Wednesday, June 18, 2014

Chào ngày mới 18 tháng 6



CNM365 Chào ngày mới 18 tháng 6 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Quốc khánh tại Seychelles. Năm 618 – Đường vương Lý Uyên đăng cơ làm hoàng đế tại Thái Cực điện tại Trường An, khởi đầu triều ĐườngNăm 1812Chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Đế quốc Anh bắt đầu khi Quốc hội Hoa Kỳ bỏ phiếu thông qua việc tuyên chiến với Anh. Năm 1815Chiến tranh Liên minh thứ bảy: Napoléon Bonaparte chiến bại trong trận Waterloo (hình) tại Bỉ. Năm 1981Lockheed F-117 Nighthawk có chuyến bay đầu tiên, là máy bay khả dụng đầu tiên được thiết kế hoàn toàn theo công nghệ tàng hình.

Trận Waterloo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Waterloo
Một phần của Các cuộc chiến tranh Napoléon
Battle of Waterloo 1815.PNG
Trận chiến Waterloo, của William Sadler
.
Thời gian 18 tháng 6 1815
Địa điểm Waterloo, Bỉ
Kết quả Thắng lợi quyết định của phe Liên minh
Tham chiến
Cờ của Pháp Đệ nhất Đế chế Liên minh thứ bảy:
Cờ của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Anh
Cờ của Vương quốc Phổ Phổ
Flag of the Netherlands Hà Lan
Cờ của Tuyển hầu Hanover Hannover
Flagge Herzogtum Nassau (1806-1866).svg Nassau
Flagge Herzogtum Braunschweig.svg Brunswick
Chỉ huy
Cờ của Pháp Napoléon Bonaparte Cờ của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Công tước Wellington
Cờ của Vương quốc Phổ Gebhard von Blücher


Lực lượng
72.000 người[1] 118.000 người:
Anh và đồng minh: 68.000 người[1]
Phổ: 50.000 người[2]
Tổn thất
Tổng cộng: 48.000 người

Tổng cộng: 24.000 người

Anh và đồng minh: 17.000 người
  • 3.500 tử trận;
  • 10.200 bị thương;
  • 3.300 mất tích[5]
Phổ: 7.000 người
  • 1.200 tử trận;
  • 4.400 bị thương;
  • 1.400 mất tích.[5]
.
Trận Waterloo diễn ra vào ngày chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815 tại một địa điểm gần Waterloo, thuộc Bỉ ngày nay. Đây là một trong những trận đánh nổi tiểng nhất và cũng là dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh Napoléon. Quân đội Đế chế Pháp (La Grande Armée) dưới sự chỉ huy của Napoléon Bonaparte đã bị đánh bại bởi liên quân của Liên minh thứ bảy, bao gồm quân Anh và đồng minh do Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất của Wellington chỉ huy và quân Phổ do Thống chế Gebhard von Blücher chỉ huy. Đây là trận đánh kết thúc chiến dịch Waterloo và cũng là trận đánh cuối cùng của Napoléon. Thất bại ở trận đánh này đã đặt dấu chấm hết cho ngôi vị Hoàng đế Pháp của Napoléon và vương triều một trăm ngày của ông.
Sau khi Napoléon trở lại nắm quyền vào năm 1815, các nước chống lại ông đã cùng nhau thành lập Liên minh thứ bảy, và bắt đầu điều động quân đội. Hai lực lượng lớn dưới quyền chỉ huy của Wellington và Blücher tiến sát biên giới phía đông bắc nước Pháp. Napoléon quyết định tấn công để tiêu diệt họ trước khi họ kết hợp cùng các thành viên khác trong Liên minh để tiến hành một cuộc xâm lăng vào nước Pháp. Trận Waterloo chính là cuộc chiến quyết định trong chiến dịch Waterloo 3 ngày (từ 16-19 tháng 6 năm 1815) này. Trước đó, vài trận đánh đẫm máu đã kết thúc với thất bại của Napoléon trong việc ngăn cách các kẻ thù của ông - sự lặp lại của chiến bại của ông hồi chiến tranh Liên minh thứ sáu.[6]
Napoléon trì hoãn trận đánh đến trưa ngày 18 tháng 6 để chờ mặt đất khô ráo. Quân của Wellington, bố trí dọc tuyến đường Brussels trên dốc núi Mont-Saint-Jean, đã chống trả nhiều đợt tấn công dữ dội của quân Pháp cho đến chiều tối, khi mà quân Phổ kéo tới và xuyên thủng cánh phải của Napoléon. Lúc đó quân của Wellington cũng phản công và khiến quân Pháp phải rút lui trong rối loạn. Lực lượng liên quân truy đuổi sau đó tiến vào Pháp và phục hồi vương vị cho Louis XVIII. Napoléon phải thoái vị và bị lưu đày tới đảo Saint Helena, nơi ông qua đời vào năm 1821.
Sau toàn thắng, Wellington trở thành vị anh hùng chói lọi của đất nước Anh.[7] Nhân dân châu Âu lục địa cũng phải kính nể ông vì chiến công hiển hách hoàn toàn hạ đo ván Napoléon.[8] Chiến trường của trận Waterloo ngày nay nằm ở nước Bỉ, cách Brussels 8 dặm (12 km), và cách thị trấn của Waterloo khoảng một dặm (1.6 km). Một khu vực tưởng niệm nhân tạo được gọi là Đồi sư tử (Lion's Mound) đã được dựng lên ở đây, khiến địa hình của chiến trường bị thay đổi so với lúc xảy ra trận đánh.

Bối cảnh lịch sử


Tình hình chiến sự ở Tây Âu năm 1815: 250,000 quân Pháp phải đối mặt với một liên minh gồm khoảng 850,000 quân trên bốn mặt trận. Ngoài ra, Napoléon còn phải gửi 20.000 binh về phía tây nước Pháp để dẹp bớt những cuộc chống đối của phe bảo hoàng.
Sau thất bại thê thảm của Napoléon trong cuộc xâm lược nước Nga vào năm 1812, các liệt cường châu Âu liên kết lại để cùng tấn công nước Pháp. Quân Liên minh thứ sáu đánh tan tác quân Pháp trong trận thư hùng đẫm máu ở Leipzig vào tháng 10 năm 1813, mang lại chiến thắng toàn diện cho ngọn lửa đấu tranh Giải phóng Dân tộc của người Đức thoát khỏi ách đô hộ của Pháp. Thua to rồi, Napoléon trở về Pháp, liền phải đối phó với sự tiến công thẳng vào chính quốc Pháp của quân Liên minh thứ sáu vào năm 1814. Với chiến thắng trong trận Paris, quân sĩ Liên minh đã chiếm lĩnh được đế đô Paris chỉ trong năm ấy.[9] Napoléon buộc phải thoái vị và bị lưu đày tới đảo Elba. Thế nhưng cựu hoàng Pháp hãy còn đầy tham vọng này không chịu ngồi yên. Biết được dân chúng Pháp vẫn ủng hộ mình, vào tháng 4 năm 1815, Napoléon đã bí mật trốn khỏi nơi giam cầm quay trở về nước. Nhận được tin, vua Louis XVIII đã cử quân đội đến bắt giữ ông. Thế nhưng trong mắt người dân và binh lính Pháp lúc bấy giờ thì Napoléon vẫn là một người anh hùng đã mang về vinh quang cho nước Pháp. Hầu hết các tướng hoặc kính phục hoặc nể sợ tài năng quân sự của Napoléon, vì thế hết đoàn quân này đến đoàn quân khác được cử đi để bắt Napoléon cuối cùng lại quay về dưới quyền chỉ huy của cựu hoàng.[10] Chỉ trong vòng ba tuần, Napoléon đã khôi phục được Đế quyền của mình. Điều này thể hiện sự dễ dàng của giới quân sự Pháp trong việc lên nắm Triều chính.[6]

Hoàng đế Napoléon trở về nước từ đảo Elba trong sự hoan hô nhiệt liệt của binh sĩ và nhân dân Pháp
Vào ngày 13 tháng 3 năm 1815, sáu ngày trước khi Napoléon về đến Paris, các cường quốc tại Hội nghị Viên tuyên bố ông là kẻ ngoài vòng pháp luật.[11] Bốn ngày sau đó, Anh, Nga, Áo, Phổ cùng nhau điều động quân đội để tấn công Napoléon, với mỗi nước kể trên đều góp không dưới 15 vạn binh sĩ.[12][13] Đoàn quân của họ có tổng lực là khoảng 60 vạn binh sĩ.[14] Biết rằng khả năng dùng thương lượng để ngăn cản các nước thuộc Liên minh thứ bảy tiến công nước Pháp là không thể, Napoléon chỉ còn lại hy vọng cuối cùng là tấn công trước khi họ kết hợp với nhau. Nếu tiêu diệt được quân Liên minh ở phía nam Brussels trước khi họ được tăng viện thì Napoléon sẽ có thể buộc người Anh quay về biển và đánh bật người Phổ khỏi cuộc chiến. Một khi Anh và Phổ đã thất bại rồi thì Napoléon có thể tiến hành đàm phán với Áo và Nga để duy trì cục diện.[15] Tuy tổng lực của liên quân Anh - Phổ mạnh mẽ hơn quân Pháp đáng kể, liên quân Anh - Phổ lại chưa tổ chức Chiến dịch kỹ lưỡng.[6] Một điều đáng lưu ý nữa là ở Bỉ có rất nhiều người nói tiếng Pháp ủng hộ ông, một chiến thắng của Pháp có thể thúc đẩy một cuộc cách mạng thân Pháp ở đó. Quân Anh ở Bỉ cũng chỉ là lực lượng hạng hai; vì phần lớn những binh sĩ giỏi nhất của họ trong cuộc chiến ở bán đảo Tây-Bồ đã được đưa tới Hoa Kỳ cho cuộc chiến năm 1812.[16]
Napoléon đã gây dựng được đoàn quân gồm 36 vạn quân, nhưng ông chỉ tung được 125 nghìn binh lính lên chiến địa.[14] 9 ngày trước khi Napoléon bị đánh bại trong trận Waterloo, bốn liệt cường Anh, Áo, Phổ và Nga đã ký kết điều khoản cuối cùng tại Hội nghị Viên, theo đó nước Pháp phải quay trở lại biên giới hồi năm 1790.[17] Buổi chiến loạn năm 1795, chính quyền Cách mạng Pháp đã thành công trong việc chia cắt các kẻ thù của mình, và giờ đây Napoléon mong muốn nước Pháp sẽ lập lại được thắng lợi này.[6]

Dạo đầu

Bài chi tiết: Chiến dịch Waterloo

Bản đồ chiến dịch Waterloo
Sau khi Napoléon Bonaparte trở lại nắm quyền vào năm 1815, các nước chống lại ông đã cùng nhau thành lập khối Liên minh thứ bảy, và bắt đầu điều động quân đội. Hai lực lượng lớn dưới quyền của Wellington and von Blücher tiến sát biên giới phía đông bắc nước Pháp. Napoléon quyết định tấn công để tiêu diệt họ trước khi họ kết hợp cùng các thành viên khác trong khối Liên minh để tiến hành một cuộc xâm lăng vào nước Pháp. Trận Waterloo chính là cuộc chiến quyết định trong chiến dịch Waterloo diễn ra 3 ngày (từ 16-19 tháng 6 năm 1815) này. Trước đó, vài trận đánh đẫm máu đã kết thúc với thất bại của Napoléon trong việc ngăn cách các kẻ thù của ông - sự lặp lại của chiến bại của ông hồi chiến tranh Liên minh thứ sáu.[6]
Lúc đầu, Wellington dự định chống trả lại kế hoạch bao vây của Napoléon bằng cách di chuyển tới Mons theo tuyến đường tây nam Brussels.[18] Hành quân như vậy sẽ khiến ông bị cắt đứt liên lạc với căn cứ ở Ostend, nhưng cái lợi của nó là ông sẽ ở gần quân của Blücher hơn. Thế nhưng Napoléon đã sử dụng gián điệp khiến Wellington nảy sinh mối lo sợ về việc đánh mất con đường tiếp vận từ các cảng biển.[19] Sau đó ông chia quân thành ba đạo: cánh trái do thống chế Ney chỉ huy, cánh phải do thống chế Grouchy chỉ huy, và quân dự phòng do chính ông chỉ huy. Ngày 15 tháng 6, quân Pháp vượt biên giới gần Charleroi và tiêu diệt các tiền đồn của quân Liên minh, giúp Napoléon chiếm được vị trí giữa Wellington và Blücher để ngăn họ hội quân với nhau.
Chỉ đến cuối đêm 15 tháng 6 thì Wellington mới xác định rõ mũi tấn công chính của quân Pháp là ở Charleroi. Tới đầu ngày 16 tháng 6 thì ông nhận được công hàm của Quận công xứ Orange (danh hiệu của Vương công Hà Lan lúc đó) là Willem và rất choáng váng trước tốc độ tiến quân của Napoléon. Ông vội đưa quân tới Quatre Bras, nơi Quận công xứ Orange đang trấn thủ cùng với lữ đoàn của Quận công Bernhard xứ Saxe-Weimar chống lại cánh quân của tướng Ney.[20] Ney nhận lệnh phải chiếm giao lộ ở Quatre Bras để nếu cần thiết có thể kéo quân về phía đông hợp cùng Napoléon.
Ngày 16 tháng 6 quân Pháp bắt đầu tiến công Quatre Bras và Ligny gần Xombreffe. Tại Quatre Bras, Thống chế Michel Ney cho quân mở cuộc công kích mãnh liệt vào các vị trí quân Anh nhưng ông đã gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ. Suốt cả ngày hôm đó mặc dù bị tổn thất tới 4500 người nhưng quân Anh vẫn giữ vững trận địa và sau đấy để bảo toàn lực lượng Wellington rút dần lực lượng về Waterloo. Trong cùng lúc này thì Napoléon tiến đánh quân Phổ trước. Vào ngày 16, với quân dự bị và cánh phải, ông đánh bại quân Phổ của tướng Blücher tại trận Ligny. Ở Ligny tình hình lại khác. Đây là hướng tiến công do thống chế Grouchy đảm nhiệm và Napoléon trực tiếp theo dõi. 4 quân đoàn Phổ dưới sự chỉ huy của Blucher chiến đấu một cách yếu dần và cuối cùng bị quân Pháp đẩy ra khỏi các trận địa phòng ngự. Tại đây, quân Phổ vừa bị thương vong, vừa bị bắt làm tù binh tới 20.000 người. Trung quân của quân Phổ phải lùi bước trước những đợt tấn công mạnh mẽ của quân Pháp, nhưng hai cánh của họ vẫn giữ được vị trí. Trong lúc đó thì Ney giao chiến với Quận công Orange tại giao lộ Quatre Bras. Khi quân của Quận công Orange đang dần bị đẩy lui thì Wellington kịp tới chi viện và đánh bật Ney để chiếm lấy giao lộ vào đầu buổi tối cùng ngày. Thế nhưng đã quá trễ để chi viện cho quân Phổ, lúc này đã bị đánh bại. Thất bại của quân Phổ khiến vị trí của Wellington ở Quatre Bras là không trụ lại được, vì vậy mà ông đã cho quân rút về phía bắc trong ngày hôm sau, tới một vị trí phòng thủ mà ông đã trinh sát được vào năm ngoái: dãy đồi Mont-Saint-Jean, phía nam làng Waterloo và rừng Sonian.[21]
Việc rút lui của quân Phổ khỏi Ligny đã không bị quân Pháp ngăn trở, và có lẽ cũng không được họ chú ý kỹ.[22] Phần lớn hậu quân Phổ vẫn giữ vị trí cho tới nửa đêm, và một số đơn vị không di chuyển cho tới sáng hôm sau, hoàn toàn bị quân Pháp bỏ qua.[22] Sự thiếu cảnh giác của quân Pháp đã khiến quân Phổ có được một quyết định chiến thuật quan trọng là không rút về phía đông theo dọc đường dây liên lạc của họ. Thay vì vậy, họ di chuyển về phía bắc, song song với hướng di chuyển của Wellington, vẫn trong khoảng cách nhận tiếp vận và giữ liên lạc với ông ta. Quân Phổ tập trung quanh quân đoàn IV của Von Bülow, vốn không phải tham chiến ở Ligny và đóng tại một vị trí vững chãi ở phía nam Wavre.[22] Paul K. Davis cho rằng việc tướng Ney không chiếm sớm được giao lộ Quatre Bras chính là nguyên nhân khiến quân Pháp không đánh lui được quân Phổ một cách hiệu quả. Nếu làm được việc đó, Ney có khả năng nhanh chóng tới trợ chiến cùng Napoléon để tấn công vào sườn của quân Phổ, qua đó chí ít cũng làm họ phải rút chạy về phía đông.[23]
Với cả hai trận đánh ác liệt tại Ligny và Quatre Bras, Napoléon đã thất bại trong việc chia rẽ các kẻ thù của ông.[6] Ông cùng quân dự bị khởi hành muộn vào ngày 17 tháng 6 và hợp cùng tướng Ney ở Quatre Bras, dự định tiến đánh Wellington, nhưng lúc này ông đã rút quân. Quân Pháp đuổi theo Wellington, nhưng cả hai bên chỉ có một cuộc đụng độ kỵ binh chớp nhoáng tại Genappe vừa khi trời đêm đổ mưa. Trước khi rời Ligny thì Napoléon đã lệnh cho Grouchy, tướng chỉ huy cánh phải, mang 33.000 quân đuổi theo quân Phổ đang rút lui. Việc khởi hành muộn, sự thiếu chắc chắn về hướng di chuyển của quân Phổ, và sự mơ hồ trong các mệnh lệnh đã khiến Grouchy không kịp ngăn cản quân Phổ tới Wavre, nơi mà từ đó họ có thể tiến quân để hỗ trợ Wellington.[24] Vào cuối ngày 17, quân của Wellington đã tới vị trí định trước ở Waterloo, với đại quân của Napoléon bám theo sau. Quân Phổ của Blücher thì đang ở xung quanh Wavre, khoảng tám dặm về phía đông thành phố.

Lực lượng các bên


Thống chế Phổ Blücher

Công tước Wellington, chỉ huy quân Anh và đồng minh
Có ba lực lượng chính tham gia vào trận đánh: "Đoàn binh phương Bắc" của Pháp (Armée du Nord) dưới quyền Napoléon, một lực lượng quân đội đa quốc gia dưới quyền Wellington, và quân Phổ dưới quyền Blücher. Quân Pháp có khoảng 69.000 người, gồm 48.000 bộ binh, 14.000 kỵ binh, và 7.000 pháo binh, cùng 250 khẩu pháo.[25] Napoléon đã từng dùng lệnh cưỡng bách tòng quân trong quá khứ, nhưng ông không sử dụng phương pháp này vào năm 1815. Tất cả binh sĩ của Napoléon lúc đó đều là các cựu binh lão luyện từng tham chiến cùng ông ít nhất là một chiến dịch trước đây, và nay họ đều tự nguyện trở về dưới trướng ông. Lực lượng quân kỵ binh của Napoléon rất đông đảo và mạnh mẽ, gồm 14 trung đoàn Thiết Kỵ binh áo giáp và bảy trung đoàn Kỵ binh đánh giáo. Do đó, đoàn binh mà Napoléon dẫn đầu trong trận chiến Waterloo trở thành một trong những đội quân tinh nhuệ nhất trong suốt cuộc đời võ nghiệp của ông.[26] Quân Liên minh lúc đó không có binh sĩ giáp nặng và Wellington cũng chỉ có một ít kỵ binh đánh giáo.
Wellington tự nhận về lực lượng của mình là "tệ hại, yếu đuối, trang bị kém, và ban chỉ huy rất thiếu kinh nghiệm".[27] Ông có 67.000 quân, gồm 50.000 bộ binh, 11.000 kỵ binh, và 6.000 pháo binh, với 150 khẩu pháo. 25.000 binh sĩ trong lực lượng của ông là người Anh, và 6.000 thuộc Quân đoàn Đức của Nhà vua (King's German Legion, một đội quân Anh mà thành phần gồm những người Đức lưu vong). Tất cả binh sĩ Anh đều là lính thường trực, và chỉ có 7.000 trong đó từng tham chiến ở bán đảo Iberia.[28] Ngoài ra thì 17.000 binh sĩ là từ Hà Lan và Bỉ, 11.000 từ Hanover, 6.000 từ Brunswick, và 3.000 từ Nassau.[29] Hồi chiến tranh ở bán đảo Tây-Bồ, Napoléon rất khinh suất Wellington, và bản thân ông phải nổi giận khi bị Hoàng đế nước Pháp gọi là "tên tướng sepoy", ám chỉ hồi trước Wellington làm chủ soái quân đội Anh tại Ấn Độ. Napoléon I thậm chí còn tin chắc là quân Pháp sẽ chiến thắng ở bán đảo Tây-Bồ vào năm 1810. Tuy nhiên, vào năm 1815, Napoléon đã có thay đổi: những chiến thắng liên tiếp của quân đội Wellington trên bán đảo Tây-Bồ đã khiến ông lo sợ Quận công Wellington.[6]
Nhiều binh sĩ trong quân đội của Wellington còn khá thiếu kinh nghiệm.[30] Quân đội Hà Lan mới được tái thành lập vào năm 1815, sau khi Napoléon thất bại. Ngoại trừ quân Anh và lực lượng đến từ Hanover và Brunswick từng chiến đấu ở Tây Ban Nha cùng quân Anh, phần còn lại của quân đội Liên minh này là những người từng đứng trong hàng ngũ quân Pháp và các đồng minh của Napoléon. Wellington cũng không có đủ kỵ binh, chỉ có bảy trung đoàn từ Anh và ba trung đoàn kỵ binh Hà Lan. Công tước xứ York đã áp đặt nhiều vị sĩ quan của mình cho Wellington, trong đó có vị phó chỉ huy chỉ đứng hàng thứ hai sau ông là Bá tước xứ Uxbridge. Vị này chỉ huy kỵ binh và được Wellington cho phép triển khai kế hoạch của đội quân này theo ý mình. William cũng giao cho Vương công Frederik của Hà Lan (em của Quận công xứ Orange) đóng 17.000 quân tại Halle, cách chiến trường tám dặm về phía tây. Họ không tham gia trận đánh mà đóng ở đó để đề phòng khi trận đánh thất bại và Wellington phải rút lui.
Quân Phổ thì đang trong công cuộc tái tổ chức. Số kỵ binh mà Blücher có trong tay còn khá non kinh nghiệm và thiếu trang bị.[31] Pháo binh cũng đang trong quá trình cải tổ và không đạt hiệu quả tối đa; pháo và các thiết bị vẫn còn phải vận chuyển từ xa tới trong và sau trận đánh.[1] Mặc dù có những thiếu hụt như vậy nhưng ban chỉ huy của quân Phổ rất chuyên nghiệp và tài giỏi. Các sĩ quan này được đào tạo từ bốn trường được phát triển chính cho mục đích này (chiến tranh với Napoléon) và vì vậy đều trải qua quá trình huấn luyện tương tự nhau. Hệ thống vững chắc này là tương phản với những mệnh lệnh mơ hồ và mâu thuẫn trong quân Pháp. Hệ thống này giúp đảm bảo cho ba phần tư binh sĩ của họ tập trung chăm chú suốt 24 giờ trước trận Ligny, và sau khi bại trận thì quân Phổ vẫn bảo đảm vấn đề tiếp vận, tập hợp lại và tiến về Waterloo trong vòng 48 giờ.[32] Hai quân đoàn rưỡi của quân Phổ (48.000 quân) đã tham chiến ở Waterloo. Hai lữ đoàn của Friedrich von Bülow thuộc quân đoàn IV tấn công tướng Lobau (tức Georges Mouton) vào lúc 16 giờ 30, còn quân đoàn I của Bá tước Zieten (Hans Ernst Karl) và quân đoàn II của Georg von Pirch thì tham chiến vào lúc 18 giờ.

Chiến trường


Wellington và tướng Blucher của Phổ gặp nhau trước trận đánh.
Công tước Wellington đã chọn phía nam ngôi làng Waterloo để làm nơi quyết chiến. Quân Anh đóng ở phía bắc chiến trường, đối diện với họ là quân Pháp do Napoléon chỉ huy. Vốn là một nhà quân sự tài năng, Wellington hiểu rằng, với đội quân thiếu kinh nghiệm chiến đấu mà ông đang nắm trong tay, đối đầu trực diện với Napoléon là tự sát. Vì thế, Wellington đã chọn biện pháp phòng thủ và chiến trường Waterloo là một địa điểm rất phù hợp với ý đồ này.
Waterloo là môt vị trí phòng thủ vững chãi.[33] Nó bao gồm một dãy đồi chạy theo hướng đông-tây, vuông góc và bị cắt làm hai bởi tuyến đường chính dẫn tới Brussels. Dọc theo phần đỉnh của dãy đồi là con đường mòn Ohain. Gần giao lộ với con đường Brussels là một cây du, cũng là vị trí trung tâm của Wellington và là nơi ông đóng tại đó để chỉ huy trong gần cả ngày. Wellington dàn quân bộ binh ngay phía sau đỉnh dãy đồi, theo đường Ohain. Dùng sườn dốc ngược, như cách mà ông đã từng làm trước đây, Wellington che giấu được quân lực của mình, ngoại trừ các lính bắn súng quấy nhiễu và các pháo binh (các lính bắn súng quấy nhiễu thì phải hoạt động ở chiến trường mở, còn pháo binh thì phải nã từ trên cao xuống mới có hiệu quả cao).[34] Chiều dài của chiến trường cũng là khá ngắn, chỉ khoảng 2,5 dặm (4,0 km). Điều này giúp Wellington có thể bố trí quân lực một cách có chiều sâu, và ông đã thực hiện như vậy với cánh phải và trung tâm, hướng về làng Braine-l'Alleud. Ở cánh trái thì ông bố trí mỏng hơn, với hy vọng quân Phổ sẽ đến trợ chiến kịp thời.[35]

Vùng đất diễn ra trận đánh ngày nay đã rất khác xưa, trong hình là Đồi sư tử, một công trình tưởng niệm.
Phía trước đỉnh đồi, có ba vị trí có thể gia cố để phòng thủ. Một ở xa phía cánh phải là lâu đài, khu vườn, và thái ấp Hougoumont. Đó là một khu nhà kiểu đồng quê to lớn và được xây cất cẩn thận, được che giấu dưới cây cối. Khu nhà hướng về phía bắc dọc một đường mòn trũng bị che phủ mà có thể được tiếp tế. Ở phía cực trái là làng nhỏ Papelotte. Cả Hougoumont và Papelotte đều được gia cố và đưa người tới để trấn thủ, điều này giúp các sườn của quân Wellington trở nên vững vàng hơn. Ở phía tây đường chính, và phía trước phần còn lại của lực lượng của Wellington, là nông trang và thái ấp La Haye Sainte, nơi được gia cố với 400 Khinh Bộ binh của Quân đoàn Lê dương Đức của Nhà vua.[36] Bên kia đường là một mỏ cát bỏ hoang, nơi lữ đoàn thiện xạ 95 được bố trí để bắn từ xa.[37] Với các vị trí như vậy thì đội quân tấn công vào sẽ gặp nhiều khó khăn. Nếu muốn chọc sườn vào bên phải sẽ phải chạm trán với cứ điểm Hougoumont, nếu muốn đánh vào bên phải của khu trung tâm sẽ phải di chuyển giữa hai làn đạn từ Hougoumont và La Haye Sainte. Tấn công vào bên trái của khu trung tâm sẽ phải chịu sự tấn công từ La Haye Sainte và mỏ cát liên hợp với nó, còn nếu muốn thọc sườn từ cánh trái thì sẽ phải chiến đấu trên những đường phố và hàng rào của Papelotte, và một số mảnh đất rất ướt.
Quân Pháp bố trí trên những sườn dốc của một dãy đồi khác về phía nam. Napoléon không thể nhìn thấy các bố trí của Wellington, vậy nên ông dàn quân đối xứng theo tuyến đường Brussels. Ở cánh phải là quân đoàn I của tướng d'Erlon với 16.000 bộ binh và 1.500 kỵ binh, cộng thêm một đội kỵ binh dự bị 4.700 người. Ở cánh trái là quân đoàn II của tướng Honoré Charles Michel Joseph Reille với 13.000 bộ binh và 1.300 kỵ binh, cộng thêm một đội kỵ binh dự bị 4.600 người. Ở trung tâm, phía nam quán trọ La Belle Alliance là đội quân dự bị, bao gồm quân đoàn VI của tướng Lobau với 6.000 người, 13.000 bộ binh thuộc Đội Cận vệ, và 2.000 kỵ binh dự bị.[38] Ở phía sau bên phải của quân Pháp là làng lớn Plancenoit, và ở tận cùng bên phải là rừng Bois de Paris. Lúc đầu Napoléon chỉ huy cuộc chiến từ nông trại Rossomme, nơi ông có thể bao quát trận chiến, nhưng tới đầu buổi chiều thì chuyển tới một vị trí gần La Belle Alliance. Khi đó ông đã bị khuất tầm nhìn chiến trường và quyền chỉ huy trực tiếp được giao cho Ney.[39]

Trận đánh


Kỵ binh Pháp giao chiến với bộ binh Anh ở Waterloo
Wellington nhận được tin phúc đáp từ Blücher, hứa sẽ mang ba quân đoàn tới giúp ông, đi tiên phong là quân đoàn IV dưới quyền Bülow.[40] Vào lúc 11 giờ, Napoléon vạch ra một kế hoạch tổng thể cho trận đánh: sư đoàn của Jerome sẽ tấn công Hougoumont để thu hút quân dự bị của Wellington,[41] các đại pháo sẽ nã vào trung tâm của quân Wellington từ 13 giờ, còn quân đoàn của d'Erlon sẽ phá vỡ cánh trái của Wellington để bao vây liên quân từ đông sang tây. Mục tiêu chủ đạo của kế hoạch này là đẩy quân Wellington về hướng biển, cách xa quân Phổ.[42]
Napoléon trì hoãn trận đánh đến trưa ngày 18 tháng 6 để chờ mặt đất khô ráo. Chính việc đó tạo điều kiện cho quân Phổ của Blücher có thêm thời gian để chi viện cho quân Anh.[14] Quân của Wellington, bố trí dọc tuyến đường Brussels trên dốc núi Mont-Saint-Jean, đã chống trả nhiều đợt tấn công dữ dội của quân Pháp. Nhờ có sự triển khai đội hình đúng đắn của quân Anh, quân Pháp không những bị đánh lui mà còn bị tổn hại nặng nề.[43] Trong những đợt công kích của mình, quân lính Pháp đã chiến đấu hết sức dũng mãnh, nhưng chỉ tổ đại bại trước sức kháng trả ngoan cường, bền bỉ của lực lượng Bộ binh Anh oai hùng.[26] Không những lực lượng Bộ binh mà Kỵ binh cũng cống hiến to lớn đến chiến thắng rực rỡ của Quân đội Anh trong trân Waterloo.[44] Quân Kỵ binh của Quận công Wellington dũng mãnh trong khi Napoléon I thiếu Kỵ binh tinh nhuệ kể từ sau thất bại trong Chiến dịch nước Nga (1812).[45] La Sainte Haye và Hougoumont trở thành hai chiến địa ác liệt nhất tại Waterloo, khi hai bên đều tàn sát nhau dữ dội. Sau khi binh lính Pháp dũng mãnh luôn thất bại trong việc công kích lực lượng Quân đội Anh oai hùng,[46] Thắng lợi huy hoàng về mặt phòng ngự của Wellington thể hiện sức chiến đấu mãnh liệt cuả cả những người lính kém cỏi trong quân đội của ông.[6] Cho đến chiều tối, quân Phổ kéo tới và xuyên thủng cánh phải của Napoléon. Một cuộc tiến công của đội Cận Vệ Đế chế cũng bị quân Anh đánh bại hoàn toàn.[14] Thế rồi, quân của Wellington cũng phản công và khiến quân Pháp phải rút lui trong rối loạn. Quân Pháp bị tổn thất rất nặng nề trong cuộc tháo chạy, còn Napoléon I chạy về Paris.[46] Thắng lợi tại Waterloo khắc họa hiệu quả của sự bố trí tuyến quân của Wellington.[44]
Hougoumont và La Sainte Haye sẽ là nơi mà hai bên tàn sát nhau đẫm máu hơn cả trong suốt trận thư hùng ác liệt này.[46] Nhìn chung, trong suốt trận chiến, quân Anh đã đạt được chiến thắng to lớn về mặt phòng vệ, trước khi quân Phổ kéo tới gây bất lợi nghiêm trọng cho quân Pháp. Napoléon I, vốn dĩ đã không thể đánh bại quân Anh, đã thất bại hoàn toàn trong đợt tiến công cuối cùng của đội Cận vệ của ông nhằm vào các binh sĩ Anh hùng dũng.[6] Quân Liên minh truy đuổi sau đó tiến vào Pháp và phục hồi vương vị cho Louis XVIII. Vào ngày 3 tháng 7 năm 1815, phát huy đại thắng ở Waterloo, quân Đồng Minh đã chiếm cứ được đế đô Paris, đánh dấu sự chấm dứt những cuộc chiến tranh của Napoléon.[47] Napoléon không thể giữ được ngôi vị,[46] ông phải thoái vị và bị lưu đày tới đảo Saint Helena, nơi ông qua đời vào năm 1821. Với thất bại của ông, trận chiến Waterloo đã định đoạt số phận của nước Pháp khi ấy.[48] Vương triều Một Trăm ngày của Napoléon I, mở đầu với thắng lợi, đã kết thúc bằng chiến bại tại Waterloo đầy thảm họa của ông,[49] đi đôi với sự tan rã bất ngờ của đoàn binh của ông.[50]
Sơ đồ trận đánh Waterloo: Quân của Napoléon màu xanh, quân của Wellington màu đỏ, quân của Blücher màu xám.

