chưa bao giờ có MiG-23.[4]

Thông số kỹ thuật (MiG-23MLD Flogger-L)

trang bị của MiG-23

Đặc điểm riêng

  • Phi đoàn: 1
  • Chiều dài: 16.70 m (56 ft 9.5)
  • Sải cánh: cánh xòe 13.97 m (45 ft 10 in)
  • Chiều cao: 4.82 m (15 ft 9.75 in)
  • Diện tích cánh: xòe 37.35 m², cụp 34.16 m (402.05 ft² / 367.71 ft²)
  • Trọng lượng rỗng: 9.595 kg (21.153 lb)
  • Trọng lượng cất cánh: 15.700 kg (34.612 lb)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: 18.030 kg (39.749 lb)
  • Động cơ: 1× Khatchaturov R-35-300, lực đẩy 83.6 kN và 127 kN khi đốt nhiên liệu phụ trội (18.850 lbf / 28.700 lbf)

Hiệu suất bay

Vũ khí

Trang bị của MiG-23 được tăng lên khi hệ thống điện tử được cải tiến và những phiên bản mới được phát triển. Trong những phiên bản đầu tiên, chúng được trang bị hệ thống vũ khí của MiG-21, nó bị giới hạn chỉ dùng được tên lửa R-3 (AA-2 'Atoll'). Cuối những năm 1970, R-60 (AA-8 'Aphid') được dùng thay thế cho R-3 và phiên bản MiG-23M đã mang tên lửa R-23/R-24 (AA-7 'Apex'). Đến phiên bản thứ 3 của Flogger đã sử dụng được tên lửa R-73 (AA-11 'Archer'), nhưng loại tên lửa này không được xuất khẩu cho đến khi MiG-29 được bắt đầu xuất khẩu. MiG-23 được dùng để bay thử và bắn tên lửa không đối không AA-10, AA-11 và AA-12. Trang bị cho phiên bản tấn công mặt đất gồm có rocket 57 mm, bom điều khiển lên tới 500 kg, súng và tên lửa điều khiển bằng sóng vô tuyến Kh-23 (AS-7 'Kerry'). Ngoài ra còn có thể mang 4 thùng nhiên liệu phụ.
Theo tài liệu hướng dẫn của MiG-23ML, nó có thể duy trì liên tục vận tốc quay 14.1°/giây và vận tốc quay tức thời lớn nhất đạt 16.7°/giây. MiG-23ML tăng tốc từ 600 km/h (373 mph) lên 900 km/h (559 mph) chỉ trong 12 giây trên độ cao 1000 m. MiG-23 trên độ cao 1000 m khi tăng tốc độ từ 630 km/h (391 mph) lên 1300 km/h (808 mph) chỉ mất 30 giây, và trên độ cao 10–12 km khi tăng tốc độ từ Mach 1 lên Mach 2 chỉ mất 160 giây.

Tham khảo

  1. ^ Fulghum, David A., "MiGs in Nevada", Aviation Week & Space Technology, 27 tháng 11, 2006
  2. ^ a ă â нЙз-23 ОБ вМЙЦОЕН чПУФПЛЕ
  3. ^ Target&Зво
  4. ^ Albanian Air Force Aircraft Types Not Used

Liên kết ngoài

Nội dung liên quan

Máy bay có cùng sự phát triển

Máy bay có tính năng tương đương

Danh sách tiếp theo

MiG-17 - MiG-19 - MiG-21 - MiG-23 - MiG-25 - MiG-27 - MiG-29 - MiG-31

Video yêu thích   
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Trở về trang chính

Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống Thơ cho con

No comments:

Post a Comment