Hougoumont

Sử gia Andrew Robert ghi nhận rằng: "Một điều thú vị về trận chiến Waterloo là không ai biết chắc được về thời điểm bắt đầu của nó".[51] Wellington ghi lại trong các báo cáo của mình về trận đánh rằng "vào lúc 10 giờ sáng (Napoléon) đã mở một đợt tấn công ác liệt vào cứ điểm của quân ta tại Hougoumont".[52] Một số nguồn lại ghi nhận rằng cuộc giao chiến bắt đầu lúc 11 giờ 30 ngày hôm ấy.[Ghi chú 1] Căn nhà và khu vực xung quanh nó được phòng thủ bởi bốn trung đội Cận vệ, còn khu rừng và công viên được gác bởi quân Jäger xứ Hanover và lực lượng 1/2 xứ Nassau.[Ghi chú 2][53] Đợt tấn công đầu tiên từ lữ đoàn của Bauduin đã dọn quang khu rừng và công viên, nhưng bị chặn lại bởi pháo kích của quân Anh, còn bản thân Bauduin đã tử trận. Khi pháo binh của quân Anh bị lôi kéo vào một cuộc đấu pháo với pháo binh Pháp, một đợt tấn công thứ hai từ lữ đoàn của Soye (và những binh sĩ còn sót lại từ lữ đoàn của Bauduin) đã tới được cổng phía bắc của khu nhà. Một vài lính Pháp đã lọt được vào trong sân, trước khi cổng bị đánh chiếm lại. Lữ đoàn Cận vệ Coldstream 2 và quân Cận vệ 2/3 kịp tới và đẩy lui cuộc tấn công.

Cổng phía bắc Hougoumont, nơi xảy ra nhiều trận đụng độ dữ dội
Cuộc chiến tiếp tục diễn ra xung quanh Hougoumont suốt buổi chiều. Quân Pháp đổ xô tới khu vực xung quanh nó, và tiến hành những cuộc tấn công phối hợp để chống lại binh sĩ liên quân ở Hougoumont. Quân của Wellington đã phòng thủ khu nhà và con đường mòn từ đó dẫn về phía bắc. Tới buổi chiều thì Napoléon đích thân hạ lệnh phải pháo kích để đốt cháy khu nhà, khiến tất cả khu đó bị tiêu hủy hết, trừ nhà thờ.[54] Lữ đoàn của Du Plat tới phòng thủ con đường mòn, và phải làm chuyện đó mà không có sĩ quan cấp cao nào. Cuối cùng thì họ cũng được trợ chiến bởi trung đoàn bộ binh 71 của Anh. Sau đó có thêm lữ đoàn xứ Hanover của Hugh Halkett tới, và liên quân giữ được Hougoumont cho tới hết trận đánh. Wellington và tướng Macready đã dành nhiều lời bình luận về trận chiến ác liệt ở Hougoumont.[Ghi chú 3][Ghi chú 4]
Cuộc chiến ở Hougoumont thường được nhìn nhận là một cuộc tấn công để thu hút lực lượng dự bị của Wellington, nhưng sau đó tiến triển thành một cuộc giao tranh kéo dài cả ngày và thu hút cả lực lượng dự bị của Pháp.[55] Thực ra, chúng ta có thể tin được rằng cả Napoléon và Wellington đều cho rằng việc chiếm giữ Hougoumont là điều then chốt để giành lấy chiến thắng trong cả trận đánh.[54] Hougoumont là một nơi trên chiến trường mà Napoléon có thể quan sát rõ, và ông đã liên tục dồn quân tới đó cùng khu vực phụ cận trong suốt cả buổi chiều (tổng cộng là 33 tiểu đoàn và 14.000 binh sĩ). Tương tự như vậy, mặc dù chưa từng dồn một số lượng quân lớn vào bên trong khu nhà nhưng Wellington cũng đã đưa 21 tiểu đoàn (12.000 quân) tới trong cả buổi chiều để bảo vệ con đường mòn, giúp chuyển vận quân sĩ và đạn dược tới khu nhà. Ông cũng đã đưa một số pháo binh từ trung tâm đến yểm trợ Hougoumont,[56] và sau đó thừa nhận rằng chiến thắng của trận chiến phụ thuộc vào việc giữ được cổng Hougoumont.[57]

Đợt tấn công bộ binh đầu tiên của Pháp

80 đại pháo thuộc Đại khẩu đội (grande batterie) của Napoléon được đưa vào trung tâm. Chúng bắt đầu khai hỏa vào lúc 11 giờ 50, theo Rowland Hill (chỉ huy quân đoàn II của liên quân),[Ghi chú 5] trong lúc các nguồn khác cho rằng thời điểm chính xác là từ sau giữa trưa đến 13 giờ 30.[58] Các đại pháo này đều khá xa nên khó bắn chính xác, và từ vị trí của họ thì chỉ thấy được duy nhất sư đoàn Hà Lan (hầu hết quân đội liên quân đã được Wellington bố trí ở bên kia đồi, khuất tầm quân Pháp).[59] Thêm vào nữa là mặt đất mềm đã khiến đạn không nảy được xa, và cách bố trí của pháo binh Pháp là chia ra bao vây lực lượng của liên quân, nên mật độ các phát bắn không dày đặc. Ý định của Napoléon không phải là để gây tổn thất nặng nề cho đối thủ (vì muốn như vậy thì phải cất công tìm một vị trí bắn thuận lợi hơn), mà là để gây bất ngờ và làm ảnh hưởng đến sĩ khí của họ.[59]

Bộ binh Pháp trong trận Waterloo. Tranh vẽ của Ernest Crofts.
Vào lúc 13 giờ, Napoléon thấy mũi tấn công đầu tiên của quân Phổ ở làng Lasne-Chapelle-Saint-Lambert, cách cánh phải của ông bốn hoặc năm dặm (khoảng ba giờ tiến quân).[60] Napoléon liền hạ lệnh cho tướng Soult gửi thư cho Grouchy mang quân tới chiến trường tiến đánh lực lượng này của quân Phổ.[61] Thế nhưng vào lúc đó thì Grouchy đang thi hành lệnh cũ của Napoléon và bám sát quân Phổ tới Wavre, và do đó ở quá xa chiến trường. Grouchy lúc này được bộ tướng là Gérard khuyên rằng nên "đi về hướng tiếng súng", nhưng ông vẫn làm theo lệnh cũ và đụng độ với quân đoàn III hậu quân của Phổ ở trận Wavre. Một điều nữa là thư của Soult phải tới sau 18 giờ mới tới được chỗ của Soult. Về mặt chiến lược, sự cứng nhắc của Grouchy đã khiến ông không kịp tới Waterloo để chặn đầu quân Phổ, mà chỉ bám theo sau đuôi họ, qua đó không thể thay đổi kết cục trận chiến.[62]
Tin rằng có thể đánh thắng quân Anh trước khi quân Phổ tới, Napoléon dùng bộ binh tấn công. Khoảng sau 13 giờ một chút, quân đoàn I của Pháp bắt đầu tiến công. Tương tự Ney, d'Erlon đã từng đụng độ Wellington ở Tây Ban Nha, và biết về chiến thuật ưa thích của vị tướng Anh này là dùng một lượng lớn lính bắn súng tầm ngắn để đẩy lui đội hình dọc của bộ binh. Thay vì dùng đội hình dọc chín tầng sát nhau, mỗi sư đoàn nhận lệnh phải tiến lên theo từng tiểu đoàn một, với khoảng cách giữa các tiểu đoàn là sát nhau. Điều này giúp họ tập trung được hỏa lực, nhưng không có chỗ để thay đổi đội hình.[63]
Lúc đầu chiến thuật này đã tỏ ra hiệu quả. Sư đoàn ở ngoài cùng bên trái, dưới quyền Donzelot, đã tiến tới La Haye Sainte. Khi một tiểu đoàn bắt đầu đụng độ kẻ địch, các tiểu đoàn theo sau tản ra về hai bên và thành công trong việc cô lập nông trại, với sự yểm trợ của lính kỵ binh giáp nặng. Quận công xứ Orange thấy rằng La Haye Sainte đã bị cắt rời ra, và cố gắng chi viện cho nó bằng cách điều tiểu đoàn xứ Hanover tới. Kỵ binh giáp nặng của Pháp nấp trong bãi rào súc vật đã phát hiện và nhanh chóng tiêu diệt hết nhóm quân này, rồi phi về phía sau La Haye Sainte tới gần sát tận đỉnh của dãy đồi, nơi họ tiếp tục bảo vệ phía trái của d'Erlon.
Lúc 13 giờ 30, d'Erlon bắt đầu tung thêm ba sư đoàn nữa vào trận, khoảng 14.000 quân trên một vùng 1.000 m để chống lại cánh trái của Wellington. Họ đã đụng độ với 6.000 quân Đồng Minh. Tuyến đầu là lữ đoàn Hà Lan 1 của Bijlandt. Tuyến hai là quân Anh và quân xứ Hanover dưới quyền Thomas Picton, người đã cho sĩ tốt ẩn nấp đằng sau đỉnh dãy đồi. Lữ đoàn của Bijlandt nhận lệnh phải để một số lính bắn súng quấy nhiễu đóng trên con đường mòn, trong khi phần còn lại của lữ đoàn sẽ nằm ngay sau con đường (họ nhận lệnh này từ lúc 9 giờ sáng). Khi Quân đội Pháp tiến quân, binh lính mang súng của Bijlandt rút lui về phía sau và cùng Tiểu đoàn của mình bắn trả, nhưng rồi họ bị quân của d’Erlon đánh lui về phía sau. Quân Pháp sau đó tiến lên dốc, và khi đó, những chiến binh của Picton đứng dậy và bắn đầu nã đạn vào họ. Quân Pháp bắn trả và thành công trong việc gây áp lực lên quân Anh. Mặc dù ở chính giữa bị chùn bước, cánh trái của d'Erlon bắt đầu đánh tan Quân đội Anh. Picton hy sinh ngay sau khi ra lệnh phản công, và quân Anh cùng quân xứ Hanover bắt đầu phải nhường đường trước số lượng đông đảo của quân Pháp.

Đợt xung kích của lực lượng Kỵ binh Anh

Ở trong tình thế quyết định này, Uxbridge lệnh cho hai lữ đoàn kỵ binh nặng (trước đó đã tâp hợp đằng sau đỉnh đồi mà không bị quân Pháp thấy) xung kích để hỗ trợ cho lực lượng bộ binh đang chịu áp lực to lớn. Lữ đoàn 1 (còn gọi là Lữ đoàn Gia đình, tức Household Brigade) được chỉ huy bởi đại tướng Edward Somerset và bao gồm trung đoàn Cận vệ Hoàng gia 1 và 2 (Life Guards), Đội Kỵ binh Cận vệ, và Đội Long Kỵ binh Cận vệ của Đức Vua. Lữ đoàn 2 (còn gọi là Lữ đoàn Liên hiệp, tức Union Brigade) được chỉ huy bởi đại tướng William Ponsonby. Lữ đoàn này có tên gọi như vậy là vì bao gồm ba trung đoàn kỵ binh dragoon nặng tới từ ba nước khác nhau: Anh Quốc, Scotland, và Ireland. Các sử gia cho rằng quân Anh có những con ngựa tốt nhất thời bấy giờ (do các nước trên lục địa đã chinh chiến suốt 20 năm qua nên chịu nhiều tổn thất về ngựa) và được huấn luyện tốt về kỹ thuật đánh kiếm trên lưng ngựa. Mặc dù vậy nhưng kỵ binh Anh lại không có khả năng chiến thuật tốt và thua hẳn quân Pháp về khả năng dàn quân trong đội hình lớn.[64] Wellington từng nhận xét rằng: "Các sĩ quan kỵ binh của chúng tôi có biệt tài là gặp thứ gì cũng phi nước đại lên. Họ không bao giờ cân nhắc tình hình, không bao giờ nghĩ đến việc điều động binh sĩ khi gặp kẻ thù, và không bao giờ để lại quân dự bị."[64]

Lực lượng Kỵ binh Scotland xung kích trong trận Waterloo
Hai lữ đoàn này có khoảng 2.000 quân, và được dẫn đầu bởi chính Uxbridge. Lực lượng dự bị của họ khá ít ỏi: đội Kỵ binh Cận vệ đóng vai trò dự bị cho Lữ đoàn Gia đình, nhưng Lữ đoàn Liên hiệp thì chẳng có đội dự bị nào.[65] Uxbridge cũng ra lệnh cho các chỉ huy lữ đoàn phải tự điều động quân mình, vì lệnh của ông có thể sẽ không tới được.[66] Ngoài ra thì có vẻ như Uxbridge muốn chờ thêm cả lực lượng kỵ binh của Tướng Ngài John Vandeleur và Tướng Ngài Hussey Vivian, và cả đội kỵ binh của Hà Lan để hỗ trợ cho quân mình. Về sau này thì ông đã bày tỏ sự hối tiếc đối với quyết định của mình khi đó là đích thân dẫn đầu đợt xung kích, và đáng ra thì ông nên tổ chức một đội dự bị để có thể yểm trợ họ.[67]
Lữ đoàn Gia đình vượt qua đỉnh đồi nơi quân Liên minh đang trấn thủ để tấn công xuống đồi. Lực lượng kỵ binh giáp nặng trấn thủ cánh trái của d'Erlon lúc này vẫn còn đang phân tán, bị đẩy về phía con đường mòn và phải tháo chạy.[68] Một số kỵ binh giáp nặng Pháp bị bao vây ở bờ dốc của đường mòn, với đại bộ phận bộ binh của họ ở phía trước, lữ đoàn thiện xạ 95 nhắm bắn họ từ phía bắc, và kỵ binh của Somerset vẫn gây áp lực lên họ từ phía sau.[69] Tiếp tục tấn công, quân ở cánh trái của Lữ đoàn Gia đình đã tiêu diệt được lữ đoàn của Aulard. Thế nhưng thay vì quay về thì họ lại tiếp tục vượt qua La Haye Sainte và phải đối mặt với lữ đoàn của Schmitz, khi mà ngựa của họ đã mệt mỏi.
Ở bên trái, Lữ đoàn Liên hiệp vượt qua quân Bộ binh và bắt đầu xung kích. Đội kỵ binh Anh tiêu diệt lữ đoàn của Bourgeois, trong khi quân kỵ binh Ireland đánh bại một lữ đoàn khác thuộc sư đoàn của Quoit, còn quân kỵ binh Scotland tiêu diệt phần lớn lữ đoàn kỵ binh của Nogue.[70] Ở tận cùng bên trái của Quận công Wellington, sư đoàn của Tướng Pierre François Joseph Durutte có thời gian để lập thành đội hình vuông và trấn thủ trước quân Scotland. Cũng như với Lữ đoàn Gia đình, các sĩ quan của Lữ đoàn Liên hiệp không thể thu quân lại được, và kỵ binh Scotland tiến tới tận khu vực đặt pháo của quân Pháp. Mặc dù không có thời gian lẫn phương tiện để vô hiệu hóa các khẩu pháo hay mang chúng đi, họ đã khiến nhiều pháo binh Pháp phải tháo chạy khỏi chiến trường.[71]
Hoàng đế Napoléon nhanh chóng đáp trả bằng cách ra lệnh phản công với các lữ đoàn kỵ binh giáp nặng của Farine và Travers, cùng hai lữ đoàn kỵ binh đánh giáo của Jaquinot thuộc quân đoàn I. Lúc này thì kỵ binh của Anh đã sai lầm khi tiến quá xa, và kết quả là họ phải gánh chịu thương vong nặng nề.[72] Lữ đoàn Liên hiệp tổn thất nặng nề cả về binh sĩ và sĩ quan (gồm cả chỉ huy của họ là William Ponsonby và đại tá Hamilton của đội kỵ binh Scotland). Trung đoàn Cận vệ Hoàng gia 2 và Đội Long Kỵ binh Cận vệ của Đức Vua thuộc Lữ đoàn Gia đình cũng đều tổn thất nặng nề (chỉ huy của Đội Long Kỵ binh là Fuller cũng tử trận). Mặc dù vậy thì trung đoàn Cận vệ Hoàng gia 1 và Đội Kỵ binh Cận vệ vẫn còn giữ được đội hình và ít chịu thương vong. Một đợt phản công của quân Long Kỵ binh Anh và Hà Lan cùng quân Khinh Kỵ binh ở cánh trái, và làn đạn của quân Bộ binh Hà Lan ở trung tâm, đã đẩy lùi quân kỵ binh Pháp.[73]
Có nhiều tranh cãi về sự hiệu quả mà kỵ binh phe liên quân đã tạo ra trên chiến trường, nhưng họ cũng đã đóng một vai trò nhất định.[74][75] Napoléon bị bắt sống 3.000 quân, nhưng điều cốt yếu là ông đã mất nhiều thời gian, khi mà quân Phổ bắt đầu xuất hiện ở cánh phải của ông. Napoléon đưa lực lượng dự bị, gồm quân đoàn IV của Lobau cùng hai sư đoàn kỵ binh (tổng cộng khoảng 15 nghìn quân sĩ), đến cầm chân quân Phổ. Như vậy, Napoléon đã dùng toàn bộ quân dự bị của mình, ngoại trừ Đội Cận vệ, và bây giờ ông không chỉ phải đánh thắng Quận công Wellington một cách nhanh chóng, mà còn với số lượng ít hơn.[76]

Kỵ binh Pháp tấn công


Cuộc tấn công của Thiết Kỵ binh Pháp vào đội hình ô vuông của quân Anh trong chiến dịch Waterloo. Tranh vẽ của họa sĩ Henri Félix Emmanuel Philippoteaux.
Khoảng trước 16 giờ một chút, Ney để ý thấy một sự di tản ở trung tâm của Wellington. Đó chỉ là sự di chuyển các thương binh, nhưng ông tưởng nhầm rằng liên quân đang rút lui, và muốn tận dụng chuyện này. Vì quân đoàn của d'Erlon đã thất bại, Ney chỉ có thể tổ chức đợt tấn công bằng kỵ binh, khi mà phần lớn bộ binh Pháp đang tham chiến ở Hougoumont hoặc tới phòng thủ cánh phải của quân Pháp (chống Phổ).[77] Lực lượng của ông lúc đầu gồm quân đoàn kỵ binh dự bị của Milhaud và sư đoàn kỵ binh nhẹ của Lefebvre-Desnoëttes thuộc Đội Cận vệ Hoàng gia, sau đó được bổ sung thêm quân đoàn kỵ binh nặng của Tướng François Étienne de Kellermann và Guyot, tổng cộng khoảng 9.000 kỵ binh.[78] Quân của Wellington phòng thủ bằng cách lập thành đội hình hình vuông. Mặc dù dễ bị phá bởi đại pháo hay bộ binh, đội hình hình vuông này có thể chống trả lại kỵ binh hiệu quả, khi mà nó không thể bị bọc sườn, và ngựa không thể đột kích xuyên qua hàng lưỡi lê. Pháo binh của liên quân được đặt vào trung tâm của đội hình hình vuông.
Những bộ binh Anh thuật lại là đã có 12 đợt tấn công, nhưng có vẻ như họ đã tính cả những đợt nhỏ trong cùng một đợt tấn công, vì vậy mà con số thực chắc chắn là nhỏ hơn nhiều. Kellerman nhận ra sự vô ích của đợt tấn công và cố giữ lữ đoàn bắn súng tinh nhuệ của ông lại, nhưng Ney đã kiên quyết tung họ vào trận.[79] Một sĩ quan Anh đã ghi lại những cảm xúc của ông khi chứng kiến thế tấn công mạnh mẽ của quân Pháp.[Ghi chú 6]

Tướng Wellington động viên các binh sĩ Anh ở Waterloo. Tranh vẽ của Robert Alexander Hillingford.
Một điều cốt lõi là thành bại của lối tiến quân kỵ binh với số lượng lớn này phụ thuộc vào sự khiếp sợ của đối phương.[80] Nếu bộ binh có thể giữ vững được đội hình phòng thủ và không hoảng sợ thì kỵ binh cũng không gây được thiệt hại đáng kế gì. Thực ra thì nếu pháo binh Pháp có thể phá vỡ được hàng ngũ của các đội hình hình vuông này quân thì kỵ binh có thể xâm nhập và tiêu diệt chúng. Thế nhưng sự gắn kết giữa pháo binh và kỵ binh Pháp trong các đợt tấn công này là không tốt, khi mà pháo binh không tiến đủ gần để bắn hiệu quả.[81] Quân Pháp bị chặn đứng bởi bộ binh Anh, những trận pháo kích của pháo binh Anh (buộc họ phải xuống đồi để tái hợp đội ngũ), và các cuộc phản công của lực lượng kỵ binh Anh còn sót lại. Sau nhiều đợt tấn công thì họ đã bị tổn thất đáng kể, và nhiều chỉ huy đã bị thương khi trực tiếp chỉ huy ở hàng đầu.[82][83]
Cuối cùng thì Ney cũng hiểu rằng chỉ có quân kỵ binh không thì không làm được gì. Ông bắt đầu tổ chức một cuộc tấn công kết hợp, sử dụng sư đoàn Bachelu và trung đoàn của Tissot, thuộc quân đoàn II của Reille (khoảng 6.500 bộ binh). Cuộc đột kích này vẫn tiến theo đường cũ của các đợt tấn công vừa rồi.[84] Uxbridge dẫn Lữ đoàn Gia đình tới ngăn họ lại, nhưng không phá vỡ được bộ binh Pháp, và phải rút lui với những thương vong từ súng của quân Pháp. Quân kết hợp kỵ binh-bộ binh của Pháp tiếp tục bị đánh chặn bởi pháo kích từ pháo binh và lữ đoàn bộ binh của Thiếu tướng Frederick Adam, và cuối cùng phải rút lui.[79] Mặc dù trong đợt tấn công này thì kỵ binh Pháp ít gây được thương vong cho khu trung tâm của Wellington, những đợt pháo kích vào các đội hình hình vuông đã làm được chuyện đó. Tất cả kỵ binh của Wellington, ngoại trừ một lực lượng ở tận cùng phía trái, đều đã tham chiến ở mặt trận này và hứng chịu nhiều tổn thất. Tình thế nguy khốn lúc này của quân Anh khiến lữ đoàn kỵ binh hussar của Cumberland xứ Hanover đã tháo chạy khỏi chiến trường và chạy thẳng về Brussels, vừa chạy vừa loan tin cảnh báo.[85]
Cũng cùng lúc với đợt tấn công kết hợp của Ney ở trung tâm, phần còn lại trong quân đoàn I của d'Erlon đã đánh chiếm được La Haye Sainte vào lúc 6 giờ chiều.[86] Lúc này Ney hạ lệnh cho các khẩu pháo do ngựa kéo tiến về trung tâm của Wellington và bắt đầu pháo kích dữ dội vào các đội hình bộ binh hình vuông.[77] Trung đoàn 27 bị tiêu diệt, còn trung đoàn 30 và 73 tổn thất nghiêm trọng và phải hợp cùng nhau để tạo thành một đội hình hình vuông mới có thể đứng vững được.
Mất La Haye Sainte, quân Anh lâm vào tình thế átt khó khăn, Tướng Wellington đã nói với Uxbridge rằng "có lẽ chúng ta đang thua trận". Về phía Pháp, vui mừng vì thành công, Napoleon đã vội bảo sĩ quan tùy tùng Soult viết thư báo về Paris báo cho dân chúng rằng quân Pháp đã chiến thắng.

Quân Phổ tham chiến: các quân đoàn của Bülow và Zieten tấn công


Quân đội Phổ tấn công quân Pháp (ở giữa) tại cứ điểm Plancenoit
Quân đoàn đầu tiên của Phổ tới tham chiến là quân đoàn IV của Bülow. Ông dự định tấn công Plancenoit để lấy nơi đây làm điểm tựa để đánh vào hậu quân Pháp. Kế hoạch của Blücher là sẽ chiếm Frichermont bằng cách sử dụng đường Bois de Paris.[87] Blücher và Wellington đã liên lạc với nhau từ 10 giờ sáng và thống nhất việc quân Phổ sẽ tiến vào Frichermont nếu trung quân của Wellington bị tấn công.[88][89] Bülow nhận thấy rằng con đường tới Plancenoit được để ngỏ và lúc đó là 16 giờ 30.[87] Vào thời điểm mà kỵ binh Pháp ở trung tâm đang tấn công ác liệt nhất, lữ đoàn 15 thuộc quân đoàn IV của Phổ được cử tới để nối kết với lực lượng Nassau ở cánh trái Wellington ở Frichermont–La Haie, với một đội pháo do ngựa kéo và thêm một lữ đoàn pháo binh nữa triển khai ở phía trái của họ, để hỗ trợ.[90]
Napoléon lúc này đã phái quân đoàn của Lobau đi ngăn cản Bülow. Lữ đoàn 15 Phổ đánh bật Lobau khỏi Frichermont rồi tiến lên cao điểm Frichermont, nã pháo vào quân Pháp, rồi sau đó tiến tới Plancenoit. Việc này làm Lobau phải rút lui về vùng xung quanh Plancenoit, nghĩa là phía sau cánh phải của đại quân Pháp, và đe dọa con đường duy nhất để rút lui của họ. Napoléon I tung cả tám tiểu đoàn Tân Cận vệ để tiếp viện Lobau, sau đó lại thêm hai tiểu đoàn cận vệ nữa. Quân Pháp tạm chiếm lại ngôi làng, trước khi 3 vạn quân sĩ Phổ dưới quyền quân đoàn IV của Bülow và quân đoàn II của Pirch kéo tới tấn công Plancenoit lần nữa. Cuộc giằng co ở đây vẫn còn tiếp diễn.
Cuối buổi chiều, quân đoàn I Phổ lớn mạnh của Zieten đã tới phía bắc La Haye. Ông định tiến quân về phía đại quân của Phổ gần Plancenoit, nhưng vị tướng Müffling dưới quyền Quận công Wellington khuyên ông nên tới hỗ trợ cho cánh trái của Wellington. Sự xuất hiện của Tướng Zieten giúp Wellington có thể rút bớt kỵ binh ở cánh trái qua hỗ trợ khu trung tâm.[91] Sự xuất hiện của quân Phổ khiến thế trận đang có lợi cho Pháp đột ngột chuyển hướng. Quân của Napoleon giờ đây bị đối phương áp đảo về quân số với tỷ lệ 2 đánh 1, quân Pháp không thể đủ lực lượng để bảo vệ sườn đội hình chống đỡ các cuộc đột kích của quân Phổ.
Quân đoàn I của Phổ tấn công quân Pháp ở trước Papelotte, và tới 19 giờ 30 thế trận của quân Pháp đã bị bẻ cong thành móng ngựa, với các mốc là Hougoumont ở cánh trái, Plancenoit ở cánh phải, và trung tâm ở La Haie.[92] Quân Pháp của Durutte phải rút lui ra sau Smohain, sau đó tiếp tục bị quân tăng viện Phổ đánh lui. Lữ đoàn 13 và 15 của Phổ tới đánh bật hẳn quân Pháp khỏi Frichermont.[93] Sư đoàn của Durutte lúc này phải tháo chạy, và quân đoàn I Phổ tiến chiếm tuyền đường Brussels, cũng là đường rút lui duy nhất của Pháp.

Đợt tấn công của Đội Cận vệ của Hoàng đế


Napoléon nói chuyện với các Cận vệ trước khi họ xuất phát.

Tình hình từ lúc 17:30 tới 20:00
Lúc này, với việc trung tâm của Wellington đã sơ hở sau khi La Haye Sainte thất thủ, và Plancenoit tạm thời cầm cự được. Napoléon đưa vào tham chiến đội dự bị cuối cùng của mình, và cũng là lực lượng thiện chiến nhất và chưa từng bị đánh bại, Đội Cận vệ của Hoàng đế (Imperial Guard). Đợt tấn công vào lúc 19 giờ 30 này có nhiệm vụ phải phá vỡ trung tâm của Quận công Wellington và chia cắt ông khỏi quân Phổ. Mặc dù được nhắc tới nhiều trong lịch sử quân sự, việc có chính xác bao nhiêu đơn vị tham gia vào đợt tấn công này là chưa rõ. Ba tiểu đoàn Cựu Cận vệ (Old Guard) bám theo sau lực lượng này, nhưng chỉ đóng vai trò dự bị và không trực tiếp tấn công liên quân.[94]
Vượt qua trận mưa đạn, 3 nghìn quân Cận vệ tiến về phía tây La Haye Sainte và chia thành ba nhóm để tấn công. Một nhóm, bao gồm hai tiểu đoàn lính phóng lựu (Grenadier), đánh bại tiền quân của Wellington gồm quân Anh, Brunswick, và Nassau để tiến lên. Sư đoàn kỵ binh Hà Lan còn sung sức của Chassé được lệnh tới tham chiến. Chassé nã pháo vào họ, nhưng không ngăn được bước tiến của các Cận vệ. Sử dụng ưu thế hơn người, ông cho quân tấn công và đẩy lui họ.[95]
Ở phía tây, 1 nghìn rưỡi quân sĩ Anh do Thiếu tướng Peregrine Maitland chỉ huy nằm rạp xuống để tránh quân Pháp. Khi nhóm tấn công thứ hai của đội Cận vệ tới, họ đứng bật dậy để nã đạn xối xã vào quân địch, tiêu diệt được biết bao sinh lực địch. Quân Pháp dàn ra để đánh trả, nhưng đã mất đội hình. Nhóm Cận vệ thứ ba tới hỗ trợ và đã đẩy lui được quân sĩ Anh, nhưng sau đó bị đánh bại khi Trung đoàn Khinh Bộ Binh 52 của Anh áp sát sườn và bắn nát quân thù.[95][96] Những người còn sống trong đội Cận vệ bắt đầu rút chạy xuống đồi. Đó là lần đầu tiên, và cũng là lần duy nhất mà đội Cận vệ phải rút lui khi chưa có lệnh. Một sự hoảng sợ lan truyền khắp quân Pháp: "Đội Cận vệ rút lui rồi. Hãy tự cứu lấy mình!" ("La Garde recule. Sauve qui peut!"). Wellington lúc này đứng lên ra lệnh tổng tiến công. Quân của ông tiến lên và tấn công quân Pháp đang tháo chạy.
Hỏa pháo của quân Anh góp phần không nhỏ cho chiến thắng lớn của họ trước đội Cận vệ Đế chế Pháp.[14] Các Cận vệ còn sống tập trung quanh ba tiểu đoàn dự bị ở nam La Haye Sainte, để đánh trận cuối cùng. Quân Đồng Minh tấn công và đẩy họ tháo chạy về hướng La Belle Alliance. Trong cuộc tháo chạy này, một vài Cận vệ đã được chiêu hàng, và tương truyền là họ đáp lại bằng câu nói nổi tiếng "Đội Cận vệ chỉ có chết, chứ không đầu hàng!" ("La Garde meurt, elle ne se rend pas!"). Có người cho rằng Tướng Pierre Cambronne đã nói câu này, dù sách khác viết ông đáp: "Chết tiệt".[Ghi chú 7] Thắng lợi của tướng sĩ Anh đánh bật đội Cựu Cận vệ của Napoléon I cũng thể hiện vai trò của lực lượng Kỵ binh Anh đối với chiến thắng lẫy lừng tại Waterloo.[44]

Quân Pháp tan vỡ

Quân đoàn II và IV của quân Phổ dồn sức để tấn công trọng điểm Plancenoit. Quân Pháp ở đây chiến đấu rất cố gắng nhưng rồi cũng phải thoái lui, và vị trí chiến lược này bị quân Phổ chiếm giữ.[97] Để mất vị trí này cũng có nghĩa là trung tâm quân Pháp đã bị áp sát. Lúc này thì cả ba cánh phải, trái, và trung tâm của quân Pháp đều đã bại trận. Lực lượng duy nhất của quân Pháp còn chưa tan vỡ là hai tiểu đoàn Cựu Cận vệ ở La Belle Alliance, và các lực lượng dự bị cuối cùng bao gồm các vệ sĩ bảo vệ Napoléon. Ông hy vọng sẽ tái tập hợp quân Pháp đằng sau họ, nhưng khi cuộc tháo chạy biến thành sự hỗn loạn thì chính họ cũng phải rút lui, mỗi đội rút dần theo đội hình hình vuông để chống lại kỵ binh liên quân. Chấp nhận rằng trận đánh đã thất bại, Napoléon hiểu rằng ông phải rút đi.[98] Lữ đoàn của Adam đánh vào lực lượng quân Pháp ở bên trái quán trọ La Belle Alliance, trong khi quân Phổ tấn công lực lượng còn lại.[99]
Lúc hoàng hôn, hai đội hình vuông của quân Pháp dần bị đẩy lui, vẫn còn giữ được hàng ngũ, nhưng những khẩu pháo và tất cả những gì còn lại đều đã rơi vào tay sĩ tốt Đồng Minh. Xung quanh lực lượng Cận vệ này là hàng ngàn lính Pháp tháo chạy trong hỗn loạn. Kỵ binh liên quân truy đuổi quân địch tới tận 23 giờ, và cướp được cỗ xe của Napoléon với những viên kim cương mà sau này được đính lên vương miện của vua Phổ.[100] 78 khẩu pháo bị liên quân thu giữ và 2 nghìn tù binh bị bắt sống, trong đó bao gồm cả nhiều tướng lĩnh Pháp.[3] Những ghi chép của Ney đã miêu tả cảnh quân Pháp rút lui trong hỗn loạn, nhưng vẫn rất dũng cảm.[Ghi chú 8] Thực chất, xuyên suốt lịch sử thời kỳ cận đại, hiếm có đoàn quân hùng mạnh nào toàn những chiến binh tinh nhuệ, lại cùng một dân tộc, hết mực trung thành với chủ, mà lại tháo chạy một cách hết sức rối loạn như Quân đội Pháp sau đại bại tại Waterloo. Theo thông lệ, đoàn quân thóai lui hay được Hậu vệ yểm trợ, nhưng quân Pháp ở đây chỉ có bỏ chạy chứ không hề có cái gọi là rút lui. Trên chiến địa, không hề ai có ý tưởng tập hợp, chỉnh đốn lại hàng ngũ. Hai tướng lãnh tối cao của Liên minh là Blücher và Wellington gặp nhau trong đêm tối, chào mừng nhau như những người chiến thắng.[101] Trong khi ấy, một số lượng lớn binh sĩ đào ngũ khiến cho tàn binh Pháp càng thêm lâm vào thảm cảnh.[102]

Kết cục


Người lính phóng lựu Pháp cuối cùng sau trận Waterloo. Tranh vẽ của Horace Vernet.
Napoléon phải thoái vị lần hai vào ngày 24 tháng 6. Vào ngày 3 tháng 7 năm 1815, phát huy đại thắng ở Waterloo, quân Đồng minh đã chiếm cứ được thủ đô Paris, định đoạt cho cuộc chiến mà trận Waterloo là một phần lớn của nó. Ngoài ra, thành Peronne, Cambray cũng rất nhiều Pháo đài khác của Pháp đã thất thủ.[47] Hiệp ước Paris được ký vào ngày 20 tháng 11 năm 1815. Louis XVIII được trở lại ngai vàng, còn Napoléon phải lưu đày tới đảo Saint Helena, nơi ông qua đời vào năm 1821.[103] Và phần các tướng lĩnh Pháp, một số ít quay trở lại phục vụ cho Louis XVIII, còn lại hầu hết đều bị hành quyết vì tội phản quốc. Vị Tư lệnh quân Phổ là Thống chế Blücher yêu cầu trừng phạt thật nặng Pháp sau trận Waterloo như phần lớn đề nghị của ôngbị từ chối. Vốn đã dĩ già yếu và thanh thế lẫy lừng, ông lặng lẽ cáo lui[104]. Còn vị tướng thắng trận Wellington sau đó đã trở thành Thủ tướng Anh. Và thắng lợi tại Waterloo cũng được xem là chiến thắng cuối cùng trong suốt sự nghiệp hùng tráng của ông.[105] Ông đã làm nên chiến thắng quyết định thứ hai của nước Anh trong những cuộc chiến tranh của Napoléon I, đó là đại thắng tại trận Waterloo này (sau chiến thắng vang dội của Đô đốc Horatio Nelson trong trận Trafalgar ngoài khơi hồi năm 1805).[106]
Napoléon thoái vị … quân Đồng minh tiến thẳng vào Paris … Vậy nên Pháp đã sụp đổ theo đúng kiểu của Phổ hồi năm 1806, sau một cuộc chiến chẳng lâu dài chi. Tình hình sẽ rất khác nếu như Napoléon thắng trận; quân Đồng minh, với phần lớn các chiến binh chưa hề tham chiến, đều phải lao vào tác chiến. Tuy vậy, chế độ cai trị của Napoléon lệ thuộc vào quân đội chiến trận chính của ông và niềm vinh hiển của ông. Dựa theo những gốc gác dễ tan vỡ và giờ đã yếu đi như vậy, nó đã nhanh chóng sụp đổ.
Jeremy Black, trong sách War in the nineteenth century: 1800-1914[6]
Đây được coi là một thắng lợi quyết định, cho dầu Quận công Wellington gọi là "a near run thing" (tạm dịch là: "một trò ú tim").[6] Sử gia Peter Hofschröer viết rằng Wellington và Blücher đã gặp nhau ở Genappe vào lúc 22 giờ, đánh dấu kết thúc của trận chiến.[100] Vài nguồn khác cho rằng cuộc gặp mặt diễn ra vào lúc 21 giờ gần trụ sở chỉ huy của Napoléon, quán trọ La Belle Alliance. Tổn thất của Wellington là 15.000, còn tổn thất của Blücher là 7.000. Nhưng theo nhà sử học quân sự nổi tiếng nước Anh là Jeremy Black thì quân lực của Wellington có 16.200 liệt sỹ, 69.700 thương binh và binh sĩ mất tích, chiếm khoảng 23% tổng lực của họ. Black cũng ghi nhận rằng quân Phổ mất 7 nghìn binh sĩ, khoảng 14% tổng lực. Napoléon mất 25.000 quân, và 8.000 quân bị bắt làm tù binh. Nhưng theo Jeremy Black[102] thì quân lực của Napoléon I có tới 31 nghìn tử sĩ và thương binh, ngoài ra còn có thêm vài ngàn binh sĩ bị liên quân bắt giữ nữa. Đại thắng tại Waterloo trở thành một chiến thắng tiêu biểu cho dân tộc Anh hào hùng.[102] Đối với nước Pháp thất trận, chiến bại quyết định ở Waterloo mở đường cho cái huyền thoại la guerre nationale và nền văn hóa thua trận (culture of defeat) mang tính chất chính trị gắn liền với cả quốc gia này trong suốt hai thế kỷ sau.[26] Sự đổ vỡ của sức mạnh quân sự của Pháp trong trận Waterloo là quá ư là hoàn chỉnh, bản thân Napoléon I cũng hiểu rõ.
Chiến bại này khiến không có gì không được quyết định trong tương lai, do chiến thắng đã mở đường mọi sự. Cuộc chiến mở đầu và kết thúc chỉ trong một trận đánh.
Alphonse de Lamartine[47]
Đối với vị Hoàng đế chiến bại Napoléon I, đêm ngày 18 tháng 6 năm 1815 là một cơn ác mộng. Ông ta chả thể nào tập hợp cái đoàn quân rệu rã của mình. Ông ta tới Quatre-Bras vào lúc một giờ sáng và nghỉ ngơi tại đó. Viên Sĩ quan tùy tòng của Thống chế Soult tháp tùng Napoléon I đằng sau những ánh lửa trại, có kể lại; "Trên khuôn mặt buồn nản của Ngài, với vẻ tái nhợt tái nhạt, chả có sự cao hứng chi, chỉ có những giọt lệ". Mặt khác, chính "văn hóa sùng bái" của người Pháp đối với trận chiến Waterloo là do Napoléon I khai lập. Trong tuyên cáo của ông, viết khoảng một hai ngày gì đó sau chiến bại thê thảm, ông miêu tả cuộc giao chiến "thật huy hoàng, nhưng thật tai họa cho binh tướng Pháp". Nhưng trong thâm tâm, trận thua này là nỗi sầu thảm của ông, do ông không thể tin được rằng biết bao nhiêu là đợt tiến công đẫm máu lại chấm dứt với sự tháo chạy toán loạn của tàn binh Pháp.[26] Với chiến bại nặng nề, ông đã không thể nào giữ nổi ngôi Hoàng đế nước Pháp.[46] Và, ông không bao giờ để cho người ta biết những gì đã xảy ra ở Waterloo. Đó không phải là sai lầm của ai hết, mà là sai lầm của chính bản thân ông.[107]

Đánh giá

Tướng Baron Jomini, một trong những tác giả hàng đầu chuyên viết về các cuộc chiến của Napoléon, đã đưa ra bốn nguyên nhân rất có sức thuyết phục để diễn giải về thất bại của Napoléon ở Waterloo. Chúng bao gồm sự tiếp viện kịp thời và khả năng phối hợp tốt của quân Phổ (được giúp sức bởi quyết định hành quân sai lầm của phía Pháp),[Ghi chú 9] sự vững chắc đáng khâm phục của bộ binh Anh cùng sự bình tĩnh và tự tin của các tướng lĩnh, thời tiết xấu đã làm đất nhão ra khiến những đòn tấn công quyết định của quân Pháp bị trì hoãn và chỉ được tung ra vào lúc 13 giờ, và cách tiến quân sai lầm của quân đoàn đầu tiên bên phía Pháp.[108]
Theo sử gia quân sự Jeremy Black, một điều đáng chú ý là những binh sĩ kém cỏi trong quân lực của Wellington cũng đã chiến đấu xuất sắc trong trận huyết chiến này, khiến mọi đợt công kích của quân Pháp đều bị đại bại.[6] Ngoài ra, bản thân vị danh tướng thắng trận là Quận công Wellington cũng hiểu rõ sức chiến đấu hiệu quả của lực lượng Bộ binh của ông. Trong Chiến dịch Waterloo này, một lần khi được hỏi rằng nhân tố quyết định cho chiến thắng sẽ là gì, ông trỏ tay vào một người lính Bộ binh Anh và nói: "Đây, mọi sự đều phụ thuộc vào việc chúng ta có nên sử dụng cái này hay không. Cho Ta đủ nó, và Ta tin chắc".[109] Điều ấy thể hiện lòng tin cẩn của ông vào binh sĩ tốt, như một nhân tố chủ yếu để tất thắng.[8] Trong khi ấy, ông ít đề cao các quân chủng khác hơn.[109] Nhưng mặt khác, lực lượng Kỵ binh Anh cũng có cống hiến lớn lao, khến lực lượng Quân đội Anh đánh bật được các đợt công kích của quân Bộ binh Pháp.[44] Quân Kỵ binh của Quận công Wellington huy hoàng như vậy, trong khi Napoléon I từ sau thất bại thảm hại trong chiến dịch nước Nga (1812) đã thiếu thốn đội Kỵ binh tinh nhuệ.[45] Cũng giống như binh tướng của nhà vua Friedrich II của Phổ (tức Friedrich Đại Đế) trong trận Leuthen hồi năm 1757, các binh sĩ của Wellington trong trận huyết chiến tại Waterloo đã thực hiện kỷ luật rất chuẩn mực.[110] Và ông cũng được xem là đã thể hiện khả năng đáng kể ở Waterloo khi bố trí quân chủ lực của mình đằng sau các ngọn đồi và cao nguyên thuận lợi, giúp họ tránh được hỏa lực dữ dội của quân Pháp, và ông chỉ tung ra chiến địa khi Bộ binh và Kỵ binh Pháp kéo đến.[111] Nhiều người khen ngợi chiến thắng huy hoàng tại Waterloo, cùng với những thắng lợi của Wellington trong cuộc Chiến tranh Bán đảo Tây - Bồ như điển hình của sự hiệu quả của các tuyến quân.[44] Vốn từ trước thảm bại ở Waterloo, Napoléon I trong các trận đánh ban đầu tại Ligny và Quatre Bras đã hoàn toàn thất bại trong việc đạt được mục tiêu của mình là phân rẽ quân Liên minh thứ bảy. Kịch bản này lập lại thất bại hoàn toàn của ông hồi các năm 1813 - 1814.[6] Chiến thắng huy hoàng của quân Đồng minh trong trận đánh Waterloo trở thành một phiên bản ngược cho trận Marengo (1802), một trong những chiến thắng vẻ vang của Napoléon I thời kỳ đầu.[26] Ông không thể nào có biện pháp gì chống chọi với vị trí phòng ngự vững chắc của danh tướng Wellington.[6] Dù đã chiến đấu quả cảm, quân lính Pháp chỉ tổ đại bại trước sự kháng trả hết mực anh dũng, ngoan cường của lực lượng Bộ binh Anh.[26] Quân lực của Napoléon I đã mất đi sự gắn bó trong những ngày huy hoàng đầu tiên của mình, song họ còn có những sai lầm chiến thuật to lớn. Họ thiếu sự hợp tác giữa hai binh chủng Bộ Binh và Kỵ Binh thật vững chắc, khiến từng lực lượng của họ đều bị sơ hở.[6] Và trong khi quân lực Anh oai hùng liên tiếp đánh bại các đợt công kích mãnh liệt của quân Pháp, quân Phổ bằng những cơn mưa pháo khủng khiếp ở sườn phải của quân Pháp đã định đoạt cho sự đại bại của kẻ địch, quân Pháp.[46]
Sự quyết đoán Blücher cũng đóng vai trò thiết yếu cho chiến thắng Waterloo, theo cuốn The Waterloo Campaign: June 1815 của tác giả Albert A. Nofi.[104] Thêm nữa, trong trận này, Napoléon lại không có mưu kế nào hay, mà lại dựa hơi vào những đợt công kích trực diện, giống như trong trận Borodino đẫm máu hồi năm 1812 trong cuộc Chiến tranh Pháp-Nga, 1812. Điều đó khiến trận đánh trở thành một cuộc chiến đấu dai dẳng, với thiệt hại nặng nề cho quân Pháp.[6] Mặc dù cũng chính kiểu trận đánh tiêu hao đó đem lại thắng lợi lớn cho Napoléon trong trận Wagram (1809), Wellington có ấn tượng rất nhỏ với tài nghệ của ông trong thảm họa Waterloo của Hoàng đế Pháp, và gọi Napoléon là "cái máy giã" (a pounder).[111] Ngoài ra, chiến thắng huy hoàng tại Waterloo đã khắc họa sâu sắc thiên tài của Quận công Wellington. Trận huyết chiến phòng vệ này vẻ vang hơn bất kỳ một trận đánh nào khác của ông, góp phần đưa ông trở thành một tên tuổi lừng lẫy trên toàn cõi châu Âu.[112] Và sự cứu viện đúng lúc của các chiến binh Phổ cũng chứng tỏ sự suy tệ của khả năng chiến dịch của quân Pháp, do Napoléon đã hoàn toàn không thể tách rời hai đoàn quân của thù địch.[6]

Ý nghĩa trận đánh


Tranh biếm họa năm 1815 nói về chiến thắng của Blucher và Wellington trước Napoleon
Các liệt cường ở châu Âu lục địa đều phải kính nể danh tướng Wellington bởi vì ông đã đại thắng Napoléon trong một trận quyết chiến lừng lẫy.[8] Theo tác giả Haythornthwaite, dĩ nhiên, sự cứu viện kịp thời của Quân đội Phổ đóng vai trò định đoạt cho chiến thắng oanh liệt của ông, nhưng dầu sao chăng nữa thì ông cũng xứng đáng trở thành người hủy diệt cuối cùng của Napoléon và là vị anh hùng sáng chói của nước Anh. Chính sự chống trả ác liệt của ông đã mở đường cho quân Phổ đến kịp. Sau chiến thắng vinh quang, dần dần từ một vị chiến tướng kỳ tài, ông trở thành một biểu tượng cao đẹp của đất nước Anh.[7] Lòng quả cảm, và rắn chắc như sắt đá của ông mang lại đại thắng huy hoàng, gợi lại những thắng lợi hiển hách của ông trong những ngày tháng chiến đấu cam go chống quân Pháp ở bán đảo Tây-Bồ.[8] Trận ác chiến tại Waterloo là một trận chiến có ý nghĩa quyết định trong lịch sử. Nó đánh dấu kết thúc cho một loạt những cuộc chiến tranh đã khiến châu Âu rối loạn trong hơn 25 năm, kể từ sau Cách mạng Pháp năm 1789. Không những là thắng lợi quyết định chấm dứt vĩnh viễn kế hoạch tái lập nền Đệ nhất Đế chế Pháp,[48] nó cũng đã chấm dứt binh nghiệp và sự nghiệp chính trị của Napoléon Bonaparte, một trong các tướng lãnh và chính trị gia vĩ đại nhất trong lịch sử. Vương triều Một Trăm Ngày của ông mở đầu với thắng lợi, đã chấm dứt bằng chiến bại thảm hại tại Waterloo, làm đoàn binh của ông bất thình lình lâm vào thảm cảnh "bèo dạt mây trôi".[49][50] Trong lịch sử châu Âu, thời đại của Napoléon đến đây là chấm dứt.[113] Điều đó thể hiện sự hoàn hảo và quyết định của đại thắng tại Waterloo, như một chiến thắng huy hoàng,[114] đối với mục tiêu của phe Đồng minh. Cuối cùng, với tiền đề vững chắc, nó đã bắt đầu nửa thế kỷ hòa bình ở châu Âu, cho tới trước khi cuộc Chiến tranh Krym bùng nổ. Sử gia Edward Creasy xếp trận Waterloo vào trong danh sách 15 trận chiến có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử (từ trận Marathon đến trận Waterloo). Và, tính cho đến giữa thế kỷ thứ XIX, đây là trận chiến lớn cuối cùng mà các binh sĩ Anh hùng dũng, kỷ cương chiến đấu trên lục địa châu Âu. Tính quyết định của trận thắng này có thể so sánh với trận Sedan vào năm 1870 đã đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp của Hoàng đế Napoléon III.[114] Cùng với đại thắng của khối Liên minh thứ sáu trong trận Leipzig hồi năm 1813, chiến thắng quyết định tại Waterloo đánh dấu một trong hai thất bại thảm hại nhất trong suốt cuộc đời của Napoléon.[115]
Tuy Wellington là vị danh tướng đã lập nhiều chiến công vang lừng tại Tây Ban Nha, chiến thắng nghìn thu của ông tại Waterloo trở thành một trận thắng hiển hách hơn cả của ông.[116] Cuốn sách The Reader's Companion to Military History, cũng xếp trận đánh Waterloo vào danh sách 10 trận chiến trên bộ quan trọng nhất, cũng với những cuộc thư hùng đẫm máu như trận Châlons (451), trận Gettysburg (1863), trận sông Marne lần thứ nhất (1914),… hay trận Normandie (1944).[117] Nhà chính trị Anh Winston Churchill cũng coi chiến thắng Waterloom cùng với trận Crécy (1346), trận Höchstädt lần thứ hai (1704) và cuộc tấn công cuối cùng vào mùa hè năm 1918 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất là "bốn thành tích lớn nhất của Quân đội Anh".[118] Theo nhà sử học quân sự người Mỹ nổi tiếng Trevor Nevitt Dupuy, Napoléon thường có thói quen là tiêu diệt từng đạo quân một của đối phương có quân số đông đảo hơn. Cả Chiến dịch đầu tiên của ông - Trận Montenotte, và Chiến dịch cuối cùng là Trận Waterloo đều khắc họa rõ rệt điều đó. Napoléon Bonaparte đã thất bại tại trận Waterloo là do sai lầm mang tính chiến lược của ông và các bộ tướng của ông.[115] Trận chiến Waterloo trở thành một sự kiện quyết định cho số phận của nước Pháp.[48] Nước Anh, với chiến thắng rạng rỡ tại Waterloo, đã vững tồn và vươn lên thành một trong những liệt cường chính yếu của thế giới trong suốt thế kỷ thứ XIX.[102] Do đóng vai trò trung tâm trong chiến thắng quyết định của khối Liên minh trước Napoléon, do chiến công rực rỡ của ông tại Waterloo, trong công cuộc chiếm đóng nước Pháp trong suốt từ năm 1815 cho tới năm 1818, Wellington trở thành Tổng tư lệnh của lực lượng Đồng minh.[8]
Với chiến thắng hiển hách của khối Liên minh thứ bảy trong trận Waterloo, cuộc Chiến tranh Trăm Năm lần thứ hai giữa Đế quốc Anh và Pháp mở đầu từ năm 1689 đã chấm dứt.[102] Nền hòa bình châu Âu trở nên thành quả của sự hợp tác thành công và thắng lợi của hai liệt cường châu Âu khi ấy là Anh và Phổ. Trong suốt thuở thăng bình, các chiến binh Anh Quốc và Đức vẫn luôn kỷ niệm chiến thắng vinh quang, huy hoàng của họ, qua đó xem ra nhờ họ mà châu Âu được độc lập tự do, thoát khỏi nạn xâm lược và ách bá quyền của vị Hoàng đế tài năng và đầy tham vọng Napoléon.[119] Trận thắng to tại Waterloo góp phần mở đường cho Vương quốc Phổ hoàn tất công cuộc nhất thống nước Đức.[102] Do trận đánh này mà từ "Waterloo" trở thành một từ lóng trong tiếng Anh, có nghĩa là "thất bại". Chẳng hạn, thắng lợi của Liên bang miền Bắc trong trận Gettysburg được xem là một "Waterloo" của Liên minh miền Nam thời Nội chiến Hoa Kỳ, hoặc có tài liệu xem thất bại ở trận Stalingrad (1943) thời Chiến tranh thế giới thứ hai là một "Waterloo" của Lãnh tụ Đức Quốc xã (Führer) Adolf Hitler.[120][121]. Mặt khác, tuy chiến thắng oanh liệt tại Waterloo có ý nghĩa thật to lớn, quyết định, chiến thắng vẻ vang của quân Liên minh thứ sáu ở trận Leipzig hồi năm 1813 vẫn là một thắng lợi lâu dài, đẫm máu và quyết định hơn. Không những là thất bại ê chề của Napoléon, chiến thắng to lớn ở Leipzig còn tạo điều kiện cho các Liên minh chống Pháp nắm chắc thế thượng phong và dĩ nhiên là dẫn đến chiến thắng huy hoàng ở Waterloo.[26] Ngày hôm nay, tiếng vang của trận tranh hùng long trời lở đất tại Waterloo vẫn còn vang động trong con tim của nước Anh và những người yêu thích nước Anh. Và, tại Rostock (Đức), người ta đã gầy dựng một đài tưởng niệm hùng tráng nhằm tỏ lòng nhớ ơn vị danh tướng Blücher đã mang lại cho nước Phổ thắng lợi vinh quang này.[102] Mặt khác, sự thật rằng danh tướng Wellington đánh thắng Napoléon đã nhấn mạnh sự khác biệt giữa thất bại của Pháp và những chiến thắng của Anh và Nga khi ấy. Đúng vào năm 1815, trong khi Anh Quốc thắng trận, Napoléon phải ra hàng một chiến hạm của Anh Quốc, Nga hoàng Aleksandr I tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ ba ngày diễn ra trận Borodino, bằng lễ duyệt binh 15 vạn quân lính Nga ở hướng Đông thành Paris. Nước Anh và Nga đã chi phối cả phương Tây trong suốt thời kỳ ấy.[6]
Bãi chiến trường Waterloo ngày nay, nhìn từ đồi sư tử

Tham khảo

Ghi chú

  1. ^ Fitchett 2006, Chương: King-making Waterloo, "Vào lúc mà trận đánh tại Waterloo bắt đầu, lúc đó có khoảng 150,000 quân đang đóng ở nơi xảy ra vụ thảm kịch, vẫn còn đang là vấn đề bị tranh cãi. Công tước Wellington đã ghi rằng, trận đánh bắt đầu diễn ra vào lúc 10:00. Chủ tướng Alava thì nói trận đánh bắt đầu vào 11 giờ rưỡi, còn Napoléon và Drouet thì nói 12 giờ trưa và Ney nói vào 13:00. Tử tước Rowland Hil có thể được cho là người đã đưa ra bằng chứng sự thật về thời gian bắt đầu trận đánh. Trong khi tham chiến, ông cầm 2 cái đồng hồ theo mình, một trong hai cái là đồng hồ bấm giờ. Ông dùng đồng hồ bấm giờ để lưu lại thời gian khi tiếng súng đầu tiên được vang lên, và đây là bằng chứng được chấp nhận vào thời điểm hiện tại và điều đó có nghĩa là thời điểm chính xác khi ánh sáng (Của đại bác) đầu tiên được lóe sáng đánh dấu thảm họa Waterloo rung chuyển địa cầu là vào lúc 12 giờ kém 10 phút trưa."
  2. ^ Cách ghi: 1/2 nghĩa là tiểu đoàn 1 cùng trung đoàn 2. Tương tự cho các ký hiệu bên dưới.
  3. ^ Booth 1815, trang 10, "Tôi đã chiếm được đồn đó cùng với chi đội của tướng Byng. Chi đội của tướng Byng bị bắt ở phía hậu phương của cái đồn; và thời điểm đó quân lính ta được chỉ huy bởi trung úy Colonel MacDonald, và sau đó là đại tá Home; và tôi rất mừng mà nói rằng tình hình này đã được kiểm soát cả ngày nay cùng với sự gan dạ của quân lính bất kể sự cố gắng của kẻ thù để trấn giữ nó."
  4. ^ Creasy 1877, Chương XV, "Khi tôi tiến tới chỗ những tay súng bị bỏ rơi tại Lloyd, tôi đứng yên đó khoảng một phút để nhìn lại hình ảnh trận đánh: hình ảnh đó quả thật khó để mà có thể diễn tả được. Nhà trại Hougoumont và khu rừng gần đó đã bị đốt sạch cùng với làn khói đen phủ dày dặc trên cánh đồng ma; quân Pháp ở dưới làn khói đó thì không thể nhìn thấy rõ được. Ở đây có thể thấy được hàng loạt quân phục lông đỏ; ở chỗ kia thì thấy một dãy giấy thép để hiện ra những quân thiết kỵ (cuirassier) đang di chuyển; 400 chiếc súng đại bác được khai hỏa và từ hai bên, quân sĩ phải nằm xuống vô kể; sự gầm gừ và gào thét của đại bác bị nhiễu đi nhiễu lại thành một thứ tiếng gì đó làm tôi có liên tưởng tới một núi lửa đang hoạt động. Lúc đó, những thi thể của bộ binh và kỵ binh chất đống xung quanh như mưa trút vào chúng tôi, và đó là lúc tôi phải dừng lại suy ngẫm để về tới thực tại. Liền sau đó, tôi đã đi đến cột trụ của chúng tôi và đó là cột trụ đang đứng vẫn trụ tại quảng trường."
  5. ^ Fitchett 2006, Chapter: King-making Waterloo, "Tử tước Rowland Hil có thể được cho là người đã đưa ra bằng chứng sự thật về thời gian bắt đầu trận đánh. Trong khi tham chiến, ông cầm 2 cái đồng hồ theo mình, một trong hai cái là đồng hồ bấm giờ. Ông dùng đồng hồ bấm giờ để lưu lại thời gian khi tiếng súng đầu tiên được vang lên... Vào lúc 12 giờ kém 10 phút, tiếng đại bác đùng đùng phát ra từ đỉnh đồi phía quân Pháp"
  6. ^ Khoảng 4 giờ chiều khi súng đạn ở phía trước chúng tôi bỗng nhiên ngừng bắn và sau đó chúng tôi thấy một lực lượng kỵ binh hùng hậu tiến tới: không có một người đàn ông nào sau khi sống sót qua cuộc tấn công ồ ạt đó khó thể quên được những gì đã xảy ra. Khi phát hiện ra đoàn kỵ binh thì nó như là một đoạn kỵ binh quá áp đảo, di chuyển thành một hàng dài và đang di chuyển đến chúng tôi như một cơn sóng bão của biển cả dưới ánh mặt trời. Khi đoàn kỵ binh đến gần đủ thì Trái Đất cảm giác như đang rung chuyển vì những bức chân mạnh mẽ của đoàn kỵ binh. Một người nào đó có thể nghĩ rằng chả có gì có thể dừng lại đoàn binh di chuyển kinh khủng như thế này. Họ là những cuirassiers nổi tiếng của Pháp, hầu như tất cả đều là lính cũ. Họ là những binh lính đặc biệt trên các chiến trường tại Châu Âu. Chỉ với một khoảng thời gian hàu như là rất ngắn, họ đã cách chúng tôi khoảng 20 yard. Họ la oan oát "Hoàng đế vạn tuế!" (Vive l'Empereur!) như ra lệnh, nó có nghĩa là "sẵn sàng để nhận đòn đánh của kỵ binh". Trong lúc đó thì hầu như tất cả những lính đứng hàng đầu tiên liền quy xuống. Bức tường dựng đứng bằng thép được giữ lại bởi những bàn tay vững chắc đã sẵn sàng để đón đầu với những kỵ binh cuirassiers hung dữ của Pháp. Gronow 1862
  7. ^ Về việc ai nói ra câu nói này thì còn nhiều tranh cãi. Câu nói này thường được cho là của tướng Pierre Cambronne, theo các ghi chếp của Balison de Rougemont trong Journal General vào 24 tháng 6 năm 1815 (Shapiro (2006) trang 128), mặc dù theo Boller p. 12 thì ông đáp trả là "Merde!" (kiểu như "Chết tiệt!"). Parry 1900, trang 70 cho là câu này là của tướng Michel. Theo Elting, J.R. Swords Around a Throne: Napoleon's Grande Armée. (Da Capo Press, press ed. 1997. trang 657) thì câu này là do một tờ báo Pháp tự nghĩ ra.
  8. ^ Booth 1815, trang 74, Ở đó vẫn còn 4 kỵ binh Cựu Cận vệ Pháp ở lại cùng chúng tôi để bảo vệ sự rút quân. Những lính phóng lựu anh dũng này đã giúp sự rút lui thành công, chiến đấu kiên cường trên từng mảnh đất một nhưng họ đã bị số lượng quân địch quá áp đảo. Do đó quân của họ gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Từ lúc đó, sự thất bại đã trở thành hiển nhiên, và binh lính trở thành một đám đông hỗn loạn. Tuy nhiên đó không hoàn toàn là đám đông hỗn độn hoặc sự trốn chạy hỗn loạn hèn nhát như bản kiết thị đã thông báo.
  9. ^ Napoléon đã đánh giá sai tình hình quân Phổ sau chiến thắng ở Ligny của ông. Ông nên để quân của Grouchy ở lại cánh phải của mình, thay vì đuổi theo quân địch để rồi rớt lại sau lưng họ. Nếu có 3 vạn quân của Grouchy ở cánh phải, lực lượng này có thể chặn được quân Phổ chi viện để Napoléon toàn tâm đánh quân Wellington.

Chú thích

  1. ^ a ă â Hofschröer, tr. 72–73
  2. ^ Chesney 1907, trang 4.
  3. ^ a ă Hofschröer 1999, tr. 150
  4. ^ Barbero 2005, tr. 420
  5. ^ a ă Barbero 2005, tr. 419.
  6. ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô Black 2009, tr. 24-25
  7. ^ a ă Haythornthwaite 2007, tr. 83
  8. ^ a ă â b c Veve 1992, tr. 4-5
  9. ^ Englund 2005, tr. 399-413
  10. ^ McLynn 1998, trang 605
  11. ^ Đường thời gian: Quộc Hội của Vienna, một trăm ngày và sự lưu đầy của Napoleon tại St Helena, Trung Tâm Khởi Đầu Kỹ Thuật Số, thư viện của Brown University Library
  12. ^ Hamilton-Williams, David, trang 59
  13. ^ McLynn 1998, p.607
  14. ^ a ă â b c Cowley & Parker 2001, tr. 509-510
  15. ^ Davis 2001, tr. 298
  16. ^ Chandler 1966, tr. 1016, 1017, 1093
  17. ^ Cowley & Parker 2001, tr. 105
  18. ^ Siborne 1990, trang 82.
  19. ^ Hofschröer 2005, tr. 136–160
  20. ^ Longford 1971, trang 508.
  21. ^ Longford 1971, trang 527.
  22. ^ a ă â Chesney 1907, trang 136.
  23. ^ Davis 2001, tr. 298-299
  24. ^ Davis 2001, tr. 299
  25. ^ Barbero 2005, trang 75.
  26. ^ a ă â b c d đ Englund 2005, tr. 440-442.
  27. ^ Longford 1971, trang 485
  28. ^ Longford 1971, trang 484
  29. ^ Barbero 2005, trang 75–76.
  30. ^ Longford 1971, trang 486
  31. ^ Hofschröer 2005, trang 59.
  32. ^ Hofschröer 2005, tr. 60–62
  33. ^ Bản đồ chiến trường Waterloo
  34. ^ Barbero 2005, trang 78,79.
  35. ^ Barbero 2005, trang 80.
  36. ^ Barbero 2005, trang 149.
  37. ^ Parry 1900, trang 58.
  38. ^ Barbero 2005, trang 83–85.
  39. ^ Barbero 2005, trang 91.
  40. ^ Longford 1971, trang 535,536
  41. ^ Fletcher 1994, trang 20.
  42. ^ Barbero 2005, trang 95–98.
  43. ^ Haythornthwaite 2007, tr. 78
  44. ^ a ă â b c Dupuy 1984, tr. 159-161
  45. ^ a ă Veve 1992, tr. 1
  46. ^ a ă â b c d Lingard & Burke 1855, tr. 642
  47. ^ a ă â Creasy 1877, tr. 403-404
  48. ^ a ă â Gwen Cannon, France, trang 75
  49. ^ a ă Cowley & Parker 2001, tr. 431
  50. ^ a ă Cowley & Parker 2001, tr. 321
  51. ^ Roberts 2005, trang 55
  52. ^ Wellesley 1815
  53. ^ Barbero 2005, trang 113–114.
  54. ^ a ă Barbero 2005, trang 298.
  55. ^ Longford 1971, trang 552–554
  56. ^ Barbero 2005, trang 305,306.
  57. ^ Roberts 2005, trang 57
  58. ^ Barbero 2005, trang 131.
  59. ^ a ă Barbero 2005, trang 130.
  60. ^ Barbero 2005, trang 136.
  61. ^ Barbero 2005, trang 145.
  62. ^ Davis 2001, tr. 300
  63. ^ Barbero 2005, trang 165.
  64. ^ a ă Barbero 2005, tr. 85–187.
  65. ^ Barbero 2005, trang 188.
  66. ^ Glover, Letter 16, Frederick Stovin (ADC to Sir Thomas Picton)
  67. ^ Siborne 1993, Letter 5.
  68. ^ Barbero 2005, trang 426, chú thích 18
  69. ^ Siborne 1990, trang 410,411.
  70. ^ Barbero 2005, trang 198–204.
  71. ^ Barbero 2005, trang 211.
  72. ^ Siborne 1990, trang 425–426.
  73. ^ Barbero 2005, trang 219–223.
  74. ^ Siborne 1993, Letters: 18, 26, 104.
  75. ^ Siborne 1993, trang 38.
  76. ^ Hofschröer 1999, tr. 122
  77. ^ a ă Siborne 1990, trang 439.
  78. ^ Adkin 2001, trang 356
  79. ^ a ă Adkin 2001, trang 359.
  80. ^ Weller 1992, pp. 211,212
  81. ^ Adkin 2001, pp. 252,361.
  82. ^ Weller 1992, trang 114
  83. ^ Houssaye 1900, trang 522
  84. ^ Adkin 2001, trang 361.
  85. ^ Siborne 1990, trang 465
  86. ^ Beamish 1995, p. 367.
  87. ^ a ă Hofschröer 1999, tr. 116
  88. ^ Hofschröer 1999, tr. 95
  89. ^ Chesney 1907, trang 165
  90. ^ Hofschröer 1999, tr. 117
  91. ^ Hofschröer 1999, tr. 125
  92. ^ Hofschröer 1999, tr. 139
  93. ^ Hofschröer 1999, tr. 141.
  94. ^ Adkin 2001, trang 391.
  95. ^ a ă Chesney 1907, trang 178,179
  96. ^ Parry 1900, trang 70
  97. ^ Hofschröer 1999, tr. 145
  98. ^ Comte d'Erlon 1815
  99. ^ Hofschröer 1999, tr. 149
  100. ^ a ă Hofschröer 1999, tr. 151
  101. ^ Booth 1815, trang 23
  102. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên jeremyblack
  103. ^ Hofschröer 1999, tr. 274–276,320
  104. ^ a ă Nofi 1998, trang 65
  105. ^ Cowley & Parker 2001, tr. 512
  106. ^ Whittaker 2009, tr. 31
  107. ^ Churchill, Sir Winston; Baker, Timothy, trang 297
  108. ^ Jomini 1864, trang 223,224
  109. ^ a ă Haythornthwaite 2007, tr. 151
  110. ^ Kott 2008, tr. 13
  111. ^ a ă Albert A. Nofi, The Waterloo Campaign: June 1815, trang 172
  112. ^ Hilaire Belloc, Waterloo, trang 157
  113. ^ Gwen Cannon, France, trang 116
  114. ^ a ă Fitch 1905, tr. 360
  115. ^ a ă Dupuy 1984, tr. 331
  116. ^ Black 2010
  117. ^ Cowley & Parker 2001, tr. 29
  118. ^ Churchill, Sir Winston; Baker, Timothy, trang 68
  119. ^ Siborne 1848, tr. 400
  120. ^ Peter Wyden, Stella, trang 129. Simon & Schuster, 1992. ISBN 0-671-67361-0.
  121. ^ Hamlin 1899, tr. 454

Tài liệu tham khảo

Sách
Sơ đồ trận đánh
Nguồn chính
Quân phục
  • Đồng phục của Pháp, Phổ và đồng minh Anh trong trận chiến Waterloo: Mont-Saint-Jean (FR)

Liên kết ngoài





Nhà Đường

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Zhongwen.svg
Bài viết này có chứa các ký tự Trung Hoa. Nếu không được hỗ trợ hiển thị đúng, bạn có thể sẽ nhìn thấy các ký hiệu chấm hỏi, ô vuông, hoặc ký hiệu lạ khác thay vì các chữ Trung Quốc.

Đường
618–907

Vị trí của Nhà Đường
Lãnh thổ Trung Quốc dưới thời nhà Đường, khoảng 700 SCN
Thủ đô Trường An (長安)
(618–904)

Lạc Dương (洛陽)
(904–907)
Ngôn ngữ Tiếng Hoa Trung Đại
Tôn giáo Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Các tín ngưỡng dân gian
Chính thể Quân chủ
Lịch sử
 - Đường Cao Tổ đoạt ngôi từ nhà Tùy 18 tháng 6, 618
 - Bị gián đoạn bởi Võ Tắc Thiên 16 tháng 10, 690
 - Ổn định lại chính quyền 3 tháng 3, 705
 - Lương Thái Tổ chiếm đoạt quyền lực, chấm dứt nhà Đường 1 tháng 6, 907
Diện tích
 - Ước tính năm 715[1] 5.400.000 km²; (2.084.952 mi²)
 - Ước tính năm 866 3.700.000 km²; (1.428.578 mi²)
Dân số
 - Thế kỷ 7 ước tính 50.000.000 
 - Thế kỷ 9 ước tính 80.000.000 
Tiền tệ Tiền xu, tiền giấy
Nhà Đường bị gián đoạn bởi Nhà Võ Chu (8 tháng 10, 690 - 3 tháng 3, 705) khi Nữ hoàng Võ Tắc Thiên lên ngôi vị.
Lịch sử Trung Quốc
Lịch sử Trung Quốc
CỔ ĐẠI
Tam Hoàng Ngũ Đế
Hạ ~tk 21– ~tk 16TCN
Thương ~tk 17– ~tk 11 TCN
Chu ~tk 11–256 TCN
 Tây Chu ~tk 11–771 TCN
 Đông Chu 770–256 TCN
   Xuân Thu 770–476 TCN
   Chiến Quốc 476–221 TCN
ĐẾ QUỐC
Tần 221 TCN–206 TCN
(Tây Sở 206 TCN–202 TCN)
Hán 202 TCN–220 CN
  Tây Hán 202 TCN–9 CN
  Tân 9–23
  (Huyền Hán 23–25)
  Đông Hán 25–220
Tam Quốc 220–280
  Tào Ngụy, Thục Hán , Đông Ngô
Tấn 266–420
  Tây Tấn 266–316
  Đông Tấn 317–420
Thập Lục Quốc
304–439
Nam-Bắc triều 420–589
  Lưu Tống, Nam Tề, Lương, Trần
  Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu
Tùy 581–619
Đường 618–907
 (Võ Chu 690–705)
Ngũ Đại Thập Quốc
907–979
Liêu 907–1125
(Tây Liêu 1124–1218)
Tống 960–1279
  Bắc Tống 960–1127
Tây Hạ
1038–1227
  Nam Tống 1127–1279
Kim
1115–1234

(Đại Mông Cổ Quốc 1206–1271)
Nguyên 1271–1368
(Bắc Nguyên 1368–1388)
Minh 1368–1644
(Nam Minh 1644–1662)
(Hậu Kim 1616–1636)
Thanh 1636–1912
HIỆN ĐẠI
Trung Hoa Dân Quốc 1912–1949
Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa
1949–nay
Trung Hoa Dân Quốc
tại Đài Loan
1949–nay
Nhà Đường (tiếng Trung: 唐朝; bính âm: Táng Cháo, Hán Việt: Đường triều; phát âm Tiếng Trung: [tʰɑ̌ŋ tʂʰɑ̌ʊ]; tiếng Hán trung đại: Dâng) (18 tháng 6, 618 - 1 tháng 6, 907) là một triều đại Trung Quốc tiếp nối sau nhà Tùy và sau nó là thời kì Ngũ Đại Thập Quốc. Nhà Đường được gia tộc họ Lý (李) thành lập. Gia tộc này thâu tóm lấy quyền hành khi nhà Tùy suy sụp rồi sụp đổ. Triều đại này bị gián đoạn khi Hoàng đế Võ Tắc Thiên nắm lấy quyền hành và lập ra nhà Võ Chu (8 tháng 10, 690 - 3 tháng 3, 705). Bà là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Nhà Đường với kinh đô Trường An (là thành phố đông dân nhất thời bấy giờ, nay là Tây An) được các nhà sử học coi là đỉnh cao trong văn minh Trung Hoa; ngang bằng hoặc vượt trội hơn so với thời kì đầu nhà Hán — một thời kì hoàng kim của văn minh thế giới.
Lãnh thổ của nhà Đường rất rộng lớn, lúc cực thịnh đạt gấp rưỡi lãnh thổ của nhà Hán nhờ có lực lượng quân đội hùng mạnh và các cuộc chinh chiến quân sự. Trong hai cuộc điều tra trong thế kỷ 7thế kỷ 8, dân số trên lãnh thổ nhà Đường được ước tính lên đến 50 triệu người (đây mới là dân số dựa trên số hộ trong sổ sách, dân số thực có thể còn gấp đôi như vậy).[2][3][4]a[›] Và, khi bộ máy nhà nước đi xuống và không thể điều tra dân số một cách chính xác trong thế kỷ 9, con số ước tính là 80 triệu người.[5][6] Với số dân lớn như vậy, nhà Đường có một lực lượng quân đội hùng mạnh với binh lính chuyên nghiệp và những thương nhân buôn bán, trao đổi hàng hóa trên toàn bộ khu vực châu Á dọc theo Con đường Tơ lụa nổi tiếng. Nhiều nước khác nhau đã triều cống cho triều đình nhà Đường, nhà Đường cũng chinh phục hoặc khuất phục một số khu vực rồi đặt chúng dưới quyền cai trị gián tiếp thông qua một hệ thống bảo hộ. Bên cạnh quyền bá chủ về mặt chính trị, nhà Đường cũng có ảnh hưởng lớn đến văn hóa các nước láng giềng như Triều Tiên, Nhật BảnViệt Nam.
Thời kì nhà Đường phần lớn là một giai đoạn tiến bộ và ổn định, nhưng vào giữa triều đại thì xảy ra loạn An Sử, từ đó triều đình ngày càng đi xuống. Giống với nhà Tùy, nhà Đường duy trì bộ máy các quan lại trong triều đình từ các sĩ đại phu thông qua các cuộc thi khoa cử và tiến cử. Trật tự này đã bị suy yếu khi các thống đốc quân sự khu vực được gọi là tiết độ sứ nổi lên trong thế kỷ 9. Văn hóa Trung Quốc phát triển mạnh mẽ và cường thịnh trong thời kì nhà Đường, đây được coi là thời kì đỉnh cao của thi ca, hay thơ Trung Quốc.[7] Hai thi sĩ nổi tiếng nhất Trung Hoa là Lý BạchĐỗ Phủ, thuộc về thời kì của triều đại này, cùng với các họa sĩ nổi tiếng như Hàn Cán, Chương TuyểnChu Phương. Có một số lượng lớn các công trình văn học lịch sử, toàn thư và các nghiên cứu về địa lý được hoàn thành trong thời kỳ nhà Đường.
Có nhiều đổi mới đáng được công nhận và chú ý dưới thời nhà Đường, trong đó bao gồm sự phát triển của ngành in mộc bản. Trong thời nhà Đường, Phật giáo có tác động chủ yếu đến văn hóa Trung Quốc, và nhiều giáo phái bản địa trở nên nổi bật. Tuy nhiên, về sau triều đình đã ngược đãi Phật giáo và tôn giáo này đã suy giảm tầm ảnh hưởng. Mặc dù chính phủ và triều đình nhà Đường suy sụp trong thế kỷ 9, song nghệ thuật và văn hóa vẫn tiếp tục phát triển. Triều đình trung ương mục nát nên đã không thể quản lý được nền kinh tế, song việc mậu dịch vẫn không bị ảnh hưởng và thương mại vẫn tiếp tục thịnh vượng.

Nguồn gốc quốc hiệu nhà Đường

Quốc hiệu "Đường" vốn là tên cũ của đất Tấn, nay nằm ở khu vực trung tâm của tỉnh Sơn Tây. Thời Tây Ngụy, Lý Hổ là một người trong Bát trụ quốc (八柱國), được phong là Lũng Tây quận công (隴西郡公), sau khi mất được truy hiệu là Đường quốc công (唐國公).[8]:254 Con là Lý Bỉnh (李昞) kế tập. Năm 582, con của Lý Bỉnh là Lý Uyên kế thừa tước vị Đường quốc công, sau được thăng tước là Đường vương (唐王). Sau này, khi Tùy Cung Đế nhường lại đế vị cho Lý Uyên, ông bèn đổi quốc hiệu sang Đường. Sau này khi nhà Đường đã vong, thời Ngũ Đại Thập Quốc phía bắc có Lý Tồn Úc xưng quốc hiệu là Hậu Đường, phía nam có Lý Biện xưng quốc hiệu là Nam Đường, đều tự cho mình là kế thừa của nhà Đường. Ngay cả vua nhà Nam Đường cũng tự xưng mình là dòng dõi của Kiến vương Lý Khác (李恪) - con trai của Đường Hiến Tông.[9]:36[10]
Hoàng tộc nhà Đường xưng mình phát tích từ dòng họ LýLũng Tây, trong Cựu Đường thưTân Đường thư đều cho rằng Lý thị nhà Đường là hậu duệ của Lão Tử, mà Lý Uyên cũng tự xưng mình là hậu duệ nhiều đời của Lý Cảo - là Thái Tổ Vũ Chiêu Vương của nhà Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Một học giả hiện đại là Trần Dần Khác (陳寅恪, 1890 - 1969) đã khảo chứng và cho rằng Lý Đường là dòng dõi họ Lý ở Long Khánh thuộc Triệu Quận.[chú 1]

Lịch sử

Lý Uyên khai quốc

Họ Lý thuộc về tầng lớp quý tộc quân sự, cát cứ phía tây bắc trong suốt thời gian cai trị của các hoàng đế nhà Tùy.[13] Mẹ của Lý Uyên mang họ Độc Cô, có một người em là hoàng hậu của Bắc Chu Hiếu Minh Đế Vũ Văn Dục, đó là Minh Kính hoàng hậu Độc Cô thị và ngay cả Văn Hiến hoàng hậu của Tùy Văn Đế cũng là chị họ của Lý Uyên, nhờ vậy mà họ Lý được trọng dụng,[8]:255 Tổ phụ của Lý Uyên là Lý Hổ đã theo Vũ Văn Thái-người sáng lập ra triều Bắc Chu- tiến vào Quan Trung, thời Tây Ngụy từng được ban cho họ Đại Dã, làm quan đến chức thái úy, cùng với Lý Bật là một trong "Bát trụ quốc" của nhà Tây Ngụy. Sau khi Bắc Chu Hiếu Mẫn Đế lên kế vị, lúc này Lý Hổ đã mất nên được truy phong là "Đường quốc công". Phụ thân của Lý Uyên, tức Lý Bỉnh, được tập phong tước hiệu Đường quốc công. Sau khi Lý Bỉnh mất, Lý Uyên khi ấy chưa được mười tuổi đã kế thừa tước Đường quốc công.
Trong những năm Đại Nghiệp thời Tùy Dạng Đế, do chính sách tàn bạo của nhà vua cũng như ba lần đánh Cao Câu Ly thất bại dẫn đến mâu thuẫn giai cấp xảy ra, dân chúng ở các địa phương đồng loạt khởi nghĩa. Lý Uyên có công trong việc dẹp vài cuộc nổi loạn mà được Dạng Đế trọng dụng. Năm 616, được phái đi làm lưu thủThái Nguyên để trấn áp quân nổi dậy.[9]:37 Ban đầu ông đánh thắng một số trận, song quân khởi nghĩa ngày càng mạnh, mỗi lúc một đông thêm nên khiến ông bối rối. Lý Uyên thấy thiên hạ đại loạn, nhà Tùy không thể kéo dài sự thống trị được lâu nữa nên trong thâm tâm đã có dự tính hành động.[14] Tuy nhiên ông vẫn do dự không quyết, phải có sự thúc đẩy của mấy người con trai có tài (tiêu biểu là Lý Thế Dân), ông mới hạ quyết tâm. Năm 617, Lý Uyên chính thức khởi binh tạo phản tại Tấn Dương (nay thuộc Thái Nguyên, Sơn Tây).[chú 2]

Đường Cao Tổ Lý Uyên
Tháng 11 năm 617, Lý Uyên cùng người con thứ là Lý Thế Dân phá quân đội của Khuất Đột, đánh lấy Tùy kinh Đại Hưng, lập Dương Hựu làm vua, tức Tùy Cung Đế, cải niên hiệu là Nghĩa Ninh, tôn Dạng Đế là Thái thượng hoàng. Lý Uyên xưng là Đại thừa tướng, hiệu là Đường Vương.[9]:37
Vào lúc Lý Uyên chiếm kinh đô nhà Tùy khiến các thế lực cát cứ kinh động. Lúc đó Dạng Đế tàn bạo, quân sĩ vì căm ghét, nên đã gây ra Giang Đô chính biến, ép Tùy Dạng Đế phải chết. Nhà Tùy diệt vong.
Tháng 3 năm 618, hay tin Tùy Dạng Đế bị hại, Lý Uyên tại thành Đại Hưng (大興城) đã tuyên bố thành lập triều đại nhà Đường. Tháng 5, ép Cung Đế nhường ngôi, cải niên hiệu là Vũ Đức (武德). Năm đó, đổi tên thành Đại Hưng thành kinh đô Trường An, dẹp hết các quý tộc tàn dư thời nhà Tùy, lại đem quân đánh diệt các thế lực cát cứ, dần dần thống nhất Trung nguyên, thiên hạ mau chóng quay lại cục diện thái bình. Cũng năm này, vua phong cho con trưởng Lý Kiến Thành làm Thái tử, con thứ Lý Thế Dân làm Tần vương, con thứ 4 là Lý Nguyên Cát làm Tề vương, còn con thứ ba là Lý Nguyên Bá (李元霸) chết yểu.[9]:37
Lý Uyên chính là Đường Cao Tổ, vị vua sáng lập nhà Đường. Năm 618, con thứ của ông là Lý Thế Dân đem quân bình định tây bắc, diệt Tiết Cử, Tiết Nhân Cảo. Sau đó, lại khiến La Nghệ ở U Châu (幽州) phải đầu hàng. Ngay cả khởi nghĩa của Lý MậtLạc Dương cũng thất bại phải hàng nhà Đường, thực lực quân đội nhà Đường nhanh chóng tăng trưởng, dần dần diệt hết các quần hùng ở Trung Nguyên, thống nhất thiên hạ.
Năm 619, sứ nhà Đường là An Hưng Quý (安興貴) và An Tu Nhân (安修仁) bắt tróc lấy Hà Tây tẩu lang của Lý Quỹ. Năm 620, Lý Thế Dân đánh vào vùng Sơn Tây của Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương (宋金剛). Năm 621, Lý Thế Dân đánh chiếm Hà Nam của Vương Thế Sung. Vương Thế Sung cùng thế lực của Đậu Kiến ĐứcHà Bắc liên minh kháng Đường. Năm 622, Đậu Kiến Đức bị bắt, Vương Thế Sung đầu hàng. Sau đó bộ hạ Đậu Kiến Đức là Lưu Hắc Thát lại định khởi quân phản Đường, Lý Thế Dân và Lý Kiến Thành trước sau tiến đánh, Lý Kiến Thành bắt được Lưu Hắc Thát, bình định Hà Bắc năm 623. Cũng năm đó, Phụ Công Thạch cùng Đỗ Phục Uy hợp bộ hạ ở Đan Dương phản Đường, đến năm 624 thì bị quân Đường giết, Giang HoàiGiang Nam được bình định. Năm 621, tướng Lý Tĩnh đánh Giang Lăng, Tiêu Tiển đầu hàng. Năm sau, Phùng ÁngLĩnh Nam hàng phục, Lâm Sĩ Hoằng ở Kiền Châu (虔州) cũng chết, nhà Đường chiếm làm đất.
Lý Thế Dân là nhà cầm quân tài năng kiệt xuất, ra quân là thắng lợi. Sau khi dẹp xong quần hùng, Tần vương Lý Thế Dân và Thái tử Lý Kiến Thành bắt đầu có xung đột. Kiến Thành đã hai lần mưu sát Thế Dân nhưng bất thành. Đến lần thứ 3 thì việc bị lộ, Lý Thế Dân lần này quyết định ra tay trước. Ngày mùng 4 tháng 6 năm 626, tức năm Vũ Đức thứ 9, Lý Thế Dân gây ra Sự biến Huyền Vũ môn giết chết Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát. Đường Cao Tổ biết chuyện, đau buồn nhưng ông không xử phạt Lý Thế Dân. Sau đó chẳng lâu, Đường Cao Tổ thoái vị về làm Thái thượng hoàng, nhường ngôi lại cho Lý Thế Dân, tức là Đường Thái Tông.[15]:41

Thịnh trị thời Trinh Quán

Bài chi tiết: Đường Thái Tông

Đường Thái Tông Lý Thế Dân
Đường Thái Tông - Văn Vũ Đại Thánh Đại Quảng Hiếu hoàng đế (文武大聖大廣孝皇帝), vị hoàng đế anh minh bậc nhất của nhà Đường nói riêng và của lịch sử Trung Quốc nói chung[16].
Khi ông mới lên ngôi năm 626, Đông Đột Quyết đem quân đánh đến gần thành Trường An, cách thành 40 dặm ở về phía Kính Dương. Kinh thành chấn động. Lúc ấy, binh ở Trường An chỉ có vài vạn không thể đánh giao tranh được, vì vậy Thái Tông phải nghĩ ra kế, bèn đích thân suất lĩnh quân cùng Cao Sĩ Liêm (高士廉) và Phòng Huyền Linh gồm 6 kị mã đứng cách Vị Thủy đối thoại với Hiệt Lợi khả hãn (頡利可汗), Thái Tông trách Hiệt Lợi bội ước. Trong sách Đường ngữ lâm có nói rằng Thái Tông đưa phẩm vật trong kho phủ cho Đột Quyết để chúng rút quân. Sau đó, nhà Đường và Đột Quyết làm Lễ thề Vị Thủy (渭水之盟, Vị Thủy chi minh), Đột Quyết rút lui, và nhà Đường về sau đặt quan hệ với 2 khả hãn Hiệt Lợi và Đột Lợi, từ đó Đường Thái Tông chỉ còn chuyên tâm lo trị nước.
Năm 627, nội bộ của Đông Đột Quyết xung đột và tan rã. Những bộ lạc phản đối Hiệt Lợi khả hãn như Tiết Diên Đà, Hồi Hột, Bạt Dã Cổ (拔也古), Đồng La (同羅) nổi dậy tiêu diệt triều đình của Hiệt Lợi khả hãn, đưa thủ lĩnh Tiết Diên Đà lên làm Khả hãn. Hai khả hãn Đột Lợi và Hiệt Lợi chạy sang liên lạc với nhà Đường. Đúng lúc đó, ở Đông Đột Quyết xảy ra bão tuyết dẫn đến mất hết lương thực và thức ăn gia súc, nhiều người trong bộ lạc chết vì đói rét, Đông Đột Quyết dần dần suy yếu. Ngày 26 tháng 4 năm 628, tức năm Trinh Quán thứ 2, một người địa phương là Lương Lạc Nhân (梁洛仁) đã giết thủ lĩnh của Hạ Châu (夏州) là Lương Sư Đô (梁師都), chấm hết các thế lực cát cứ. Năm 630, Lý Tĩnh suất quân Đường sang diệt Đông Đột Quyết.
Đường Thái Tông lo việc trị nước, trọng dụng kẻ can gián mình, lưu lại cho lịch sử một thời đại Đường triều đi lên sự thịnh thế, Đường Thái Tông trở thành bậc đế vương hiếm có một thời[17]. Trong việc nội chính, nhà vua thi hành chế độ quân điền, lại thi hành tô dung điều chế để lo về việc chia ruộng đất và đánh thuế.[18]:425 Về mặt đối ngoại, hoàng đế gả công chúa cho khả hãn Đột Quyết để giành lấy quyền cai quản đất cao nguyên Mông Cổ. Oai danh của Thái Tông khiến các dân tộc vùng tây bắc tôn kính, gọi ông là Thiên Khả Hãn (天可汗). Năm 641, tức năm Trinh Quán thứ 15, Thái Tông gả Văn Thành công chúa cho Tán phổ Thổ PhồnTùng Tán Cán Bố, ổn định việc quan hệ ngoại giao ở phía tây.[19]:75
Về quan chế, hoàng đế noi theo chế độ tể tướng đời Tần Hán. Đường Thái Tông còn dựa theo chế độ nhà Tùy, phát triển hoàn thiện các cơ cấu tam tỉnhlục bộ cùng với chế độ thi cử tuyển nhân tài. Thái Tông còn giảm bớt quyền hạn của hoàng tộc, đả phá sự thống trị thế tập rối ren đời Tùy. Thái Tông cầu hiền như khát nước, bất kể giai cấp xuất thân, sử dụng hàng loạt những bậc đại thần có năng lực, sáng suốt và sẵn sàng biết can gián hoàng đế, tiêu biểu như: Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối (杜如晦), Trưởng Tôn Vô Kị, Ngụy Trưng, Mã Chu (馬周), Cao Sĩ Liêm (高士廉) và Tiêu Vũ (蕭瑀) là những bậc văn thần giỏi; còn như Uất Trì Kính Đức (尉遲敬德), Lý Tĩnh, Hầu Quân Tập (侯君集), Trình Tri Tiết, Lý Thế Tích (李世勣) và Tần Thúc Bảo là những võ tướng xuất chúng. Ngoài ra, Thái Tông còn lệnh cho các quan viên khắp nơi đều phải lắng nghe dân tình, cho trăm họ được quyền phát biểu kiến nghị, và phái một số người điều tra về sinh hoạt của các quan để theo dõi biết ai ngay ai gian mà xử lý.[8]:256
Suốt 23 năm thời Trinh Quán, xã hội trật tự, kinh tế ổn định, khôi phục thịnh thế, văn vật phát triển, sử gọi đó là "Trinh Quán chi trị" (Sự thịnh trị thời Trinh Quán). Tư trị thông giám của Tư Mã Quang đời nhà Tống có ghi lại, năm 630 thời Trinh Quán, giá 1 đấu gạo không quá 3, 4 tiền, cả năm tử hình không đến 29 người. Khi Thái tôn mất, thái tử Lý Trị lên ngôi, ban hành đại xá, thì thượng thư bộ Hình tâu rằng trong toàn quốc chỉ có 50 người bị tù và hai người bị xử tử.
Sử gia Trung Hoa khen đời Thái tông thịnh trị như đời vua Nghiêu, vua Thuấn. Ngay cả sự tổng kết chính trị trong Trinh Quán chính yếu sau này cũng được các đế vương Nhật BảnTân La mô phỏng theo.[15]:45

Thời Cao Tông và Võ hậu

Cuối đời Đường Thái Tông, con trưởng của hoàng đế là thái tử Lý Thừa Càn (李承乾) và Ngụy vương Lý Thái (李泰) đánh nhau. Thái Tông trị tội cả hai người, phế ngôi Thái tử của Lý Thừa Càn, lập Tấn vương Lý Trị lên ngôi. Sau khi Thái Tông băng hà, Lý Trị kế vị, đó chính là Đường Cao Tông. Trước đây, Cao Tông đã thầm yêu một vị ni cô vốn là tài nhân của Thái Tông, đó là nàng Võ Chiếu (hay Võ Mị Nương), do Thái Tông băng hà nên Võ thị buộc phải vào chùa đi tu, Cao Tông bất chấp dư luận đưa nàng vào cung. Sau này, Võ thị hãm hại Vương hoàng hậu của Cao Tông, lên thay ngôi hoàng hậu.[20]:51 Năm 656, tức năm Hiển Khánh thứ nhất, Cao Tông nhân vì sự kiện Kiện Khang, bèn giao việc quốc chính cho Võ hoàng hậu xử lí.[18]:433 Võ hậu từ đó trở thành người thực tế nắm quyền lực tối cao của nhà Đường, cùng Cao Tông xưng hiệu là nhị thánh.[21]:133 Võ hậu phụ chính cho vua Cao Tông, đến năm 659, tiêu diệt Tây Đột Quyết, nhà Đường càng lên đỉnh cực thịnh. Sau đó, nhà Đường liên minh với nước Tân La tiêu diệt Cao Câu LyBách Tế, đánh bại viện quân của Nhật Bản. Lúc Tân La lo chiếm toàn bán đảo Triều Tiên, nhà Đường chiếm lấy phía bắc, lập ra An Đông đô hộ phủ (安東都護府), chiếm lại vùng đất của nhà Hán mà năm xưa Cao Câu Ly đã giành lấy.
Sau khi Đường Cao Tông băng hà, thái tử Lý Hiển (李顯) kế vị, đó là Đường Trung Tông. Nhưng vì tân hoàng đế không hợp ý mình nên Võ thái hậu đã phế truất ông làm Lư Lăng vương (廬陵王). Sau đó, bà lập Lý Đán (李旦) lên ngôi, chính là Đường Duệ Tông. Sau khi bình định cuộc phản loạn của 1 tông thất là Lý Kính Nghiệp (李敬業), năm Thiên Thụ thứ nhất (690), Võ hậu phế truất Duệ Tông, tự xưng làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Chu, tức là triều đại Võ Chu.
Trước và sau Võ hậu đã có những phụ nữ khác nắm quyền khuynh loát triều chính như Lã hậu, Từ Hi thái hậu... nhưng chỉ có bà là dám công khai xưng Đế và lên ngôi. Bà định đô ở tại Lạc Dương (gọi là Thần Đô), lập Lý Đán làm hoàng tự, Võ hậu chính là nữ hoàng đế đầu tiên và duy nhất trong lịch sử, chính là Võ Tắc Thiên.[20]:55
Những năm Võ Tắc Thiên còn giám quốc, phát triển sự nghiệp thời Trinh Quán, gọi là Trinh Quán di phong (貞觀遺風). Kế tục chế độ quân điền, phát triển nông nghiệp, tiếp tục khoa cử tuyển nhân tài, ngoài ra còn có thi võ tuyển tướng sĩ. Về đối ngoại, chiến tranh mở rộng và giữ vững cương vực; các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật cũng rất tiến bộ.[8]:258[20]:56 Nhưng Võ Tắc Thiên lại dùng các quan lại tàn khốc, gây nên nỗi kinh hoàng truyền đến hậu thế. Võ Tắc Thiên lại sắp đặt Bắc Môn bác sĩ, thường nhiễu vượt Môn hạ tỉnh, Trung thư tỉnh làm tiền lệ cho các quan lại ác độc giết hại các quan lại chống đối. Võ Tắc Thiên đối với Phật giáo rất sùng bái, khiến Phật giáo thời đó phát triển cực thịnh.[20]:57

Thịnh trị thời Khai Nguyên

Bài chi tiết: Đường Huyền Tông

Đường Huyền Tông người đã tạo nên Khai Nguyên thịnh thế, nhưng cũng là người đặt nền móng cho sự suy sụp của nhà Đường。
Vào năm 705, tức năm Thần Long thứ nhất, tả vũ lâm tướng quân Kính Huy (敬暉), phượng các thị lang Trương Giản Chi (張柬之), hữu vũ lâm tướng quân Hoàn Ngạn Phạm (桓彥範), loan đài thị lang Thôi Huyền Vĩ (崔玄暐) cùng tư hình thiếu khanh Viên Thứ Kỷ (袁恕己) cùng mọi người phát động chính biến, giết chết 2 anh em họ Trương - sủng nam của Vũ Tắc Thiên, buộc nữ hoàng đế phải thoái vị. Sau đó, họ khôi phục ngôi vị hoàng đế của Trung Tông Lý Hiển, lập lại quốc hiệu Đại Đường. Sử Trung Hoa gọi đó là Thần Long cách mạng (神龍革命) hay Ngũ vương chính biến (五王政變),[18]:436 Lý Đán được tấn phong làm An Quốc Tương vương (安國相王), Thái Bình công chúa (Lý Lệnh Nguyệt) được phong làm Trấn Quốc Thái Bình công chúa (鎮國太平公主). Trung Tông lập hậu là Vi hoàng hậu. Con gái An Lạc công chúa và cháu của Vũ Hậu cùng với Vũ Tam Tư (武三思) vài người cũng bị ảnh hưởng, lúc đó Vi hậu mưu đồ bất chính, muốn noi theo Vũ Tắc Thiên ngày xưa. Nhưng An Lạc công chúa cùng bà phi Thượng Quan Uyển Nhi kết thành bè đảng, sát hại thái tử Lý Trọng Tuấn (李重俊, sau được truy thụy là Tiết Mẫn thái tử 節愍太子).[8]:259 Năm 710, tức năm Cảnh Long thứ 4, Vi hậu cùng An Lạc công chúa mưu giết chết Trung Tông, lập Ôn vương Lý Trọng Mậu (李重茂) làm hoàng đế, tức Đường Thương Đế (唐恭宗殤皇帝, Đường Cung Tông Thương hoàng đế), lại muốn hại đến Tương vương Lý Đán. Lúc đó, con trai của Lý Đán là Lý Long Cơ hiệp lực với Thái Bình công chúa gây ra Sự biến Đường Long (唐隆之變, Đường Long chi biến), tru diệt Vi hậu, An Lạc công chúa cùng với toàn bộ thế lực tàn dư dòng họ Vũ, lập Lý Đán phục vị hoàng đế, tức là Đường Duệ Tông. Đường Trung Tông được an táng theo nghi lễ hoàng đế, thụy hiệuĐại Hòa Đại Thánh Đại Chiêu Hiếu hoàng đế (大和大聖大昭孝皇帝).[20]:59
Sau khi Duệ Tông lên ngôi, Lý Long Cơ và Thái Bình công chúa phát sinh cảnh cô cháu tranh nhau, Duệ Tông trái phải đều khốn. Năm 712, tức năm Diên Hòa thứ nhất, Duệ Tông đành nhường lại ngôi vị cho Thái tử Lý Long Cơ, tức là Đường Huyền Tông. Năm 713, Đường Huyền Tông khép Thái Bình công chúa vào tội có ý muốn tạo phản, ép phải tự sát, bè đảng của bà cũng bị giết hoặc biếm truất đi, từ đó kết thúc cục diện bè đảng Vũ hậu hoặc những chuyện nữ nhi tham chính sự.[8]:260 Cũng năm đó, vua cải niên hiệu là Khai Nguyên. Thời kỳ niên hiệu được gọi là Khai Nguyên thịnh thế,[22]:61 nền chính trị khá trong sáng, nhà vua trọng dụng 2 vị lương thần là Diêu Sùng (姚崇) và Tống Cảnh (宋璟) làm tể tướng, nhờ đó kinh tế dần phát triển, nông nghiệp đã phát minh ra máy cày tay (曲轅犁, Khúc viên lê) và đồng xa (筒車). Nông nghiệp được chú trọng và đề cao, quốc lực ngày càng tăng, nhà Đường bước vào thời toàn thịnh. Kinh đô Trường An trở thành chốn đô hội với số nhân khẩu đông, trở thành thành thị cổ phát triển nhất. Đường Huyền Tông lại thu dụng tể tướng Trương Cửu Linh (張九齡), nghe theo kiến nghị của ông cải cách chỉnh đốn lại chế độ quan lại, sử dụng hiền tài, đề nghị các địa phương bồi dưỡng nho sinh sĩ phu ưu tú.

Loạn An-Sử


Dương Quý Phi, tranh lụa của Takaku Aigai tại bảo tàng mỹ thuật SEIKADO BUNKO
An Lộc Sơn (安祿山) tên thật là Loát Lạc Sơn, người dân tộc Túc Đặc (một tộc người Tajik). An Lộc Sơn xuất thân từ một gia đình thương nhân có nguồn gốc từ Bukhara (Sogdiana) đến sinh sống và làm ăn ở vùng đất mà nay là Ürümqi (烏魯木齊/Ô Lỗ Mộc Tề), thủ phủ khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, miền tây bắc Trung Quốc.
An Lộc Sơn nguyên mang họ Khang, nhưng sau đó bà mẹ cải giá với người họ An nên lấy họ An. Lộc Sơn là phiên âm tiếng Hán của chữ Lushi, theo tiếng bản tộc có nghĩa là "ánh sáng".
An Lộc Sơn bị kết án tử hình vì tội ăn cắp, bỏ trốn và gia nhập quân đội nhà Đường. Nhờ có thành tích xuất sắc trong chiến đấu ở vùng tây bắc, đặc biệt là trong việc chống lại quân Khiết Đan, ông được phong đến chức Tiết độ sứ vào năm 742. Trước khi làm phản, An được phong làm tiết độ sứ của những ba vùng, được Đường Huyền TôngDương Quý Phi yêu mến. Huyền Tông nhận Lộc Sơn làm con nuôi. Lộc Sơn lén ra vào cung cấm tư thông với Dương Quý Phi và gọi bằng "mẹ" để che mắt Huyền Tông.
Huyền Tông không hề hay biết, vẫn hết sức tin tưởng Lộc Sơn. Lộc Sơn to béo, bụng phệ, Huyền Tông hỏi vì sao bụng lại to như vậy, Lộc Sơn khúm núm tâu rằng:
Bụng thần chứa chất lòng trung với bệ hạ nên to như vậy.
Huyền Tông nghe nói rất bằng lòng, càng tin vào Lộc Sơn hơn.
An Lộc Sơn có mâu thuẫn với Dương Quốc Trung (楊國忠), anh của Dương Quý Phi. Sợ bị Dương trấn áp, An Lộc Sơn nghe theo lời của Sử Tư Minh (đồng hương, bạn thân và đồng thời là thuộc hạ) làm loạn, khởi 15 vạn binh từ Ngư Dương, đánh xuống phía nam. Khi tin báo An Lộc Sơn làm phản báo về, Đường Huyền Tông ban đầu không tin vì lòng trung của Lộc Sơn. Mặt khác, chính Lộc Sơn cũng thông gia với Huyền Tông, có 1 con trai còn ở kinh thành để làm con tin. Mãi sau vua Đường mới biết là sự thật, bèn hạ lệnh giết chết phò mã - con trai Lộc Sơn.
Cuối năm 755, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh làm phản. An Lộc Sơn xưng là Thánh Vũ Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Yên. Bằng năng lực và kinh nghiệm quân sự cộng với lực lượng trong tay hùng mạnh, quân Yên làm chủ chiến trường phía đông. Nhà Đường vội vã mộ 6 vạn quân để giữ Lạc Dương, nhưng quân mới đều là dân lưu lạc không được huấn luyện nên nhanh chóng bị Lộc Sơn đánh bại. Mùa hè năm 756, An Lộc Sơn đánh vào Lạc Dương. Nhiều thành trì phía đông lọt vào tay Lộc Sơn.
Lộc Sơn mang quân tiến về phía tây, đánh kinh thành Trường An, án binh lại trước cửa Đồng Quan vì gặp đạo quân của Kha Thư Hàn án ngữ.
Trong lúc các tướng Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật đang đánh mạnh và giành lại quyền chủ động ở phía đông, An Lộc Sơn cũng bế tắc trước ải Đồng Quan thì Đường Huyền Tông lại mắc sai lầm, bắt Kha Thư Hàn ra quân, trong khi tướng này muốn cố thủ để chờ quân của Tử Nghi và Quang Bật đánh về. Bị thúc ép quá, Thư Hàn đành ra quân và bị Lộc Sơn đánh tan rã. 20 vạn quân Đường bị giết, quân Lộc Sơn ồ ạt tiến vào Tràng An.
Đường Huyền Tông cùng thừa tướng Dương Quốc Trung hốt hoảng, bỏ Trường An rút về đất Thục (蜀, nay là Tứ Xuyên). Trong khi quân sĩ đói rét thì gia đình Quốc Trung vẫn ăn trên ngồi chốc. Quân sĩ khởi loạn, giết chết Quốc Trung và ép Huyền Tông phải giết Dương Quý Phi, nếu không sẽ không hộ giá nữa. Đường cùng, Huyền Tông buộc phải nghe theo, mang Qúy phi thắt cổ ở gò Mã Ngôi.
Sau khi chiếm Trường An, An Lộc Sơn nghe tin Dương Quý Phi đã chết, ra lệnh tàn sát dân kinh thành rất nhiều. Bản thân Lộc Sơn cũng chán nản, sau đó không lâu, Lộc Sơn bị bệnh và trở nên ốm yếu rồi bị chính con trai của mình là An Khánh Tự giết hại.
Trước sự bất lực của vua cha, thái tử Lý Hanh lên ngôi tại núi Linh Vũ, tức là Đường Túc Tông, vọng tôn Huyền Tông làm thượng hoàng. Vua con tổ chức quân đội đánh mạnh vào quân Yên của An Lộc Sơn, thu hồi lại nhiều đất đai. Tuy nhiên chiến sự vẫn giằng co chưa phân được thua. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật về hội binh với Túc Tông nên Sử Tư Minh thừa cơ chiếm lại 13 quận Hà Bắc. Thế quân Yên lại mạnh.
Năm 757, nhà Đường nhờ thế lực của người Hồi Hột bắt đầu phản công và lấy lại được Trường An.
Thủ hạ của Lộc Sơn là Sử Tư Minh không theo An Khánh Tự, nên ly khai và rút về Phạm Dương (gần Bắc Kinh ngày nay). Quân phản loạn trở nên phân rã, suy yếu. Sử Tư Minh đầu hàng triều đình nhưng phát hiện ra âm mưu định ám sát mình của nhà Đường, nên lại tiếp tục làm phản. Năm 758, Tư Minh mang quân giải vây cho Khánh Tự đang bị triều đình vây khốn. Quân Đường bị đánh bại bỏ chạy. Tuy nhiên sau đó Tư Minh vào thành giết chết An Khánh Tự, tự xưng làm Yên Đế.
Năm 761, Sử Tư Minh bị con trai cả là Sử Triều Nghĩa sát hại vì có ý định lập con nhỏ làm thái tử. Sau khi Sử Tư Minh chết, quân phản loạn mất tư lệnh tài năng, Sử Triều Nghĩa mau chóng bị triều đình dẹp tan (763).
Cuộc phản loạn này làm nhà Đường suy yếu nghiêm trọng cả về chính trị, quân sự và kinh tế. Lịch sử nhà Đường ghi lại thì trước loạn An Sử, dân số là 53 triệu, sau loạn chỉ còn 17 triệu.
Loạn An Sử chấm dứt nhưng một bộ phận tướng sĩ của Lộc Sơn quy hàng triều đình vẫn làm tiết độ sứ ở Hà Bắc. Để thưởng công cho các tướng sĩ (mà không ít người là người dân tộc thiểu số), nhà Đường phải phong đất đai và chức tước cho họ, tạo thành vô số chính quyền quân sự nhỏ làm lung lay quyền lực của triều đình trung ương.
Nhiều quận, huyện ở Hà Nam, Sơn Tây, Sơn Đông bị các tướng truyền nối cho con cháu nhiều đời không lệ thuộc triều đình. Cục diện phiên trấn cát cứ của các tiết độ sứ bắt đầu hình thành và kéo dài hơn 100 năm, cho tới khi nhà Đường sụp đổ vào năm 907.

Họa phiên trấn và hoạn quan

Sau loạn An Sử, nhà Đường bắt đầu suy yếu. Phiên trấn cát cứ, hoạn quan chuyên quyền, chia bè đảng khuynh đảo đã khiến chính trị nhà Đường trở nên tồi tệ.[8]:264 Do sau khi bình định xong loạn An Sử, triều đình phong chức tiết độ sứ ở các địa phương nhằm an trí, các địa khu được quản hạt được gọi là phiên trấn. Vào thời Đường Huyền Tông ở biên giới đã có 10 Tiết độ sứ. Trong quá trình dẹp loạn An Sử và chống Thổ Phồn, lại có thêm rất nhiều Tiết độ sứ được phong, cả nước đã có tới 40 Tiết độ sứ.
Vì để đề phòng xâm lược hay nội phản, quyền lực của các tiết độ sứ khá lớn, có quyền thay vua quyết định việc ở tại phiên trấn nhậm và thậm chí là có quân đội riêng, có tính chất thế tập cha truyền con nối. Bọn họ tập trung đại quyền: quân đội, chính trị, của cải vào mình, trở thành "nước trong nước". Từ đó khiến tình trạng đuôi to khó vẫy, ngoài nặng trong nhẹ, khiến hình thành các thế lực cát cứ.[23]:87
Năm 773, Tiết độ sứ Ngụy Bác vì để dụ dỗ các tướng thân cận của An - Sử đến đầu hàng mình nên không thèm để ý đến triều đình, đã công nhiên lập "Tứ thánh từ" cho cha con An - Sử, lại còn yêu cầu Đường Đại Tông phong cho mình chức Tể tướng. Đường Đại Tông tuy trong lòng rất tức giận nhưng chẳng còn cách nào nên vẫn phải phong cho ông ta làm Tể tướng, gả con gái mình là Vĩnh Lạc công chúa cho con trai ông ta.
Đến đời Đường Đại Tông lên ngôi nhờ sự ủng hộ của một viên hoạn quan. Đại Tông sau khi làm hoàng đế, mong muốn cải cách lại triều chính, tuy nhiên, tiềm lực đất nước đã bị phá hoại nặng, biên phòng lỏng lẻo, nạn ngoại xâm diễn ra nghiêm trọng, mà các khu vực phía đông nam dân chúng sinh biến loạn. Năm 763, Thổ Phồn đem 20 vạn quân đánh vào Quan Trung, trong 3 tháng đã đánh đuổi được Đường Đại Tông, chiếm cứ Trường An, cướp sạch của cải. Ở Hà Bắc lại có người Hồi Hột nổi dậy đánh phá. Do ở Hà Bắc các phiên trấn dần dần làm phản, các nơi khác cũng noi theo, cục diện cát cứ chính thức hình thành.
Đến năm 779, tức năm Đại Lịch thứ 14, Đại Tông hoàng đế băng hà, thụy hiệuDuệ Văn Hiếu Vũ hoàng đế (睿文孝武皇帝).[23]:88

Đường Đức Tông Lý Quát
Sau đó, hoàng thái tử Lý Quát kế vị, tức Đường Đức Tông. Đức Tông sau khi kế vị, liền đặt mối họa phiên trấn lên hàng đầu cần phải lo diệt. Tháng giêng năm 781, tức năm Kiến Trung thứ 2, Đức Tông đem quân đánh Tiết độ sứ ở Sơn Nam. Năm 783, Hoài Tây Tiết độ sứ Lý Hi Liệt cùng với một loạt các Tiết độ sứ khác liên kết với nhau cắt đứt đường lương thực của nhà Đường từ Đông Nam, dẫn quân tấn công Tương Thành (Tương Thành, Hà Nam), uy hiếp Lạc Dương. Đến tháng 10, tình hình Tương Thành rất nguy ngập, Đức Tông phải lệnh cho các đạo quân ở Kinh (phía bắc Kinh Châu, Cam Túc ngày nay) và Nguyên (Cổ Nguyên, Cam Túc ngày nay) cứu viện cho Tương Thành. Kinh Nguyên Tiết độ sứ Đào Lệnh Ngôn dẫn hơn 5000 quân đi qua kinh thành, trời mưa rét mà không được khao thưởng nên lòng quân tức giận, thế là quân sĩ bất ngờ làm phản, tấn công kinh thành, xông vào hoàng cung. Đường Đức Tông phải dẫn theo hậu phi và hoạn quan vội vàng bỏ chạy về phía Ưng Thiên (huyện Càn, Thiểm Tây).
Phiến quân Kinh Nguyên lập tức tôn Chu Thử làm chủ. Chu Thử từng làm Kinh Nguyên Tiết độ sứ, vì vào triều dâng tấu mà bị Đường Đức Tông giam giữ ở Trường An. Chu Tỉ tự xưng là "Đại Tấn hoàng đế" cải nguyên "Ứng Thiên". Chu Tỉ lệnh binh mã sứ Hàn Mân dẫn hơn 3000 kỵ binh tinh nhuệ, tấn công Ưng Thiên để truy sát Đường Đức Tông. May mà Đoàn Tú Thực đã dùng kế đánh tráo con dấu mà lừa được phản quân. Đường Đức Tông đã bảo toàn được tính mạng.
Chiến tranh với phiên trấn xảy ra suốt 5 năm, sau này cũng giết được những kẻ cầm đầu loạn lạc như Chu Thử (朱泚) và Lý Hi Liệt (李希烈). Nhà Đường sau đó tuy không chấp nhận cho các tiết độ sứ xưng vương, nhưng cũng phải thừa nhận họ được quyền thống trị tại địa phương.[18]:454 Sự phân hóa cát cứ ngày càng rõ rệt hơn trong thời cai trị của Đức Tông. Ngay cả họa hoạn quan bắt đầu khống chế cấm quân, đảm nhận giám quân, cục diện hoạn quan lộng quyền cũng tuyên bố hình thành từ đây. Mọi chuyện dựng vua này giết vua khác trong triều Đường sau này cũng do đám hoạn quan này đứng đầu.[8]:267
Đức Tông đã từng trọng dụng những viên quan như Dương Viêm (楊炎) làm tể tướng sử sụng Lưỡng thuế pháp, dùng Lưu Yến (劉晏) cải cách vận chuyển đường thủy, cải biến thuế muối, thi hành Thường bình pháp, cải thiện quốc gia. Nhưng đồng thời, hoàng đế cũng trọng dụng tên hoạn quan cũng là gian thần Lô Kỉ (卢杞), để cho chúng tâu xằng làm bậy, và sau này chúng giết hại 2 vị quan tài giỏi là Dương Viêm và Lưu Yến. Đến cuối đời, Đức Tông nghi kị đại thần, chỉ tin dùng bọn hoạn quan, thậm chí dùng chúng để dò xét các quan. Vì thế tuy là có ý định tốt nhưng kết quả là càng làm cho tình trạng cát cứ ngày càng nghiêm trọng.
Đến năm 805, tức năm Trinh Nguyên thứ 21, Đức Tông băng hà, thụy hiệu là Thần Vũ Hiếu Văn hoàng đế (神武孝文皇帝). Lúc này, hoàn cảnh nhà Đường đã như mặt trời gần lặn xuống.

Sự trung hưng thời Vĩnh Trinh và Nguyên Hòa


Đường Hiến Tông vị vua có công thảo phạt phiên trấn, trung hưng nhà Đường。
Sau khi Đức Tông băng hà, hoàng thái tử Lý Tụng, lúc đó đã làm Thái tử được 26 năm, lên ngôi, tức Đường Thuận Tông, cải niên hiệu là Vĩnh Trinh. Sau khi Thuận Tông lên ngôi, bèn sử dụng Vương Thúc Văn (王叔文) cải cách quan lại, thay đổi những điều bất hợp lí về chế độ quan lại xử trị ở địa phương từ thời Đức Tông để lại. Vương Thúc Văn bãi bỏ Cung thịNgũ phường tiểu nhi - cơ cấu mà trước đây bọn gian thần dùng để đè nén áp bức nhân dân. Lại cho giảm thuế má, binh dịch, bãi miễn tên tham quan Kinh triệu doãn Lý Thật (李實), ức chế các thế lực cát cứ ở địa phương. Tuy nhiên, chính những cải cách này đã động chạm đến những lợi ích của bè phái thủ cựu quan liêu, cho nên chúng tìm cách gây trở ngại. Chính ngày 20 tháng 6 năm 805, mẹ của Vương Thúc Văn qua đời buộc ông phải bỏ chức vụ về chịu tang, sau đó ông bị giáng chức làm Tư hộ tham quân ở Du Châu (渝州). Sau đó những người quan viên thuộc phái cải cách gồm: Vương Thúc Văn, Vương Phi (王伾), Hàn Diệp (韓曄), Hàn Thái (韓泰), Trần Gián (陳諫谏), Lăng Chuẩn (凌准), Trình Dị (程異), Vi Chấp Nghị (韋執誼), Lưu Vũ Tích, Liễu Tông Nguyên - gọi là Nhị Vương bát Tư Mã (hai người họ Vương và tám vị quan Tư Mã), cả thảy đều bị giáng chức làm quan ở địa phương. Cuộc Vĩnh Trinh cách tân (永貞革新) với mong muốn cải cách mau chóng nhưng cuối cùng lại là chóng tiêu tan.
Đầu tháng giêng năm 806, Thuận Tông dưới sự áp lực của hoạn quan và gian thần, đành phải nhường ngôi tại Hưng Khánh cung, đến ngày 19 tháng giêng năm đó, nhà vua bị hãm hại ở cung này, thọ 46 tuổi. Thụy hiệu là Chí Đức Hoằng Đạo Đại Thánh Đại An Hiếu hoàng đế (至德弘道大聖大安孝皇帝).[23]:90
Sau khi Thuận Tông nhường ngôi, thái tử Lý Thuần (李純) kế vị, đó là Đường Hiến Tông, lấy niên hiệu là Nguyên Hòa. Hiến Tông là vị hoàng đế có công phục hưng sự thịnh trị của nhà Đường, mặc dù sự thịnh thế đó tồn tại không được lâu và cũng không rực rỡ bằng thời Đường Thái TôngĐường Huyền Tông, nhưng sử sách gọi đó là Nguyên Hòa trung hưng (元和中興). Hiến Tông chăm lo siêng năng việc cai trị, lo duyệt tấu chương, muốn hưng thịnh lại nhà Đường đang bị rạn nứt dần. Hiến Tông thường ưa nghe lời can gián, rộng rãi bao dung, tích cực cho thu góp tiền đồng trong hoàng tộc, thi hành tiết kiệm. Nhờ đó mà tài lực quốc gia đi lên, có thể tiến hành chiến tranh chống lại các phiên trấn bất quy thuận.
Năm 806, Kiếm Nam (劍南) & Tây Xuyên (西川) Tiết độ sứ Lưu Tịch (劉闢) làm loạn, phát binh tấn công chiếm địa bàn Đông Xuyên, bị Hiến Tông dẹp trừ, khiến cho các phiên trấn chấn động, bèn dâng biểu về xin quy thuận triều đình. Sau khi bình định được Tây Xuyên, quân Đường nhanh chóng tấn công tiêu diệt trấn Hạ Tuy (thuộc huyện Tịnh Biên, Thiểm Tây ngày nay), bắt được Trấn Hải Tiết độ sứ Lý Kỳ vốn không nghe lệnh triều đình. Vì thế mà uy tín của nhà Đường ngày càng được tăng lên.
Tháng 10 năm 814, tức năm Nguyên Hòa thứ 9, Hiến Tông bắt đầu đi thảo phạt phiên trấn ở miền Hoài Tây của Ngô Nguyên Tế (吳元濟). Đến năm 817, tức năm Nguyên Hòa thứ 12, thế lực của Ngô Nguyên Tế bị tiêu diệt. Tháng giêng năm 818, các phiên trấn ở địa phương phái sứ tiết đến Trường An xin hiến đất và nộp cống quy thuận.
Đường Hiến Tông cũng là vị hoàng đế hết lòng sùng bái Phật giáo. Ông đã từng đi đến chùa Pháp Môn để rước Phật cốt. Việc này bị Hình bộ thị lang Hàn Dũ phản đối. Hoàng đế tức giận nên đã giáng chức Hàn Dũ đi làm thứ sử ở Triều Châu (潮州).
Ngày 27 tháng giêng năm 820, tức năm Nguyên Hòa thứ 15, Hiến Tông bị bọn hoạn quan Trần Hoằng Chí (陳弘志) giết tại Trung Hòa điện ở Đại Minh cung. Thời kỳ trung hưng thời Hiến Tông chấm dứt. Các phiên trấn cát cứ lại nổi lên tranh giành.[23]:91

"Sự biến Cam Lộ" và Đảng tranh

Sau khi Đường Hiến Tông băng hà, thụy hiệu là Chiêu Văn Chương Vũ Đại Thánh Chí Thần Hiếu hoàng đế (昭文章武大聖至神孝皇帝), hoàng đệ Lý Hằng (李恒) kế vị, tức Đường Mục Tông. Mục Tông ham chơi vô độ, cục diện phiên trấn cát cứ lại tiếp diễn, quyền thế của hoạn quan càng bành trướng, chia bè đảng và tranh quyền lẫn nhau, triều chính bắt đầu xuống dốc. Mục Tông băng hà sau 3 năm trị vì, thụy hiệu là Duệ Thánh Văn Huệ Hiếu hoàng đế (睿聖文惠孝皇帝), tiếp sau đó 3 người con trai của ông lần lượt nối ngôi là: Đường Kính Tông Lý Trạm (李湛), Đường Văn Tông Lý Ngang (李昂), và Đường Vũ Tông Lý Viêm (李炎). Ba ông vua này đều là anh em cùng cha khác mẹ, lần lượt được hoạn quan ủng hộ lên ngôi, nhưng sau cũng bị giết, mà lúc sống cũng chẳng được nắm quyền là bao, từ đó phản ánh một nền chính trị Đại Đường đã bị bại hoại.[24]:103 Kính Tông lên ngôi vốn là vị hoàng đế chẳng lo việc nước dân, suốt ngày yến tiệc ham vui, vì ham chơi vô độ mà gây ra họa khiến phải băng hà vào năm 826, tức năm Bảo Lịch thứ 2, sau khi yến tiệc quá chén, Kính Tông bị nhóm hoạn quan Lưu Khắc Minh (劉克明) hại chết, thọ 18 tuổi, thụy hiệu là Duệ Vũ Chiêu Mẫn Hiếu hoàng đế (睿武昭愍孝皇帝).
Sau đó, Văn Tông kế nhiệm, vốn là vị vua cũng chăm việc chính sự, sinh hoạt tiết kiệm, đả kích bọn hoạn quan, động chạm đến lợi ích của bè đảng hoạn quan gian nghịch, cho nên mới dẫn đến Cam Lộ chi biến (甘露之變) định tru diệt bọn hoạn quan bị thất bại. Sau đó bọn hoạn quan đoàn kết nhất trí, hoàng đế phải sai đại thần mượn binh lực của phiên trấn để kháng cự với hoạn quan, chính sự xung đột của phiên trấn và hoạn quan càng khiến nhà Đường mau suy tàn. Ngày 4 tháng 1 năm 840, tức năm Khai Thành thứ 5, Văn Tông bị giết ở Thái Hòa điện thuộc Đại Minh cung, thọ 33 tuổi, thụy là Nguyên Thánh Chiêu Hiến Hiếu hoàng đế (元聖昭獻孝皇帝).[24]:106 Sau đó, Vũ Tông kế vị, niên hiệu là Hội Xương. Vũ Tông lên ngôi là do tên trùm hoạn quan Cừu Sĩ Lương (仇士良) ủng hộ, trong triều các bè phái mọc lên như nấm, Cừu Sĩ Lương cũng tạm nhường cho Vũ Tông tự xử lí triều chính. Vũ Tông trọng dụng đại thần Lý Đức Dụ (李德裕), chủ trương diệt bọn hoạn quan, khôi phục chính trị triều Đường, sử gọi đó là Hội Xương trung hưng (會昌中興). Nhưng đồng thời cũng xảy ra chuyện Vũ Tông diệt Phật, đàn áp Phật giáo trên quy mô toàn quốc và cực kì khắc nghiệt. Sự đàn áp Phật giáo lần này là lần thứ 3 trong Tam Vũ nhất Tông diệt Phật (三武一宗滅佛). Vũ Tông lại sùng bái Đạo giáo, cho luyện tiên đơn để uống mong trường sinh bất lão, nào ngờ lại ngộ độc đan dược mà băng hà, thọ 36 tuổi, thụy hiệu là Chí Đạo Chiêu Túc Hiếu hoàng đế (至道昭肅孝皇帝).
Chỉ trong vòng 4 triều vua (Mục Tông, Kính Tông, Văn Tông và Vũ Tông), bọn gian thần tranh giành, sử gọi là Ngưu Lý đảng tranh, cực kì khốc liệt, làm hao tổn nghiêm trọng đến quốc lực nhà Đường. Ngưu Lý đảng tranh bắt đầu từ năm Nguyên Hòa thứ 3 (808), từ việc mở khoa thi sĩ tử, những cử nhân như Ngưu Tăng Nhụ (牛僧孺), Lý Tông Mẫn (李宗閔), Hoàng Phủ Thực (皇甫湜) trình biểu phê bình việc triều chính và mong cải cách. Quan khảo thấy những người này tài năng rất hợp bèn cấp báo lên cho vua Hiến Tông. Lúc này quan tể tướng là Lý Cát Phủ (李吉甫, cha của Lý Đức Dụ) bất mãn, nhân đó bọn họ đả kích kịch liệt với Lý Cát Phủ, giáng chức ông làm tiết độ sứ ở Hoài Nam.
Trong triều lúc đó đại thần phân ra 2 phái.[8]:269 Đảng của Lý (Cát Phủ, sau là Đức Dụ) chủ trương đối đầu với phiên trấn để giành lại quyền hành cho triều đình trung ương, còn đảng của Ngưu (Tăng Nhụ) chủ trương hòa bình thỏa hiệp với phiên trấn. Ngưu đảng không hài lòng với chế độ khoa cử hiện thời, Lý đảng thì lại ủng hộ. Lý đảng kiến nghị giản lược hệ thống cơ cấu quốc gia, Ngưu đảng phản đối.[14] Sau khi Mục Tông lên ngôi, cho khảo thi tiến sĩ. Chủ trì việc thi cử đó là Tiền Huy (錢徽) - người của Ngưu đảng, bị người vu cáo là có dính đến tệ hại riêng tư trong kì thi. Đương khi đó Hàn Lâm học sĩ Lý Đức Dụ làm chứng, Tiền Huy bị giáng chức, Lý Tông Mẫn cũng bị liên lụy theo, bị biếm trích ra vùng ngoài, thành thử ra Lý Tông Mẫn và Ngưu Tăng Nhụ đều kết oán với Lý Đức Dụ.
Lý đảng và Ngưu đảng cùng những quan viên xuất thân khoa cử liên kết thành bè đảng, còn Lý Đức Dụ thì kết bè đảng với những quan liêu xuất thân quý tộc, 2 phái tranh ngầm nhau rất dữ dội. Văn Tông lên ngôi, Lý Tông Mẫn nhờ kết thế với bọn hoạn quan mà leo lên làm tể tướng, Ngưu Tăng Nhụ cũng cùng lên chức cao, cực lực đả kích mạnh mẽ phái của Lý đảng, khiến Lý Đức Dụ bị đày đi làm tiết độ sứ ở Tây Xuyên. Đến khi Vũ Tông tức vị, Ngưu đảng thất thế, Lý Đức Dụ lên làm tể tướng, ra sức bài xích Ngưu đảng. Đường Tuyên Tông về sau kế vị, lại bài xích các cựu thần đời Vũ Tông, Lý Đức Dụ bị đày ra Hải Nam. Như vậy, sự đảng tranh diễn ra suốt gần 40 năm đã được Tuyên Tông chấm dứt.[24]:107

Đại Trung tạm trị

Bài chi tiết: Đường Tuyên Tông

Các cuộc khởi nghĩa nông dân cuối kỳ nhà Đường
Năm 846, sau khi Vũ Tông băng hà, Lý Thầm (李忱) là chú của Vũ Tông, được hoạn quan Mã Nguyên Chí (马元贽) ủng hộ, lên ngôi hoàng đế, tức Đường Tuyên Tông, cải niên hiệu là Đại Trung. Mặc dù Tuyên Tông lên ngôi là để thế lực hoạn quan lợi dụng, nhưng hoàng đế đã sớm cố gắng tìm cách để nắm thực quyền, nhà Đường xuất hiện một thời kỳ phục hưng ngắn ngủi, người đời tôn gọi Tuyên Tông là "Tiểu Thái Tông", ý sánh ông với vua Đường Thái Tông trước đó. Tuyên Tông ra sức tăng cường hoàng quyền, hạn chế thế lực hoạn quan trong chính quyền, ra tay dẹp Ngưu Lý đảng tranh, trong thời đại nhà Đường đang hỗn loạn bỗng xuất hiện một thời trung hưng với cục diện tốt đẹp của Đại Trung chi trị. Tuy nhiên Tuyên Tông cũng là ông vua rất đa nghi, bọn quan lại thì vờ tỏ vẻ cho thiên hạ thái bình. Vua cũng sùng bái Đạo giáo, mong được có tiên dược để trường sinh bất lão. Năm 859, tức năm Đại Trung thứ 3, Tuyên Tông vì dùng thuốc đan quá độ, bị lâm bệnh nặng mà băng hà, an táng ở Trinh lăng. Thực tế sự thịnh trị của Đại Trung cũng không ổn định, sau khi Tuyên Tông băng hà, cục diện loạn lạc giặc cướp lại nổi lên ào ạt.

Nhà Đường tàn vong

Sau thời Tuyên Tông, kế đến là Đường Ý Tông Lý Thôi (李漼) và Đường Hi Tông Lý Huyên (李儇) đều là những ông vua không có năng lực, thế nhà Đường ngày càng xuống dốc. Ý Tông là ông vua kiêu mạn xa xỉ lại dâm dật, tin dùng hoạn quan. Khi Ý Tông kế vị năm 859, sự giàu nghèo trong xã hội ngày càng có khoảng cách lớn, mâu thuẫn giai cấp càng tăng, khắp nơi dân chúng nổi dậy, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Cừu Phủ (裘甫) nổi dậy ở Chiết Đông (浙东), số dân tham gia vào bộ chúng lên tới nghìn người. Ở mặt nam có nước Nam Chiếu nổi dậy chiến tranh với nhà Đường, đem quân đánh chiếm Giao Chỉ (nay là miền bắc Việt Nam).
Trong khi đó, quân phòng bị Nam Chiếu ở tại Quế Lâm cũng nổi dậy làm phản do cấp trên trì hoãn không cho họ về quê, cướp lương và đưa thủ lĩnh Bàng Huân lên đứng đầu cuộc nổi loạn. Bàng Huân dẫn nghĩa quân bắc tiến đánh đến Từ Châu, bắt lấy viên Quan sát sứ ở Từ Châu và Tứ ChâuThôi Ngạn Tằng (崔彦曾), rất nhiều nông dân nổi dậy hưởng ứng, nhất thời thanh thế chấn động, chiếm cứ Hoài Khẩu, uy hiếp thành Trường An. Nhưng Bàng Huân lại muốn được triều đình chiêu an, ý muốn được phong làm Tiết độ sứ, thường cứ bỏ lỡ cơ hội tốt, đến năm 869 bị đại tướng nhà Đường là Khang Thừa Huấn (康承训) đánh giết. Từ những năm đầu dân chúng khởi nghĩa, Ý Tông vẫn cứ không lo, chìm đắm trong thanh sắc vui thú, chỉ thích ai có công làm cho nhà vua vui vẻ, tin bọn gian nịnh, triều chính bại hoại đen tối.[8]:270
Ngày 19 tháng 7 năm 873, tức năm Hàm Thông thứ 14, Ý Tông băng hà, Hi Tông lên kế vị. Hi Tông suốt ngày chỉ thích đá gà với đánh cầu, ít khi lo việc quốc sự. Năm 874, Hi tôn thấy nổi loạn ở khắp nơi, cũng thức tỉnh mà xuống chiếu tự kể tội mình: tội gây binh đao, bắt lính khắp nơi, đánh thuế xe, thuế ngựa, bắt dân làm xâu, phải bỏ hoang ruộng đất... Nhưng đã trễ, loạn lạc đã nổi lên khắp nơi.
Bấy giờ giá muối ngày càng tăng, phiên trấn thì binh lửa chẳng dứt, bách tính liền nhiều năm bị bọn cường hào địa chủ kiêm tịnh mất ruộng đất, đói kém nghiêm trọng, mà phú thuế đánh ngày càng nặng. Năm 860, loạn ở Chiết Giang, đông tới 3 vạn vì nạn đói. Triều đình phái ba lộ quân, toàn là lính Hồi Hột, Thổ Phồn (không dùng lính Hán) đi tiễu trừ, bao vây thành; nông dân trong thành, già trẻ trai gái đều chống cự kịch liệt; giữ thành được 3 tháng, tới khi hết lương thực mới chịu thua. Năm 862 lại xảy ra loạn ở Từ Châu; năm 868, một vụ nữa ở Quế Châu, triều đình phải cầu cứu với tộc Sa Đà; nghĩa quân mắng triều đình là “quốc tặc”, đem rợ vào giết dân.
Ghê gớm nhất cuộc đại loạn Hoàng Sào.[25]:112 Năm 875, Vương Tiên Chi (王仙芝), Thượng Nhượng (尚让) và Hoàng Sào trước sau nổi dậy ở đất Dự (nay thuộc tỉnh Hà Nam) và đất Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), hai quân đội khởi nghĩa dồn hợp lại đánh phá các thành trì ở Trung Nguyên. Quân của Hoàng Sào lại tiến xuống phía nam, đốt phá thành trì và cướp đoạt cả vùng đất Quảng Châu, lại xông vào hàng quán giết rất nhiều thương nhân vô tội người Tây Vực (tài liệu của Ả Rập ghi có tới 12 vạn ngoại nhân chết trong vụ đó).
Do không thích hợp với khí hậu ở Lĩnh Nam, Hoàng Sào lại bắc tiến đánh lên phía bắc rất thuận lợi. Vượt qua Trường Giang, Hoài Hà, năm 880 tháng 11, tức năm Quảng Minh thứ nhất, Hoàng Sào đánh chiếm thành Trường An, Hi Tông bỏ chạy đến Tứ Xuyên. Năm đó Hoàng Sào vào Hàm Nguyên điện, tự xưng làm hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Tề, lấy niên hiệu Kim Thống. Sau đó, quân Đường có đem quân đánh thành Trường An, nhưng lòng dân không phục, bị Hoàng Sào đánh đuổi. Năm 883, Chu Ôn (朱温, hay Chu Toàn Trung 朱全忠) cùng với một người tộc Sa ĐàLý Khắc Dụng dẫn quân Đường tái đánh thành Trường An. Sang năm, Hoàng Sào bị thủ hạ sát hại.
Loạn Hoàng Sào chiếm hơn nửa giang sơn của nhà Đường, giết hại số người ước đến 830 vạn người, dẫn đến quốc lực của nhà Đường càng suy thoái. Sau đó lại đến những cuộc đấu tranh của cái họa hoạn quan và phiên trấn, Hi Tông lại bị hoạn quan kìm giữ ở Phượng Tường, mà quân đội phiên trấn vào cướp phá ở thành Trường An. Ngày 6 tháng 3 năm Văn Đức thứ 1 (888), Hi Tông băng hà, người em là Lý Diệp (李晔) lên ngôi, tức Đường Chiêu Tông. Chiêu Tông ở ngôi, mong muốn khôi phục nước nhà, nhưng thế lực phiên trấn ngày càng lớn mạnh, những cải cách của nhà vua đề xướng mau chóng thất bại tiêu tan.[8]:272
Năm Thiên Phục thứ 3 (903), Chu Toàn Trung áp giải Chiêu Tông hồi kinh, sau đó Chu ra tay diệt hết lũ hoạn quan. Năm Thiên Hựu thứ 1 (904), Chu Toàn Trung lại đề nghị dời đô đến Lạc Dương, phá hủy hết cung điện ở Trường An. Ngày 11 tháng 8 năm đó, Chiêu Tông bị sát hại. Lý Chúc (李柷) lên ngôi, tức Đường Ai Đế.
Lúc này nhà Đường bề ngoài còn tồn tại mà thực ra đã tiêu vong, Ai Đế cũng chỉ là bù nhìn. Năm 905, Chu Toàn Trung biếm truất các quan triều, toàn bộ bị giết hết ở tại trạm Bạch Mã, ném xác xuống Hoàng Hà, sử gọi là Bạch Mã chi họa. Năm 907, Chu Toàn Trung giết Ai Đế, tự lập lên ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Lương, tức nhà Hậu Lương, cải niên hiệu Khai Bình, đóng đô ở Khai Phong. Nhà Đường hoàn toàn bị diệt vong.[25]:115
Năm 923, Lý Tồn Úc diệt nhà Hậu Lương, tái lập quốc hiệu Đường, sử gọi là nhà Hậu Đường. Tuy nhiên Lý Tồn Úc vốn là người Sa Đà, không có liên hệ huyết thống với hoàng tộc nhà Đường, họ Lý chỉ là quốc tính được ban cho trước đó. Quốc hiệu Đường chỉ là tên gọi để vỗ về những người Hán vẫn còn nhớ về nhà Đường. Do vậy nhà Hậu Đường không được coi là sự tiếp nối nhà Đường.

Cương vực

Cương vực của nhà Đường qua những năm từ ổn định cho đến khi biến động.
Bản đồ cương vực nhà Đường. Bản đồ thể hiện lãnh thổ Đại Đường qua những biến cố thời gian,bắt đầu là năm Trinh Quán thứ nhất (627), Trinh Quán năm thứ 4 (640), Trinh Quán năm thứ 21 (647), Hiển Khánh năm thứ 5 (660), Long Sóc năm thứ 2 (662), Lân Đức năm thứ 2 (665), Tổng Chương nguyên niên (668), Hàm Hanh năm thứ 3 (672), Nghi Phượng năm thứ 4 (679), Khai Nguyên năm thứ 3 (715), Thiên Bảo năm thứ 10 (751), Nguyên Hòa năm thứ 15 (820), Đại Trung năm thứ 2 (848), Đại Trung năm thứ 3 (849), Càn Phù năm thứ 2 (875).
Khi Đường Cao Tổ mới kiến lập nhà Đường, Đường triều phải cầu hòa với Đột Quyết và có chiến lược phòng thủ, về sau mới bắt đầu phản kích. Năm Trinh Quán thứ 4 (630) đời Thái Tông, nhà Đường đem quân đánh tan Đông Đột Quyết. Mạc Nam (phía nam sa mạc Gobi) trở thành khu vực thuộc phạm vi thế lực của nhà Đường.[8]:273 Năm Trinh Quán thứ 20 (646), nhà Đường lại đem quân tiêu diệt hãn quốc Tiết Diên Đà, từ đó cả khu vực Mạc Nam và Mạc Bắc (tức phía bắc sa mạc Gobi) rộng lớn đều nằm dưới thế lực của nhà Đường. Ở Mạc Bắc, nhà Đường thành lập An Bắc đô hộ phủ, tại Mạc Nam thiết lập Thiền Vu đô hộ phủ, ở phía nam lập ra La Phục châu (nay là Hà Tĩnh, Việt Nam), ở phía bắc thành lập Huyền Khuyết châu (sau đổi là Kim Ngô châu, nay thuộc khu vực sông Angara tại Nga), tây lập An Tức châu (nay thuộc Bukhara, Uzbekistan), phía đông lập Ca Vật châu (nay thuộc Thông Hóa, tỉnh Cát Lâm). Đến năm Vĩnh Thuần thứ nhất (682), đời Đường Cao Tông, Đột Quyết phục quốc, sau bị Hậu Đột Quyết diệt, khiến biên cương phía bắc lục đục nghiêm trọng. Năm Thiên Bảo thứ 3 (744), thời Đường Huyền Tông, Hồi Hột lập quốc và chiếm cứ Mạc Nam, Mạc Bắc. Sau loạn An Sử, việc khởi loạn ở biên thùy lại diễn ra, nhà Đường và Hồi Hột lại xảy ra chiến tranh quy mô lớn.[19]:69
Tại tây bắc, năm Trinh Quán thứ 4 thời Thái Tông đã lập Tây Y châu tại bảy thành Y Ngô, mở đầu cho việc chiếm lĩnh Tây Vực. Năm Trinh Quán thứ 19 (645) Nhà Đường dời An Tây đô hộ phủ đến Quy Từ.[chú 3] Năm Hiến Khánh thứ 4 (659) đời Cao Tông, quân Đường diệt Tây Đột Quyết, thế lực mở rộng đến khu vực Hàm Hải (biển Aran) và Lý Hải (biển Caspi). Nhưng việc nhà Đường cai quản vùng phía tây Thông Lĩnh (tức dãy núi Pamir) vẫn bất ổn, năm Càn Phong thứ 2 (667), do thế lực của nước Đại Thực (tức Omeyyad) phát triển, cương vực nhà Đường giới hạn về phía đông Thông Lĩnh.[8]:274 Sau loạn An Sử và 36 năm nội loạn, nhà Đường bị mất vùng An Tây đô hộ phủ.[19]:74
Tại đông bắc, năm Hiển Khánh thứ 5 (660), quân Đường hợp với quân Tân La diệt Bách Tế. Tháng 8 năm Tổng Chương thứ nhất (668) lại cùng Tân La diệt Cao Câu Ly, thành lập An Đông đô hộ phủBình Nhưỡng. Nhưng do dân địa phương phản đối kịch liệt, và Tân La bắc tiến, nên năm Hàm Hanh thứ nhất (670) An Đông đô hộ phủ dời đến Liêu Đông. Năm Khai Nguyên thứ nhất (713), An Đông đô hộ phủ di dời đến vùng Liêu Tây. Những năm Thiên Bảo (742-756), bỏ An Đông đô hộ phủ, sau loạn An Sử, nhà Đường mất đi quyền trực tiếp khống chế vùng bán đảo Liêu Đông. Từ năm 698 thời Vũ Tắc Thiên, có Đại Tộ Vinh lập Bột Hải quốc, còn gọi là nước Đại Chấn, hiệu là "Hải Đông thịnh quốc". Nhưng nước đó quan hệ hữu hảo với Đường, phần lớn thời gian tồn tại đều nộp cống xưng thần.[26]:79
Trên cao nguyên Thanh Tạng, Thổ Phồn ngày càng hưng khởi, dến thế kỷ thứ 6 thì cùng với Thổ Dục Hồn,[chú 4]Tô Bì (Sumpa) trở thành tam đại thế lực trên vùng cao nguyên. Đầu thế kỷ 7, tán phổ Tùng Tán Cán Bố thống nhất cao nguyên, đánh Tô Bì ở phía tây của Tây Tạng, Dương Đồng ở địa khu A Lý và đất Ni Bà La (nay là Nepal). Năm Long Sóc thứ 3 (663), Thổ Phồn diệt Thổ Dục Hồn, chiếm hết đất đai. Sau chiếm bốn trấn phủ An Tây của nhà Đường, trở thành nước đối địch lớn nhất của Đường triều.[8]:277 Sau loạn An Sử, phần lớn phiên binh ở Hà Lũng tham gia bình loạn (chủ yếu là binh dưới quyền Lũng Hữu tiết độ sứHà Tây tiết độ sứ) nên việc phòng thủ trở nên trống trải, do đó quân Thổ Phồn nhân cơ hội này để tiến lên. Thổ Phồn cho quân đánh Lũng Tây, vùng Hoàng Hà ở Tây Cam, Lương của nhà Đường song không không được, tuy vậy Thổ Phồn đã chiếm cứ được phía tây Lũng Sơn. Năm Đại Trung thứ 2 (848) đời Tuyên Tông, một người ở Sa Châu (nay thuộc Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc) là Trương Nghị Triều phát động khởi nghĩa, quần chúng tam gia rất đông, chiếm cứ lấy Sa Châu. Sau đó Trương Nghị Triều đem quân đánh chiếm tới 10 châu: Qua, Y, Tây, Cam, Túc, Lan, Thiện, Hà, Mân, Khuếch (nay thuộc các tỉnh Cam Túc, Thanh HảiTân Cương). Năm Đại Trung thứ 5 (851), nhóm nghĩa quân của Trương quy thuận triều đình, Tuyên Tông tha cho nghĩa binh về, phong Trương làm Tiết độ sứ, các vùng Hà Lũng lại một lần nữa do triều đình khống chế. Năm 890, Hà Tây và Lũng Hữu bị tộc người Đảng Hạng chiếm đóng. Cuối cùng, nhà Đường hoàn toàn mất quyền khống chế toàn bộ các khu vực ở phía tây Đôn Hoàng.[19]:75
Trên cao nguyên Vân-Quý ở tây nam, năm Thiên Bảo thứ 7 (748), Nam Chiếu kiến quốc, khi hòa khi chiến với Đường, cũng góp một phần vào việc làm suy yếu quốc lực của Đường. Đồng thời, lúc đó dân bản địa ở Giao Châu cũng bắt đầu nổi dậy, từ khi Hán Vũ Đế diệt nước Nam Việt đến nay đất đó nội thuộc đã lâu, thời ấy gọi là An Nam (tức phía bắc Việt Nam ngày nay), từ thời Đường mạt đã bắt đầu trở thành phiên trấn cát cứ mà đến đời nhà Tống đã trở thành 1 nước độc lập, hoàn toàn thoát li khỏi các triều đại ở Trung Nguyên.[27]:101

Phân chia hành chính

Từ thời nhà Tùy đã thực hiện chế độ châu huyện, sau đổi sang chế độ quận huyện. Đường lại đổi quận là châu, khôi phục 2 cấp châu huyện. Đầu năm Trinh Quán đời Thái Tông, thiên hạ đại định, lại thay châu huyện lập ra hành tỉnh. Trong các châu nhà Đường lại thiết lập ra "phủ". Trước năm Khai Nguyên thứ nhất đã thiết lập Kinh Triệu phủHà Nam phủ. Khi thời Khai Nguyên xã hội ngày càng thăng tiến, hoàng đế liền đổi địa phương các vùng ra phủ. Đồng thời, nhà Đường căn cứ theo địa hình sông núi toàn quốc mà phân ra 10 đạo: Quan Nội, Hà Nam, Hà Đông, Hà Bắc, Sơn Nam, Lũng Hữu, Hoài Nam, Giang Nam, Kiếm NamLĩnh Nam, gọi là Trinh Quán thập đạo. Đến năm Thần Long thứ 2, lại đặt ra thập đạo Tuần sát sứ, thập đạo tồn phủ sứ, và thập đạo án sát sứ. Lại đặt vài quan giám sát ở các đô thị do triều đình trung ương phái khiển, không trú lại nhất định, trị sở không cố định. Năm Khai Nguyên thứ 21, tại vùng Quan Nội lại phân ra Kinh kì đạo, vùng Hà Nam phân ra Đô kì đạo, phân Sơn Nam ra làm hai đạo đông và tây, lại phân Giang Nam ra làm hai đạo đông tây và Kiềm Trung, cộng lại là 15 đạo, gọi là Khai Nguyên thập ngũ đạo. Mỗi đạo thiết lập cố định một viên quan giám sát là quan sát sứ, lại theo nhà Hán đặt chức thứ sử, mỗi địa phương đều thiết lập trị sở cố định (thủ phủ), chính thức thành lập 15 giám sát khu, dần dần đã có chuyển biến trong khu vực hành chính.[28]:141Tại biên cương, kình kỳ và các khu vực trọng yếu, nhà đường thiết lập đô đốc phủ do đô đốc võ quan kiêm quản cả dân chính lẫn quân sự các châu quận.[14] Dưới đây là danh sách 15 đạo:
Phân cấp hành chính nhà Đường năm 742 cùng các chính quyền ngoại biên
  1. Kinh kỳ đạo, trị sở là thủ đô Tây Kinh Trường An: Kinh Bắc phủ (nay thuộc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây);
  2. Quan Nội đạo, trị sở ở Trường An: Kinh Triệu phủ (nay thuộc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây.);
  3. Đô kì đạo, trị sở là Đông Đô Lạc Dương: Hà Nam phủ (nay thuộc thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam);
  4. Hà Nam đạo, trị sở đặt ở Biện Châu (nay thuộc thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam);
  5. Hà Đông đạo, trị sở đặt ở Bồ Châu (nay thuộc phía tây thành phố Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây);
  6. Hà Bắc đạo, trị sở ở Ngụy Châu (nay thuộc đông bắc huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc);
  7. Sơn Đông tây đạo, trị sở ở Lương Châu (nay thuộc thành phố Hán Trung, tỉnh Thiểm Tây);
  8. Sơn Nam đông đạo, trị sở ở Tương Châu (nay thuộc thành phố Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc);
  9. Hoài Nam đạo, trị sở ở Dương Châu (nay thuộc thành phố Dương Châu, tỉnh Giang Tô);
  10. Giang Nam đông đạo, trị sở ở Tô Châu (nay thuộc thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô);
  11. Giang Nam tây đạo, trị sở ở Hồng Châu (nay thuộc thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây);
  12. Kiềm Trung đạo, trị sở ở Kiềm Châu (nay thuộc huyện Bành Thủy, thành phố Trùng Khánh);
  13. Lũng Hữu đạo, trị sở ở Thiện Châu (nay thuộc huyện Lạc Đô, tỉnh Thanh Hải);
  14. Kiếm Nam đạo, trị sở ở Ích Châu (nay thuộc Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên);
  15. Lĩnh Nam đạo, trị sở ở Quảng Châu (nay thuộc thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông).
Trấn thủ ở tại các đạo là võ tướng gọi là đô đốc, về sau đô đốc nắm quyền ở đạo xưng là tiết độ sứ.[18]:442 Sau khi bình định loạn An Sử, nhà Đường liền lập ra nhiều chức tiết độ sứ để quản hạt các địa khu trong nước, gọi là phiên trấn. Về sau khiến cho Tiết độ sứ chuyên quyền ở các địa phương, một số còn gây loạn, những tiết độ sứ khác thì chiêu binh mãi mã, thành một tập đoàn quân sự riêng gần như tách biệt khỏi triều đình. Cuối thời Đường, từ việc hình thành 3 cấp hành chính: các đạo (phương trấn) và châu (phủ), huyện. Cuối thời Đường đã có khoảng 4-50 trấn, trừ Kinh Triệu phủ và một vài châu nhỏ ở ngoài phủ Hà Nam, các nơi khác trong toàn quốc đều xảy ra cục diện phiên trấn cát cứ. Thời Đường Đức Tông đã từng có phiên trấn ở Hà Sóc làm loạn từng uy hiếp kinh đô Trường An, Đức Tông phải dời đến Hán Trung, suốt 4 năm mới bình được loạn, nhưng cũng từ đó về sau họa phiên trấn ngày càng lan rộng. Thời Đường Hiến Tông đã từng bình dẹp loạn Ngô Nguyên TếHoài Tây, các thế lực địa phương quy thuận triều đình trung ương, nhưng họa vẫn chưa diệt trừ tận gốc. Sau khi Hiến Tông mất thì cục diện cát cứ loạn lạc lại tiếp tục diễn ra. Và cuối cùng nhà Đường bị diệt vong trong tay một tiết độ sứ là Chu Ôn. Sau nhà Đường, thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc thực tế là kế tục cái họa của phiên trấn gây ra, chỉ một số phiên trấn nổi lên hoàn toàn độc lập.[28]:139 Nhà Đường chủ yếu có các bậc quan ở địa phương như sau:

Thể chế chính trị

Đây là danh sách về thể chế chính trị thời nhà Đường, khái quát về quan chức nhà nước thời kỳ đó đã hoàn thiện hơn, có Lục bộTam tỉnh, cấu tạo đã có sự đa dạng chặt chẽ hơn trong bộ máy chính quyền trung ương.
Quan chế triều đình trung ương nhà Đường
Tam công tam sư 【Tam sư】Thái sư Thái phó Thái bảo
【Tam công】Thái úy Tư đồ Tư không
Tể tướng Đồng trung thư môn hạ tam phẩm, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Trung thư lệnh Môn hạ thị trung, Thượng thư lệnh, Thượng thư bộc xạ.
Tam tỉnh / Lục tỉnh 【Tam tỉnh】 Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Thượng thư tỉnh.
【Lục tỉnh】 Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Thượng thư tỉnh, Điện trung tỉnh, Bí thư tỉnh, Nội thị tỉnh.
Lục bộ
Lại bộ Sứ bộ ty, Tư phong ty, Tư huân ty, Khảo công ty.
Hộ bộ Hộ bộ ty, Độ chi ty, Kim bộ ty, Thương bộ ty.
Lễ bộ Lễ bộ ty, Từ bộ ty, Thiện bộ ty, Chủ khách ty.
Binh bộ Binh bộ ty, Chức phương ty, Giá bộ ty, Khố bộ ty.
Hình bộ Hình bộ ty, Đô quan ty, Bỉ bộ ty, Tư môn ty.
Công bộ Công bộ ty, Đồn điền ty, Ngu bộ ty, Thủy bộ ty.
Tổ chức cơ cấu
Ngự sử đài Đài viện, Điện viện, Sát viện.
Cửu thị Thái Thường thị, Quang Lộc thị, Vệ Úy thị, Tông Chính thị, Thái Bộc thị, Đại Lí thị, Hồng Lộ thị, Tư Nông thị, Thái Phủ thị.
Ngũ giám Quốc Tử Giám, Thiếu Phủ Giám, Tương Tác Giám, Quân Khí Giám, Đô Thủy Giám.
Vũ lực triều đình trung ương (Cấm quân)
Nam Nha thập lục vệ Tả hữu vệ, Tả hữu Kiêu vệ, Tả hữu Vũ vệ, Tả hữu Uy vệ, Tả hữu Lĩnh quân vệ, Tả hữu Kim ngô vệ, Tả hữu Giám môn vệ, Tả hữu Thiên ngưu vệ.
Bắc Nha thập quân Tả hữu Vũ lâm quân, Tả hữu Long vũ quân, Tả hữu Thần vũ quân, Tả hữu Thần sách quân, Tả hữu Thần uy quân.

Ngoại giao

Khi nhà Đường sử dụng vũ thành lập triều đại, đã từng có quan hệ hữu hảo với các nước lân bang. Sau khi Đường Cao Tông kế vị, việc quân sự sa sút dần, mối quan hệ với các nước láng giềng bất ổn định: khi chiến khi hòa. Mới đầu nhà Đường đã từng thành lập 6 đô hộ phủ: An Tây năm 640, An Bắc năm 647, Thiền Vu năm 650, An Đông năm 668, An Nam năm 679Bắc Đình năm 701.[28]:135

Mô hình mũ áo của vua và vương hậu nước Tân La Kim vương quan

Khu vực đông bắc

Đối với vùng đông bắc quốc gia, lúc đó ở khu vực này có khá nhiều bộ lạc người Mạt Hạt cư trú. Thời Tùy Đường đã phân chia ra nhiều bộ tộc, trong đó Túc Mạt, Hắc Thủy, Bạch Sơn, Bá Đốt, Phất Niết, Hiệu Thất, và An Xa Cốt[chú 5], tên khác An Cư Cốt (安居骨).}} là 7 thế lực bộ lạc lớn mạnh. Năm 698, tại vùng đông bắc trước vốn là lãnh thổ của Cao Câu Ly, sau khi bị Tân La và nhà Đường phối hợp tiêu diệt, một viên tướng người Mạt Hạt của Cao Câu Ly là Đại Tộ Vinh lập nên Chấn Quốc. Năm 713, Đại Tộ Vinh thần phục nhà Đường, được Đường Huyền Tông sách phong là Bột Hải quận vương (渤海郡王), thiết lập Hốt Hãn châu (忽汗州). Tuy nhiên, Bột Hải Quốc cũng thường quấy nhiễu vùng duyên hải và biên cương phía đông bắc của nhà Đường, như năm 732, Bột Hải Vũ Vương Đại Vũ Nghệ (大武艺) phái tướng Trương Văn Hưu (張文休) đem thủy quân vượt vịnh Bột Hải tấn công vào Đăng Châu của Đường (nay thuộc Bồng Lai, Sơn Đông), sát hại thứ sử Đăng Châu là Vi Tuấn (韦俊). Nhưng sau đó 2 bên đã có bàn thuyết qua lại và nghị hòa, vua Bột Hải đề nghị liên minh, và thường cử con em quý tộc sang Trường An học tập. Năm 726, triều đình nhà Đường lại lập ra Hắc Thủy đô đốc phủ ở khu vực của bộ tộc Hắc Thủy Mạt Hạt. Nhà Đường và nước Tân La cũng có mối quan hệ mật thiết. Tân La đã từng phái nhiều lưu học sinh sang nhà Đường học tập, trong đó có một người ưu tú sau được phong làm Tiến sĩ, đó là Thôi Trí Viễn (Choe Chiwon, 崔致遠). Văn hóa Trung Quốc về sau cũng dần truyền bá vào hai nước Bột Hải và Tân La, đồng thời việc giao thương biên mậu rất thường xuyên.[26]:80 Từ năm 660 - 668, liên quân nhà Đường và Tân La trước sau đã diệt Bách TếCao Câu Ly. Sau chiến tranh Tân La-Đường, Tân La đã chiếm lấy toàn bộ vùng bán đảo Triều Tiên và lấy sông Đại Đồng làm ranh giới ngăn cách với nhà Đường. Năm 723, một vị sư người Tân La là Tuệ Siêu (慧超, Hyecho) [chú 6] đã cất công đi đến tận Quảng Châu rồi vượt biển sang các nước tại Ấn Độ để cầu kinh, lại theo lối tắt lên tận Ba Tư, Đại Thực và cả Đột Quyết, rồi trở về kinh thành Trường An, soạn viết bộ "Vãng ngũ Thiên Trúc quốc truyện" (往五天竺国传, truyện kể việc đi đến 5 nước ở Thiên Trúc). Một lưu học sinh người Tân La ở tại nhà Đường là Tiết Thông (薛聰, Seol Chong) cũng giúp nhà Đường chỉnh lí lại độc biểu kí pháp,[chú 7] tạo thuận tiện cho việc viết các hư từ hư tự tiếng Tân La, xúc tiến văn hóa Triều Tiên phát triển. Ở những vùng thành thị duyên hải phía đông nhà Đường có khá nhiều người Tân La sống tụ lại thành Tân La phường, và còn có Tân La quán tiếp đãi người Tân La, người Tân La nhập nội ngày càng đông đúc.

Các con đường mà sứ giả Nhật Bản sang Đường để kết nối sự giao thương hàng hải
Thời Vũ Tắc Thiên, Oa Quốc (倭國) đổi xưng là Nhật Bản, cùng nhà Đường có mối quan hệ mật thiết. Thiên hoàng Kōtoku (孝徳天皇, Hiếu Đức thiên hoàng) của Nhật Bản thi hành cải cách, noi theo pháp chế nhà Đường, dùng chế độ trung ương tập quyền. Nhật Bản lại học tập theo chế độ quân điền, lập tô dung điều chế, lại lập hộ tịch và sổ sách tài chính...nhất nhất noi theo nhà Đường. Nhật Bản lại dựa theo luật "Đường lệnh" của nhà Đường mà ban hành "Đại Bảo lệnh". Ngay cả về mặt kiến trúc, Nhật cũng mô phỏng theo thành Trường An mà xây dựng 2 kinh thành Heian-kyō (Bình An kinh) và Heijō-kyō (Bình Thành kinh). Nhật Bản trước sau đã từng 13 lần phái sứ thần đến nhà Đường, mỗi lần đoàn sứ thần sang có đến trăm người, trừ những sứ thần và thủy thủ ra, còn có các lưu học sinh, sư tăng, thầy thuốc, âm thanh sinh, thợ mò ngọc, thợ rèn, thợ đúc, thợ tinh xảo sang học hỏi. Đặc biệt trong số đó, nổi danh sau này có một du học sinh người Nhật là Kibi no Makibi (吉備真備, Cát Bị Chân Bị) cùng Abe no Nakamaro (阿倍仲麻呂, A Bội Trọng Ma Lữ), còn có nhà sư Kūkai (空海, Không Hải) và Ennin (圓仁, Viên Nhân). Cao tăng Không Hải đã để lại tác phẩm "Văn kính bí phủ luận" (文鏡秘府論) và một bộ tự điển Hán tự của Nhật Bản là "Triện đãi vạn tượng danh nghĩa" (篆隸萬象名義). Cao tăng Viên Nhân khi tìm kiếm kinh kệ Phật Pháp đã đi khắp cả quận huyện nhà Đường, mang về rất lớn và rất nhiều cho Nhật Bản những kinh tượng Phật học và khí cụ. Một vị cao tăng người Bách Tế là Vị Ma Chi (味摩之) đã đi đến nhà Đường học tập và sau truyền đến Nhật Bản những vũ điệu cầu múa của vùng Kinh Sở, gọi là "Ngô kỹ nhạc" (吳伎樂). Ngay cả văn tự Nhật Bản là Hiragana (Bình giả danh, kiểu chữ mềm) và Katakana (Phiến giả danh, kiểu chữ cứng) cũng là biến thể của loại thảo thư và giai thư bộ thủ của Trung Quốc. Hòa thượng Giám Chân cũng từng được mời đến Nhật Bản, về sau thành lập phái Luật tông, có nhiều đóng góp cho việc truyền bá kinh đạo và nghề thuốc cho Nhật Bản. Nhờ những cuộc giao lưu giữa Trung Quốc và Nhật Bản, đặc biệt là qua việc truyền bá kinh Phật, đã khiến Phật giáo trở nên hưng thịnh ở Nhật Bản.[26]:80
Bấy giờ, bộ tộc Khiết Đan vốn là giống người Đông Hồ, tự xưng là dòng dõi của thanh ngưu bạch mã (con vật tôn thờ của họ). Đầu thời Đường, thủ lĩnh đứng đầu của Khiết Đan là Đại Hạ Ma Hội (大賀摩會) thần phục nhà Đường. Năm 648, Khiết Đan dưới chế độ ki mi (ràng buộc) đã thành lập Tùng Mạc đô đốc phủ (松漠都督府), Đại Hạ Quật Ca (大贺窟哥) làm Đô đốc ở đó và kiêm chức Tá lĩnh tướng quân, ban quốc tính họ Lý. Thời Vũ Tắc Thiên, Đô đốc ở Doanh Châu - khu vực quản lí người Khiết Đan, là Triệu Văn Hối (趙文翽) nổi dậy làm phản suốt 10 năm. Đầu thời Khai Nguyên, Tùng Mạc đô đốc phủ phục tùng nhà Đường, quan hệ hòa hảo suốt hơn trăm năm, kinh tế văn hóa giao lưu càng phát triển, Khiết Đan trung thành cho đến khi nhà Đường bị diệt, sau đó, thủ lĩnh Khiết Đan là Da Luật A Bảo Cơ xưng hãn rồi xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Liêu.

Khu vực Tái Bắc và tây bắc


Đường tam thải,một loại lạc đà đi rất giỏi trên sa mạc, cõng trên lưng hàng hóa và những thương nhân Tây Vực
Đông Đột Quyết ở tây bắc thường tiến xuống phía nam đánh vào Trung Nguyên, mới đầu thời Đường đã có các thế lực phân hóa cát cứ ở phía bắc hợp với Đột Quyết đánh nhà Đường, gây ra mối họa lớn cho biên cương phía tây bắc nhà Đường. Các thời Cao Tổ và Thái Tông đều ra sức đề phòng, đến năm Trinh Quán thứ 3 (629) Thái Tông sai tướng Lý TĩnhLý Tích[chú 8] đem quân tiến đánh buộc Đông Đột Quyết phải hàng phục, tiểu khả hãn là Đột Lợi khả hãn đầu hàng, đại khả hãn Hiệt Lợi khả hãn bị bắt, Hãn quốc Đông Đột Quyết tiêu vong. Đa số dân chúng Đột Quyết đi đến Trường An, hoàng đế Thái Tông chiêu dụ cả thảy cho an trí ở đất Linh Vũ cho đến đất quận U Châu, thiết lập ki mi phủ để quản hạt, điều đó gây chấn động đến Tây Đột Quyết và các nước Tây Vực. Nhất tề các tiểu quốc ở phía tây này đến triều đình quy phục, cùng tôn Đường Thái TôngThiên khả hãn.[19]:70 Tây Đột Quyết sang phía tây đánh nước Ba Tư, phía bắc bình định nước Sơ Lặc, khống chế con đường tơ lụa. Cho đến năm 640 nhà Đường đánh thành Cao Xương (nay thuộc vùng đông nam Thổ Lỗ Phồn, Tân Cương), thiết lập An Tây đô hộ phủ. Năm 647 bình định Yên Kì,[chú 9] năm 648 bình định Quy Từ.[chú 3] An Tây đô hộ phủ dời đến Quy Từ, thống quản 4 trấn: Vu Điền, Cao Xương, Yên Kì và Quy Từ. Năm Hiển Khánh thứ 2 (657) thời Đường Cao Tông, tướng Tô Định Phương (蘇定方) và Tiêu Tự Nghiệp (蕭嗣業) đánh bại Tây Đột Quyết. Phạm vi thế lực của nhà Đường tại Tây Vực càng rộng. Nhà Đường lúc đó cùng với một đế quốc ở phía tây là nước Đại Thực (tức Abbas) bắt đầu quan hệ. Năm 751, nhà Đường và nước Đại Thực xảy ra "Trận chiến Talas", kết quả là nhà Đường thua trận. Từ sau loạn An Sử, thế nhà Đường đã suy nên không còn ảnh hưởng gì ở Trung Á nữa.
Sau khi Đông Đột Quyết bị diệt, người Hồi Hột lại thần phục Đột Quyết rồi sau đó bị Tiết Diên Đà khống chế. Năm 646, quân Đường hợp với Hồi Hột đánh tan Tiết Diên Đà. Năm 682, A Sử Na Cốt Hốt Lộc (阿史那骨咄祿) xưng hãn trên cao nguyên Mông Cổ, Đông Đột Quyết phục quốc (sử gọi là Hậu Đột Quyết), lại có người Khiết Đan mưu cùng Đột Quyết xâm phạm vùng biên giới phía bắc thời Vũ Tắc Thiên. Vũ Tắc Thiên bèn cho người sang cầu hòa thân thiết để cải thiện quan hệ với người Khiết Đan và Đột Quyết, nhưng lại chưa thể thành công. Đến năm Thiên Bảo thứ 3 (744) thời Đường Huyền Tông, nhà Đường và Hồi Hột đem quân diệt Hậu Đột Quyết, người Hồi Hột tự kiến quốc. Năm 790, nhà Đường ép tộc này phải đổi danh là Hồi Cốt. Hai bên quan hệ tốt đẹp, cho đến khi xảy ra loạn An Sử, người Hồi Hột theo quân Đường đàn áp loạn, nhân đó tràn vào Lạc Dương, rồi kéo xuống phía nam bắt giết người cướp của và thiêu rụi hàng quán. Cho đến năm Khai Thành thứ 5 (840) thời Đường Văn Tông, Hồi Hột do thống trị vô đạo nên bị người Kiết Tư (黠戛斯) diệt. Do dần dần dời về nam nên càng gần và phải nương tựa vào tộc Khiết Đan, có dời sang phía tây tới Cam Châu (Cam Châu Hồi Cốt), Tây Châu (Cao Xương Hồi Cốt), Quy Từ (Quy Từ Hồi Cốt), Thông Lĩnh rồi dung nhập vào Cát La Lộc (葛逻禄), tức Kara-Khanid.[27]:95
Thổ Dục Hồn[chú 4] do chi hệ tộc Mộ Dung người Tiên Ti, thời Ngũ Hồ thập lục quốc đã dời về phía tây đến vùng cực đông bắc của cao nguyên Thanh Tạng, năm 329 kiến quốc, sử dụng chế độ như của nhà Tấn, do nằm ở vùng địa chính trị đặc thù nên quan hệ với Đông Tấn thường thay đổi, sau trở thành một cường quốc thời Ngũ Hồ thập lục quốc và Nam Bắc triều. Năm Đại Nghiệp thứ năm (609) thời nhà Tùy, bị quân Tùy chiếm lĩnh, đến cuối thời Tùy lại phục quốc. Thổ Dục Hồn lại giáp với 2 thế lực nhà Đường và Thổ Phồn (cùng ở trên cao nguyên Thanh-Tạng), đến thời Mộ Dung Phục Doãn (慕容伏允) chủ trương có chính sách ngoại giao thân thiện với nhà Đường. Đường Thái Tông đã từng muốn triệu kiến nhưng không thành. Năm 634, nhà Đường bắt đầu đem quân Tây chinh, sang năm, tướng Lý Tĩnh đánh chiếm Thổ Cốc Hồn. Sau đó, Mộ Dung Thuận (慕容顺) lên kế vị đã chịu xưng thần với nhà Đường. Thời Mộ Dung Nặc Hạt Bát (慕容诺曷钵) nhà Đường gả Hoằng Hóa công chúa hòa thân. Năm 663, Thổ Phồn diệt Thổ Dục Hồn. Nặc Hạt Bát chạy đến đến Đường trú ở An Đông châu (thuộc Ninh Hạ ngày nay).

Khu vực tây nam


tranh "Bộ liễn đồ" của danh họa Diêm Lập Bản,nội dung nói về việc Đường Thái Tông tiếp kiến sứ giả Thổ Phồn
Ở phía tây nhà Đường có một đại quốc đó là Thổ Phồn. Vị tán phổ của Thổ Phồn là Tùng Tán Cán Bố đã đem quân chinh phạt cao nguyên Thanh Tạng và sau đó thu phục các bộ lạc, dùng vũ lực để trở nên hùng mạnh, nước này cũng đến nhà Đường để kết thân.[19] Năm Trinh Quán thứ 15 (641) đời Thái Tông, hoàng đế đã phái Thượng thư Lễ bộ Giang Hạ vương Lý Đạo Tông (李道宗) hộ tống Văn Thành công chúa (文成公主) sang Thổ Phồn kết hôn với Tùng Tán Cán Bố, Tùng Tán Cán Bố ra tận Bách Hải nghênh tiếp. Văn Thành công chúa trở thành hoàng hậu của Tùng Tán Cán Bố, bà cũng có công đưa văn hóa phong vật Trung Hoa truyền nhập vào Thổ Phồn, lại giúp vua quan Thổ Phồn may sửa các loại phục sức tơ lụa. Văn Thành công chúa lúc lấy chồng trang phục có những văn hoa rất tinh xảo, trên đó có cả hình tượng về kiến trúc của Trung Nguyên và pha trộng với hình tượng kiến trúc của Thổ Phồn. Thổ Phồn cũng tham khảo lịch pháp của nhà Đường để chế ra lịch pháp của mình. Từ đó về sau, 2 nước Đường - Thổ Phồn duy trì hơn 20 năm hòa bình, cho đến sau khi xảy ra xung đột kịch liệt.[19]:75 Vào năm Thần Long thứ 2 (706) đời Đường Trung Tông do việc quân sự với Thổ Phồn bất lợi, nhà Đường bèn mở hội thề tại Trường An ký kết mối quan hệ hữu hảo song phương với Thổ Phồn, sử gọi đó là Hội thề Thần Long (神龍會盟, Thần Long hội minh). Sau đó, Đường Trung Tông chấp thuận, cho Kim Thành công chúa (金城公主) gả cho vị Tán phổ Xích Đức Tổ Tán (赤德祖贊), nhưng thực tế ở Thổ Phồn vẫn mạt mã lệ binh,[chú 10] tích cực chuẩn bị chiến tranh. Năm 714, Thổ Phồn tiến đến yêu cầu nhà Đường hoạch định lại đường ranh giới nhưng bị nhà Đường cự tuyệt. Hai bên xảy ra giao chiến và cuối cùng Thổ Phồn chiến bại đành phải quay ra chủ động đàm phán cầu hòa.[18]:444
Năm Khai Nguyên thứ 20 (732) đời Đường Huyền Tông, 2 bên lại làm lễ thề, quyết định lấy Xích Lĩnh (赤嶺) làm biên giới. Năm 734 chính thức lập bia. Không lâu sau đó xảy ra loạn An Sử khiến nhà Đường xuống dốc và Thổ Phồn thừa cơ đem quân xâm phạm bành trướng thế lực. Đến thời Đường Đức Tông, Thổ Phồn yêu cầu nhà Đường xác lập lại mối quan hệ cậu cháu của hai nước (vua Thổ Phồn là con cái của công chúa nhà Đường), mà không dùng lễ của một nước xưng thần. Năm 783, 2 nước hội thề tại Thanh Thủy, đó là cuộc hội thề long trọng và đầy đủ cơ bản và hai nước lấy Hạ Lan sơn (賀蘭山) làm ranh giới. Năm 787, nhà Đường lại mở hội minh ở Bình Lương, Thổ Phồn dự định khi diễn lễ thề sẽ ra tay chém cướp, kết quả nhà Đường trừ những quan viên chủ minh ra có hơn 60 người bị bắt giam, quân Đường bị giết đến 500 người, bị bắt nhiều đến 1000 người, sử gọi là "Bình Lương kiếp minh" (平涼劫盟).[21]:146 Năm Trường Khánh thứ 1 thời Đường Mục Tông, nội bộ Thổ Phồn phân liệt suy yếu, bèn trở lại thỉnh cầu hội minh với Đường. Sau đó hai bên gặp nhau tại phía tây Trường An tiến hành lễ, sử gọi đó là Hội thề Trường Khánh (長慶會盟, Trường Khánh hội minh) lấy bia ở địa giới Thanh Thủy làm cương vực. Từ đó về sau 2 nước trở nên quan hệ hòa bình, nhưng cũng do Thổ Phồn bị nội chiến liên miên đến nỗi không còn khả năng tái chiến với Đường được nữa.[19]:75
Vào năm Thiên Bảo thứ 7 (748), Nam Chiếu thống nhất một vùng tây nam bao gồm Vân Nam, Quý Châu, phía nam Tứ Xuyên và nam tiến chiếm lấy khu vực miền bắc nước Miến Điện ngày nay, thậm chí tiến sang chiếm lấy phía bắc nước Lào ngày nay. Nhà Đường và Nam Chiếu một thời đã từng có quan hệ giao hảo nhưng cũng có khi tồi tệ đi. Nam Chiếu đã từng sang tận Thổ Phồn để giao ước, trong một thời gian dài hai nước này đã hợp tác với nhau cùng đem quân đánh nhà Đường. Nhưng từ sau năm 779, liên quân Thổ Phồn và Nam Chiếu đánh Đường thất bại, nguyên khí Nam Chiếu tổn hại nặng, mà Thổ Phồn lại tức Nam Chiếu. Hai nước lại càng kết sâu sự mâu thuẫn. Năm 794 nhà Đường và Nam Chiếu lập hội minh ở núi Điểm Thương (nay là dãy núi Thương Sơn), hai bên kết lập quan hệ tốt đẹp. Nhưng đến sau năm 820, do thấy nhà Đường đang suy nên Nam Chiếu trở mặt bắt đầu chiến tranh bạo loạn. Năm 829, Nam Chiếu huy động quân toàn quốc tấn công nhà Đường. Năm 831 tiến đánh đến Thành Đô, nhưng sau do sợ nhà Đường báo thù nên đành phải giao hảo lại như trước. Hai nước quan hệ khi hòa khi chiến, và sau này lật lọng cho đến lúc Nam Chiếu bị diệt.[27]:98

Khu vực Nam Dương và Tây Dương


Đồ họa vẽ việc đi Tây Trúc thỉnh kinh của nhà sư Huyền Trang
Nhà Đường đối với vùng Đông Nam ÁNam Á như nước Chân Lạp (nay là Campuchia) và Ha Lăng (nay là đảo Java), nước Thất Lợi Phật Thệ (tức Srivijaya, đảo Sumatra), nước Lâm Ấp (trung bộ Việt Nam), Phiếu (Miến Điện), Sư Tử Quốc (Tăng Già La, tức Sri Lanka ngày nay) và Thiên Trúc (Ấn Độ) đều có quan hệ lai vãng về kinh tế văn hóa.
Đường Tam Tạng - tức Huyền Trang hòa thượng sang Tây Thiên Trúc thỉnh kinh pháp, đem về 657 bộ, ông từng sử dụng tiếng Phạn dịch cuốn "Đạo đức kinh" để tặng cho Thiên Trúc. Đồng thời sau khi về Trường An ông đã nhớ tả lại những điều mình biết về Thiên Trúc ghi lại trong sách "Đại Đường Tây Vực cầu pháp cao tăng truyện" (大唐西域求法高僧傳) và "Nam Hải kí quy nội pháp truyện" (南海寄歸內法傳). Đó là trước tác về quan hệ giữa nhà Đường và Thiên Trúc Tây Vực. Nhà Đường còn cho du nhập vào khúc Bà La Môn của Ấn Độ, dung hợp âm nhạc ca vũ của Thiên Trúc và Trung Hoa lại. Và kiến trúc Phật giáo của nhà Đường cũng tiếp thu theo phong cách của Thiên Trúc.
Ở các vùng Tây Vực có các nước: Khang (康國, tức Samarkand), nước An (安國, của dòng họ Chiêu Vũ Cửu 昭武九), nước Tào (曹國), nước Thạch (石國), nước Mễ (米國), nước Hà (何國), nước Hỏa Tầm (火尋國), nước Mậu Địa (戊地國) và nước Sử (史國) có đến 9 nước đều phái sứ tiết thương nhân sang nhà Đường.
Năm 650 nước Đại Thực (Omeyyad) với nhà Đường đã bắt đầu có mối liên hệ, và sau đó đã thông sứ với nhà Đường đến 36 lần đưa sứ giả. Quân Đường tại Tây Vực và nước Đại Thực cũng có mối giao thiệp, trong Trận chiến Talas quân Đường bị đánh bại, Đại Thực đã bắt sống quân Đường, trong đó có không ít những người giỏi về thợ thủ công nhờ đó giúp nước này chế ra giấy, kĩ thuật chế giấy và một số đồ thủ công đã được truyền sang Đại Thực. Năm Khai Nguyên thứ 3 715 thời Đường Huyền Tông, quốc giáo của nước Đại Thực là Hồi giáo truyền nhập vào Trung Hoa, các luân lí học của Đại Thực, cả ngữ pháp học, thiên văn học, toán học, hàng hải học...đều truyền đến Trung Quốc vào thời này. Đại Thực là nước rộng lớn, thế lực xa rộng đến tận vùng MarocĐại Tây Dương, nhà Đường lúc đó đã có những ảnh hưởng đến Đại Thực qua sự giao thương của các thương nhân, tiếp cận vùng Tây Á, Đông PhiBắc Phi.
Nước Ba Tư từ năm 633 đã bị Đại Thực xâm lược, năm 638 kinh đô Ba Tư là Thái Tây Phong (泰西封, Ctesiphon) rơi vào tay địch. Năm 644 toàn nước Ba Tư bị thôn tính, năm 651 vị quốc vương cuối cùng của Ba Tư bị giết, Ba Tư diệt vong. Quân Đại Thực xông vào các hàng quán của Ba Tư và giết hại rất nhiều người ngoại trừ những tín đồ Hồi giáo, các thương nhân và quý tộc phải dời sang sống trong vùng Tây Vực, đến các vùng thành thị ở duyên hải phía đông Trung Quốc để tiếp tục nghề buôn. Và đến sau hợp thành bộ phận của người Sắc Mụcngười Hồi.[30] Do đó, các Hỏa giáo, Cảnh giáoMani giáo đã được truyền bá rộng rãi đến đất Đường, nhưng không thịnh lắm. Từ khi Trương Khiên thông sang Tây Vực và từ đó phát sinh người Ba Tư truyền nhập trò chơi Polo (một môn thể thao cưỡi ngựa đánh cầu) lưu hành đến nhà Đường, đi sâu vào và được giới quý tộc nhà Đường vui thích. Cuối thời Đường, một người Hồi là Lý Tuần (李旬) đã giới thiệu một loại sách hệ thống về y dược ở bên xứ Ba Tư tên là "Hải dược bản thảo" (海药本草). Nhà Đường cũng có quan hệ giao vãng với một số nước ở vùng Trung Tây Á như Tochari (吐火罗, Thổ Hỏa La) và Đế quốc Đông La Mã.[26]:85

Quân sự


một trong Chiêu lăng lục tuấn, chiến mã của Đường Thái Tông Lý Thế Dân
Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Quốc, từ Thái Tông, Cao Tông cho đến Vũ Tắc Thiên đều phải dụng binh, đánh bại các thế lực ở phía bắc và phía tây bắc như Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết, lại diệt nước Cao Xương, chiếm đất thành lập châu huyện, một lần nữa lại khống chế Tây Vực. Ở vùng đông bắc thì tiêu diệt nước Cao Câu LyBách Tế, và đánh bại viện quân Nhật Bản trong trận Bạch Giang. Đến thời Huyền Tông, việc đối ngoại càng mở rộng đến đỉnh cao, thế lực thậm chí đến tận vùng Trung Á, vươn đến tận nước Hắc Y Đại Thực (tức vương triều Abbas theo Hồi giáo Sunni). Nhưng sau loạn An Sử, khiến nhà Đường xuống thế và lung lay, không còn sức để bảo vệ các miền lãnh thổ đã chiếm được trước đây và đã dần dần bị các nước Thổ Phồn, Hồi Hột với thực lực quân sự hùng hậu chiếm lấy, bản thân bên trong nhà Đường còn phải đối phó với thế lực phiên trấn cát cứ. Tuy nhiên đến thời Đường Hiến Tông nhờ những thắng lợi các phiên trấn ở vùng Hoài Tây và Kiếm Nam, nên phiên trấn quy thuận, nhưng lại không thể diệt tận được họa phiên trấn đã ăn sâu vào gốc rễ. Nhà Đường từ đó càng xuống dốc trầm trọng. Ngay kinh thành Trường An cũng từng một lần bị phiên trấn đánh chiếm (năm 763), phía tây nam lại có Nam Chiếu liên hợp với Thổ Phồn đánh đến tận Thành Đô năm 831.[19]:69
Nhà Đường kế thừa nhà Tùy thi hành phủ binh chế,[8]:288 noi theo chế độ phủ binh của thời Bắc ChuBắc Tề, từ thời Bắc Chu các phủ binh là do xét trong hộ tịch mà trưng dân, Tùy Đường thì rút các tráng đinh nam đến tuổi phục dịch cho vào phủ binh, việc hợp dân lại tạo thành quân lính đó được gọi là chế độ trưng binh. Phủ binh chế là cơ bản tuyển quân lẻ là Chiết Xung phủ. Phủ phân ra 3 cấp: Thượng phủ là một nghìn mấy trăm người, Trung phủ là một nghìn người, Hạ phủ là 800 người. Trưởng quan ở quân phủ gọi là Chiết Xung đô đốc (折沖都尉). Chức phó là Tả hữu Quả nghị Đô úy (左右果毅都尉). Phủ binh xưng là Vệ sĩ hoặc Thị quan. Quân phủ lệ thuộc có đến 12 vệ và 6 suất. Quân phủ tối đa có đến 634 người, chia làm ba đóng trú ở tại giữa bảo vệ thành Trường An. Phủ binh chế cũng hợp nhất với Quân điền chế từ cơ sở trưng dân nông binh. Quân lính cứ đến 21 tuổi thì nhập quân và đến 60 tuổi thì được miễn, cứ mỗi hộ có 3 trai tráng thì tuyển 1 người đi lính thú. Vệ sĩ bình thường cũng ở tại nông trang làm ăn cày cấy và lo tập huấn luyện. Họ thường được chia ra làm nhiều phiên cứ thay nhau canh trực cho kinh đô Trường An. Đến khi có chiến tranh thì quy tụ lại để sẵn sàng xông trận. Trong thời gian phục dịch họ được miễn trừ tô thuế, tuy nhiên việc khẩu phần lương thực và binh khí vẫn phải tự mình phụ trách.[31]:145

Bản sao Tác phẩm Đảo luyện đồ (搗練圖) của Trương Huyên (張萱) mô tả cảnh phụ nữ đang giã tơ tằm, làm quần đảo mùa đông cho bính lính phòng thủ ở biên thùy.
Phủ binh chế trên thực tế là sự kết hợp giữa binh sĩ và nông dân, giám bớt gánh nặng cho quốc gi,[8]:289 nhờ họ tự làm ăn mà nhà nước đỡ tốn chi phí nuôi và cấp lương, đó gọi là ngụ binh ư nông. Lúc thường làm dân, có chiến thì đi lính; quân không biết tướng, tướng cũng không biết quân.[chú 11] Chiến sự kết thúc thì quân trở về phủ, tướng lĩnh về triều, còn những tướng đầu hàng thì có quân đi theo để phòng nguy hiểm. Phủ binh chế có khuyết điểm là khi động viên binh sĩ nhập ngũ lại quá lâu dài, quân trễ biếng, ảnh hưởng đến nông nghiệp, mà triều đình lại miễn trừ thuế phú cho binh sĩ nên thành ra cũng có tổn thất. Do đó, Thái Tông, Cao Tông cho đến Vũ Tắc Thiên đều phải có sự lựa chọn lúc gặp chinh chiến thì mộ thêm quân đối lại với phủ binh cho có sự bổ sung.[18]:431 Thời Thái Tông, quân đội toàn quốc được triều đình trực tiếp quản lí, ước có đến 600 quân phủ, việc nhậm quân sự là nhất thiết, không quản việc phái các hộ vệ đi xa từ kinh sư đến địa phương trú nghỉ hay xuất chinh, chấp hành việc phân đều quân đội. Tuy nhiên, do sau này để tiện việc quản lí, nhu cầu thiết yếu triều đình phải đặt ra trưởng quân quản lí từng quân đội ở địa phương, họ được gọi là "tiết độ sứ". Mà thời kinh tế xã hội được cải thiện, nhân dân thường phản kháng chống lại chế độ binh dịch. Ngoài ra do quốc gia thái bình đã lâu, quân phủ ít dùng đến, chính quyền thường có sự thanh nhàn, quân đội hầu như đã có sa sút trong chiến đấu.
Đến thời Huyền Tông, triều đình bỏ lơ việc nắm nhân khẩu, khiến trong phủ binh có nhiều người bỏ trốn. Trong những năm Thiên Bảo, Huyền Tông thu nạp Trương Thuyết (張說) có kiến nghị thi hành trưng binh chế và mộ binh chế và dần dà phế bỏ đi phủ binh chế. Vì lòng hư vinh muốn trọn xưng là "thống lĩnh tứ di", bèn lo chiêu mộ được những sĩ binh đóng trường kì ở biên giới tiến hành việc chiến tranh đối ngoại, xưng là "Kiện nhi" (健儿). Và ít nhất cũng có liên hệ với lính đánh thuê ở tại bản địa, bọn họ chỉ mong ra biên thùy đánh trận để thu được những ích lợi cho mình. Các tướng lĩnh ở biên trấn thông qua lợi ích quan hệ với bộ tộc (cho nhiều tướng lĩnh và phủ binh được nhờ vào các dị tộc), luôn luôn có sự khống chế đối với sĩ binh cho đến về sau này khi xảy ra chiến họa.[31]:145

Sau loạn An Sử, việc quân sự của nhà Đường bắt đầu thất thế: trong thì có phiên trấn cát cứ, ngoài thì Hồi Hột, Thổ Phồn và Nam Chiếu cứ xâm nhập. Tiêu biểu như việc quân Đường mượn quân người Hồi Hột để dẹp loạn An Sử (khiến họ một phen cướp phá). Năm 763, Thổ Phồn đã từng chiếm giữ Trường An 15 ngày. Nam Chiếu cũng từng đánh chiếm Thành Đô, rồi tiến đánh An Nam cho đến khi nhà Nam Hán thời Ngũ Đại Thập Quốc thu hồi. Các tướng sĩ phòng thủ Nam Chiếu cũng sinh ra bất mãn, gây cuộc "Sự biến Bàng Huân" (龐勛之變). Về sau lại có giặc Hoàng Sào, rồi chiến tranh giữa Chu Toàn Trung và người Sa Đà của Lý Khắc Dụng. Các địa chức quân nhân xảy ra lục đục, chiếm lĩnh địa phương, thậm chí tự lập chính quyền riêng, dẫn đến nhà Đường tiêu vong và kế tiếp xảy ra cục diện phân chia Ngũ Đại Thập Quốc, đó là kết cục kế tiếp lâu dài do họa phiên trấn gây ra.[31]:145
Thời Đường Huyền Tông đã có mối quan hệ với Ả Rập, và sau này tiếp nhận Hồi giáo dưới triều đại Abbas. Và cùng với nhiều nước họ Chiêu Vũ Cửu, Burusho (Bột Luật), Thổ Hỏa La ở các vùng thuộc Trung Á. Năm 751, khi nhà Đường thất bại trong chiến dịch TalasĐường, mưu đồ kinh lực Trung Á bị bẻ gãy, nhưng về sau khi loạn An Sử và họa phiên trấn khiến nền kinh tế ở Hoa Bắc tiêu điều, các quân sĩ đóng lâu năm ở vùng tây bắc thường nhàn rỗi phải rút về Trường An lo bảo vệ chính quyền, và khoảng 150 năm sau khi Thổ Phồn và Hồi Hột mạnh lên thì chiếm lấy một nửa vùng phía tây rộng lớn của nhà Đường.[27]:95
Trong thời kỳ nhà Đường có rất nhiều danh tướng, với Nhị thập tứ công thần đồ (Tranh vẽ 24 vị công thần) ở Lăng Yên cácQuách Tử Nghi (郭子儀), cha con tướng Lý Thịnh (李晟) và Lý Tố (李愬), Cao Biền (高駢) là những vị tướng chiến ngoại giỏi của người Hán, ngay những tướng lĩnh dị tộc cũng có những địa vị trọng yếu: người có pha dòng máu Hồ và Hán là An Lộc Sơn, Sử Tư Minh (người Đột Quyết), Hắc Xỉ Thường Chi (黑齿常之, người Bách Tế), Cao Tiên Chi (高仙芝, người Cao Câu Ly), A Sử Na Xã Nhĩ (阿史那社爾, người Đột Quyết), Lý Quang Bật (李光弼, người Khiết Đan), Lý Hoài Quang (李懷光, người Mạt Hạt), Ca Thư Hàn (哥舒翰, người Đột Quyết), Bộc Cố Hoài Ân (僕固懷恩, người bộ Thiết Lặc), Hồn Hòa (渾瑊) và A Điệt Quang Tiến (阿跌光進).

Kinh tế

Nông nghiệp


Trà kinh của Lục Vũ thời Đường
Nông cụ thời Đường và việc sản xuất so với thời trước đã tiến bộ, thời Khai Nguyên đã phát minh ra máy kéo cày, lại đổi mới những cái máy trút nước và máy rỗng. Năm 624 khi toàn quốc được thống nhất, đất nước có hơn 130 năm yên bình phát triển, các công trình thủy lợi gia tăng củng cố đến hơn 160 công trình, tiêu biểu như kênh Ngọc Lương, hồ Giáng Nham, hồ Kính An Huy, kênh Đậu Công, Văn Thủy ở Sơn Tây, Tam Hà ở Hà Bắc, Bành Sơn ở Tứ Xuyên, Vũ Lăng ở Hồ Nam...Vào năm 740, tổng công trình có đến 14.003.862 hạng (tương ứng với 1.219.700.000 mẫu theo hệ thống đo lường ngày nay). Công cụ nông nghiệp tiến bộ, công trình phát triển, sản lượng tăng và sản xuất được nâng lên. Năm 749, số lương thực đem ra bán đã đến 9600 vạn thạch. Đặc biệt giá gạo ở Trường An và Lạc Dương năm 726 thời Đường Huyền Tông, mỗi đấu gần 13 đồng, ở Thanh Châu và Tề Châu mỗi đấu chỉ gần 5 đồng. Ngũ cốc nhiều và sung túc thể hiện đầu thời kỳ nhà Đường này hộ khẩu gia tăng, sản xuất mọi thứ đều có sự tăng trưởng.
Sau thời giữa nhà Đường, vùng trung du và hạ du Hoàng Hà bị loạn An Sử phá hoại, mà ở vùng sông Hoài tương đối bị chiến tranh phá hoại ít được nhiều, nên kinh tế nông nghiệp không bị lụn bại cho lắm mà vẫn còn phát triển được, sau này vùng trung và hạ du Hoàng Hà cũng được hồi phục phát triển vượt bật. Đời sau đó của nhà Đường, về đất phía nam sông Hoài số lượng khai khẩn đất hoang, xây dựng thủy lợi, trồng cây lương thực...phát lắm, mà sản lượng ở vùng Giang Hoài luôn dồi dào, trở thành khu sản xuất lương thực trọng yếu của đất nước.[32]:102 Đường trắng đã vốn có từ thời Trinh Quán thời Đường Thái Tông năm 647, mà sau đời nhà Tống ở các tỉnh phía nam Trường Giang lượng đường dùng vào thực phẩm rất đắt hàng, là nơi trồng nhiều mía để sản xuất đường.[chú 12] Những người buôn bán lương thực thường vận chuyển các giống trà (chè) từ miền nam, nghề trồng trà (chè) ở đó rất phát đạt, có đóng góp lớn cho kinh tế miền nam, và sau này kĩ thuật trồn trà được truyền lên phía bắc. Các loại sản phẩm trà (chè) phương nam này được vận chuyển lên khắp các miền bắc, thậm chí lan sang nước Thổ Phồn, nước Bột Hải, và cả nước Đại Thực, nước Ba Tư. Nhưng do phú thuế không đủ, cả nước dùng cũng thiếu, đầu năm 793, quan diêm thiết sứ là Trương Bàng (張滂) tấu xin cho việc sản xuất trà lưu đi các châu quận hãy để Diêm thiết độ chi tuần viện quản lí, chủ quản quan lại dựa vào chất lượng chia ra 3 đẳng hạng mà định giá, mỗi mười thuế một, và sau này thời Đường đó trở thành thu nhập quan trọng, do đó việc đánh thuế trà cũng bắt đầu được quan tâm.[33]

Thủ công nghiệp


Tạo hình của tượng ngựa Đường tam thải
Thủ công nghiệp thời Đường phân ra 2 loại là quan doanh và tư doanh. Quan doanh do bộ Công chủ quản là một bộ rất quan trọng của triều đình, trực tiếp quản lí các cơ cấu "Thiếu phủ giám" (少府監), "Tương tác giám" (將作監), "Quân khí giám (軍器監). "Thiếu phủ giám" lo việc chế tác các đồ thủ công nghiệp tinh xảo; "Tương tác giám" quản lí việc xây dựng các công trình; "Quân khí giám" lo chế tạo ra binh khí vật dụng cho chiến tranh. Giám được chia thành "thự" (署), thự được chia thành phường (坊). Ngoài ra còn có "Chú tiến giám" (鑄錢監) lo việc đúc tiền bạc và "Dã giám" (冶監) lo việc luyện kim nữa. Các sản phẩm của quan doanh dĩ nhiên không đem ra trao đổi bên ngoài, mà chỉ dùng để cung phụng cho hoàng gia và các nha môn quan lại. Nhân công cũng được sắp xếp mà phân ra: công tượng, hình đồ, quan nô tì, quan hộ, tạp hộ. Thủ công nghiệp tư doanh mà so với quan doanh thì chưa phát đạt bằng. Các sản phẩm thủ công nghiệp đời Đường chủ yếu là dệt vải sợi, làm gốm sứ, và rèn kim loại.[32]:107 Tơ, sợi gai là đối tượng chủ yếu của ngành dệt. Lụa vải ở Hoài Nam đạo, các hàng vải ở đô thị vùng Giang Hoài có sản phẩm đẹp và đắt giá. Vải dệt tơ tằm thời nhà Đường tiếp tục sử dụng rộng rãi phương pháp nhuộm màu có hoa văn từ thời Nam Bắc triều; và cả mặt trước và sau đều được nhuộm màu có hoa văn, vải len hai loại đều có phép nhuộm màu sắc mới. Các loại vải lụa đều có tiếp thụ ảnh hưởng của các tộc Hồ, Tây Vực và một phần nhỏ phong cách Ba Tư. Đồ sứ rất tinh xảo, những con ngựa Đường tam thải[chú 13] đã chứng thực về sự phát triển số lượng gốm sứ đương thời. Đường tam thải có ba màu chủ đạo là màu vàng, màu xanh lục, màu trắng; biểu hiện được kĩ thuật chế tác sứ và cách nung luyện mặc dù chúng là các đồ chôn theo người chết song vẫn được chế tác tinh xảo, được ưa chuộng và dùng trong nhiều tầng lớp xã hội thời nhà Đường. Việc chế tạo ra vàng và bạc đã học được kĩ thuật của Tây Vực, biết cách nung vôi với kĩ thuật cao, đạt được những vật vàng bạc rất thuần không tạp chất. Vùng Hoài Nam, Dương Châu chuyên sản xuất gương vuông vắn, gương Giang Tâm là gương đồng thượng đẳng. Giữa thời nhà Đường, thủ công nghiệp miền nam phát triển tiến bộ, đặc biệt là sản xuất tơ lụa, làm giấy và đóng thuyền: dân gian tự trồng dâu tằm, sử dụng trúc để làm giấy, chế tạo ra thuyền di chuyển bằng lực chân đạp của người.[14] Các lò gốm Việt ở Việt Châu nung chế ra các loại sứ màu đẹp mà sau này trở thành đại biểu kiệt xuất của nền thủ công nghiệp miền nam.
Nói chung, các loại trang sức nghệ thuật thời nhà Đường đều có ảnh hưởng của các vùng Trung Đông và ảnh hưởng từ một số hàng của nước ngoài đưa vào, nghề gốm và kim thuộc đã có phong cách mới. Hình dáng chiếch ly rượu và men màu đồ sành sứ mô phỏng theo Ba Tư, và phương thức xe chỉ và dệt sợi cũng học theo Ba Tư.[34] Sản phẩm của Trung Hoa thời Đường với các loại đồ thủ công nghiệp được lan truyền đến nhiều quốc gia và được ưa chuộng.

Thương nghiệp và giao thông

Đời nhà Đường có nhiều khu thành thị buôn bán lớn với nền kinh tế phát triển vượt bậc. Trường An, Lạc Dương, Tô Châu, Dương Châu, Thành Đô, Quảng Châu là những khu trung tâm thương nghiệp khá sầm uất. Việc giao thông qua lại cũng cực kì phát triển, đường bộ thì lấy Trường An làm trung tâm và mở rộng ra toàn quốc. Giao thông đường thủy thì ở Lạc Dương là trung tâm của Đại Vận Hà. Các dịch trạm trong cả nước lên tới 1463. Trong đó lục dịch có 1.297 sở, thủy dịch có 166 sở. Thương nhân thường dùng những phẩm vật buôn bán để ở cửa hàng thu lợi nhuận cao, các điểm giao thông khắp các vùng đều rất tiện. Bắt đầu trung kì của nhà Đường, đã có những người bán sỉ và những thợ khắc dời xuống nam, khiến vùng lưu vực Trường Giang có nền kinh tế thương nghiệp rất phát triển, tài chính quốc gia phần lớn phải dựa vào việc đánh thuế má của thương nghiệp nơi đây, do đó có câu "Dương nhất Ích nhì" (chỉ Dương Châu và Ích Châu); mà ở Giang Nam nói đến thành thị lớn nhất ở miền đông là Tô Châu - một nơi rất phồn hoa, cùng với Dương Châu trở nên phát triển siêu việt không kém gì hai đô thị Lạc Dương và Trường An thời Đường. Mà nói đến thành phố lớn nhất ở phía nam Trung Quốc thời bấy giờ. Đương thời người ta cũng cho rằng ở Giang Nam có thành Tô Châu là thuộc loại thị phố cao cấp nhất. Ngoài ra còn có Hàng Châu, Hồ Châu là những vùng kinh tế phát triển đến mức thịnh vượng, cùng đồng hành với nền thương mại phồn vinh ở Tô Châu, buôn bán tấp nập và thậm chí mở cả chợ đêm.
Thời nhà Đường là lúc mà nhiều thành thị đã phát triển thuộc loại lớn trên thế giới, buôn bán tơ lụa phát đạt và rất có giá... Tiền bạc thời đó chủ yếu là tiền đồng xâu, còn như tiền giấy thì đã có loại phi tiền được thế giới thời cận đại công nhận là xuất hiện từ khá sớm ngay từ nhà Đường. Khoảng 200 năm sau đến đời nhà Tống đã bắt đầu thông dụng, và ở Tứ Xuyên đã "chính thức" cho lưu hành.[35][36][37] Đương thời cũng đã xuất hiện các loại cửa hàng gần giống như ngân hàng ngày nay, cho các thương nhân vay vốn hoặc có thể gửi tiền vào đó quy đổi ra ngân phiếu mà dùng. Thương nghiệp thời nhà Đường cực kì phát triển mà nhất là trong thời Khai Nguyên thịnh thế, cho đến gần cuối thời nhà Đường từ khi xảy ra loạn Hoàng Sào và nạn phiên trấn cát cứ mà dẫn đến nhân khẩu giảm, kinh tế xã hội sa sút không còn bằng như trước nữa.[32]:113
Thời Đường, mậu dịch hải ngoại bắt đầu hưng thịnh, vào nửa đầu thế kỷ thứ 8, các thương nhân thường đi từ Quảng Châu qua eo biển Malacca đi đến vùng biển Ấn Độ Dương, tiếp cận các nước Ấn Độ, Sri Lanka, lại tiến tiếp về phía tây đến vịnh Ba Tư, vịnh Aden rồi đến biển khu vực Hồng Hải. Sang phía đông theo đường biển để đến Tân La, Nhật Bản, và vùng biển Thái Bình Dương kia có thể thông sang Tân Thế Giới (châu Mỹ) mà sau này trong cuộc phát kiến lục địa của người châu Âu phát hiện ra. Các thương nhân vùng Trung Đông như người Do Thái, người Ba Tư, người Ả Rập thường sang buôn bán. Các vùng men bờ của Trung Quốc như Giao Châu, Quảng Châu, Tuyền Châu, Minh Châu (huyện Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang), Dương Châu là những nơi các thuyền lớn tụ hội rất nhiều mà nhất là mùa mưa sau ngày xuân lại càng hưng khởi, trở thành những cảng khẩu mậu dịch đối ngoại rất trọng yếu. Vì nền thương nghiệp mậu dịch càng thịnh lên nên triều đình cũng đặt ra Thị bạc ty để đảm đương. Việc trưng thu thuế của các thuyền đậu mang lại lợi nhuận cao, đóng góp không nhỏ trong ngân khố quốc gia.

Ban hành tiền tệ


Nhà Đường thông dụng tiền “Khai Nguyên thông bảo
Từ tháng 7 năm Vũ Đức thứ 4 (621), đã có lệnh bãi bỏ các loại tiền cũ trước đây, ban ra tiền "Khai Nguyên thông bảo", chính thức lập ra các xưởng đúc tiền. Sau đó nối thừa theo thời Ngụy Tấn Nam-Bắc triều, nhà Đường ngoài những tiềm lực mặt hàng về lụa để buôn bán, còn cho đúc ra tiền để giao thương và thông dụng trong dân gian. Tiền và lụa đều có thể trở thành những vật trung gian để trao đổi.[8]:290
Ban đầu, kinh tế xã hội lấy việc kinh tế làm chủ,[chú 14] lúc đó các loại thương phẩm ở Tô Châu giá còn rất thấp. Nhưng tình hình về sau khi loại tiền "tiền bạch kiêm hành" được dùng trong chế độ về tiền tệ, định ngạch về giá thương phẩm do đó cũng tăng lên. Từ đời nhà Tùy đến cuối thời Trinh Quán, sau đó đến thời Cao Tông, Vũ hậu cho đến Vũ Tông, kinh tế thương phẩm qua từng thời kỳ có tốc độ phát triển dần dần, "tiền bạch kiêm hành" về sau cũng mất đi tính quan trọng ban đầu.
Chính phủ nhà Đường không ngừng cấm tư nhân không được đúc tiền và đúc bừa bãi, cho cấm sử dụng các loại tiền xấu. Nhưng vì việc giao thương buôn bán và kinh tế thị trường ngày càng phát đạt, có cấm cũng như không, tư nhân vì ham lợi nên đều tự đúc tiền giả và cho lén dùng nhiều.[38]

Đất đai và thuế khóa

Đầu đời Đường việc hộ dân vẫn noi theo nhà Tùy, đầu năm Vũ Đức, chia làm 3 hạng hộ chế. Năm 624, nhà Đường ban bố chế lệnh quân điềntô dung điều.
Thời Tùy mạt do loạn lạc biến động, số lượng địa chủ kiêm tính nhiều ruộng đất rất thường thấy, mà ruộng đất vô chủ hoang hóa khá nhiều. Nhà Đường trước tiên dùng một bộ phận quan điền để cấp ban ruộng cho các quý tộc, quan lại, công thần, ruộng đó gọi là "tứ điền" (赐田,ruộng được ban). Lại có "công giải điền" (公廨田) cấp cho quan thự; "dịch điền" (驿田) cung cấp cho các trạm ngựa; "đồn điền" (屯田) dành cho quân chính. Còn những ruộng đất còn lại phân chia bình quân theo phép quân điền cho dân chúng. "Quân điền lệnh" quy định rằng chính phủ y theo hộ tịch mà cấp ruộng và phân ra ruộng công ruộng tư, có chế độ trong việc trồng trọt chia hạng công tư điền. Nhân khẩu chia làm 3 hạng tuổi: 4 tuổi trở lên được phần nhỏ, 16 tuổi được hạng trung, 21 tuổi trở lên là đinh, 60 tuổi trở lên là lão. Đinh nam và những người 18 tuổi trở lên được hưởng 1 khoảnh (công điền 80 mẫu, tư điền 20 mẫu). Người già hoặc kẻ tàn tật được hưởng 40 mẫu. Người vợ thiếp cô quả được hưởng 30 mẫu. Giới tu hành như hòa thượng, đạo sĩ mỗi người hưởng 30 mẫu; ni cô, nữ quan được 20 mẫu. Nô tì, gái có chồng và trâu cày không phải cấp ruộng. Quý tộc, quan lại và quan khanh công lao bản thân và họ hàng thân thích đều theo thứ bậc cao thấp mà phân chia ruộng tư cho. Thời nhà Tùy và nhà Đường đều có sự khoan dung hơn trong việc mua bán đất đai, nhưng chế độ nhà Đường có sự nghiêm cách hạn chế hơn. Quân điền chế không chỉ có giúp nhà Đường được sự thu nhập tài chính được nhiều đủ hơn, mà tầng lớp quý tộc quan lại đối với nhu cầu sản nghiệp ruộng đất cũng thưa đi, đối với đầu đời Đường tô thuế dựa vào ruộng được tác dụng chủ chốt.
Lao dịch thời Đường phân 2 hạng là dao dịch (làm việc cho nhà vua) và chính dịch. Chính dịch dùng khi có chinh chiến, cho dù nam có từng dao dịch vẫn tham gia chiến trận. Dao dịch lại chia ra tạp dao và sắc dịch. Tạp dịch thường là những công tác ở địa phương khi có việc trùng tu bổ kiến trúc công trình. Sắc dịch là công việc về nhiều loại công tượng. Chính dịch gồm cả thuế dịch và binh dịch. Thuế dịch lại có án chiếu theo tô dung điều để thu nạp thuế chính và thuế đất, thuế hộ và thuế phụ trợ. Phép tô dung và quân điền đều là những cách phối hợp nhau thực hành chế độ thuế khóa. Tô dung điều dựa vào số đinh mà trưng thu. Mỗi đinh hàng năm phải giao nộp thóc lúa 2 thạch, gọi là "tô". Căn cứ vào loại đất ruộng để mỗi năm có sự định quyên nộp: lụa 2 trượng, gấm 3 lượng, hoặc 2 trượng 5 thước, đay gai 3 cân (mỗi cân bằng 16 lượng). Đó gọi là "điều". Mỗi đinh phải làm dao dịch khoảng 20 ngày, tháng nhuận 2 ngày. Còn nếu không muốn làm dao dịch mỗi ngày phải nạp lụa 3 thước, hoặc vải 3 thước 7 tấc 5 phân. Gọi là "dung".

Văn hóa

Tư tưởng học thuật


Tranh họa Hàn Dũ - cùng với Liễu Tông Nguyên là 2 nhà thơ văn nổi tiếng chủ trương phục cổ
Đầu thời nhà Đường, tư tưởng học thuật kế thừa theo Nho giáo từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, tiêu biểu như Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) với tác phẩm "Ngũ Kinh chính nghĩa" (五經正義), trong đó là tác phẩm nối tiếp và hoàn thành tư tưởng Nho học từ đời Hán và Tấn, mà người có công lao nhất là Đặng Huyền (郑玄). Từ thời Đường và cả thời Minh Sơ sau này đều chấp hành theo những tư tưởng triết thuật thời trước. Đến trung kì thời Đường, những tư tưởng cải tiến trọng đại đã phát sinh, những người có sáng kiến, kế thừa đời trước và truỳen lại cho đời sau như Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Lý Cao (李翱), Lưu Vũ Tích (刘禹锡). Rồi lại có Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị là những người có giá trị tư tưởng đồng dạng, họ không chỉ là các thi nhân. Đời sau khi bàn luận về kinh học, những ý nghĩa nghiêm cách nổi bật đều sưu tập trong "Hán Tấn Đường kinh học". Khi nói về lí học thì đời sau xem "Đường Tống Minh lí học" là hơn.
Hàn Dũ và Lý Cao có để lại tác phẩm nổi tiếng thể hiện tư tưởng chủ nghĩa duy tâm, còn Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích là đại biểu của tư tưởng chủ nghĩa duy vật. Hàn Dũ có tác phẩm "Nguyên Đạo" và "Nguyên Tính" chủ trương phục cổ sùng Nho, bài xích Phật giáo, cho rằng tăng đạo không quan tâm đến sinh sản, lãng phí tiền của xã hội, tăng ni đạo sĩ nên về quê hoàn tục, nên đốt trụi kinh văn của Phật gia, lấy các chùa miếu đạo quán làm nơi sinh sống cho dân cư. Họ chủ trương tôn sùng Khổng Tử, lấy "Luận Ngữ" làm tác phẩm thể hiện quan niệm đạo đức trong đạo thuật. Họ lại cho rằng trời sinh ra nhân tính, có phân ra 3 phẩm thượng, trung và hạ. Lý Cao trong "Phục tính thư" (复性书), phát triển tính thiện luận của Mạnh Tử, cho rằng bản tính con người vốn thiện, nhưng vì trong đời sống sinh hoạt gặp phải những hoàn cảnh tình cảm vui, buồn, giận, sướng quấy rối tâm hồn, khiến họ không thể phát huy tính thiện, nên cần phải khôi phục đức thiện và khắc chế tình cảm ham muốn, kêu gọi "phục tính". Hàn Dũ và Lý Cao đều để lại danh tiếng về suy nghiệm lí học cho thuật học đời nhà Tống về sau.
Liễu Tông Nguyên trong các tác phẩm "Thiên thuyết" (天說), "Thiên đối" (天對), và "Phong kiến luận" (封建論), triết lý văn chương văn chương trong đó cho mệnh người và mệnh trời không có quan hệ, trời tức là nguyên khí của tự nhiên, không hề có chuyện thưởng phạt cho nhân thế, "Công là ở công, họa là ở họa" (功者自功,祸者自祸 - Công giả tự công, Họa giả tự họa), mọi chuyện đều chỉ do con người tạo ra. Lưu Vũ Tích thì phát triển những nhận định bàn luận về tự nhiên của Tuân Tử cho rằng vũ trụ là được tạo bởi vật chất, bản thân trời cũng cùng dạng với vật chất, tuy có tồn tại theo quy luật khách quan, nhưng không ảnh hưởng gì đến nhân sự.[chú 15] Họ cho rằng chủ nghĩa duy tâm lí luận là thị phi điên đảo của thế gian, con người không có khả năng, do đó tuyên dương cái được gọi là "thiên mệnh".[14]

Văn học và sử học


Tranh vẽ thi tiên Lý Bạch
Văn học thời Đường với thể loại thơ ca cực kỳ phát triển. Người thời Thanh biên soạn"Toàn Đường thư" (全唐詩) thu thập ghi chép nhiều đến trên 2200 nhà thơ sáng tác đến khoảng 48.900 bài thơ, song đó chưa phải là đã đầy dủ. Đầu thời Đường đã có "Sơ Đường tứ kiệt" tức là 4 vị thi nhân kiệt xuất: Vương Bột (王勃), Dương Quýnh (楊炯), Lư Chiếu Lân (盧照鄰) và Lạc Tân Vương (骆宾王).[39]:712 Đến thời Thịnh Đường thì lại có các thi nhân thuộc phái điền viên như Vương Duy (王维), Mạnh Hạo Nhiên (孟浩然); phái biên tái như Sầm Tham (岑参), Vương Xương Linh (王昌龄). Và đặc biệt thành công nhất là "thi tiên" Lý Bạch (李白) và "thi thánh" Đỗ Phủ (杜甫),[39]:715 danh tiếng đến tận ngày nay. Thơ của Lý Bạch nhẹ nhàng bồng bềnh tự nhiên không bó buộc, lại có sắc thái chủ nghĩa lãng mạn đầy sung mãn. Mà thơ của Đỗ Phủ thì thể hiện tậm trạng về chủ nghĩa hiện thực. Thời kỳ Trung Đường, nổi tiếng nhất có thể kể đến Bạch Cư Dị, khác ở chỗ thơ của ông dễ hiểu. Ngoài ra cũng có những nhà thơ khác như Hàn Dũ, Nguyên Chẩn (元稹), Liễu Tông Nguyên (柳宗元), Lưu Vũ Tích (劉禹錫), Lý Hạ (李賀).[39]:724 Thời Vãn Đường thì có hai thi nhân Lý Thương Ẩn (李商隱) và Đỗ Mục (杜牧) là xuất chúng, được gọi là "tiểu Lý Đỗ".[39]:730 Sau này các đời nhà Tống, Minh, Thanh tuy cũng xuất hiện những nhà thơ kiệt xuất, nhưng về tổng thể khó sánh bằng thi nhân thời Đường. Thơ văn nhà Đường đã đạt đến đỉnh cao tột cùng mà sau này không thời nào vượt tới được.
Trên phương diện tản văn, từ thời Lục triều đến đương thời, văn đàn rất thịnh hành lối hình thức biền văn, văn biền ngẫu giảng cứu về thanh vận, đối ngữ, điển cố, từ ngữ đẹp đẽ hoa lệ, với câu bốn chữ và sáu chữ chiếm chủ yếu.[8]:293 Thời Đường Sơ tản văn rất phổ biến, với các tác phẩm của "Sơ Đường tứ kiệt" (Vương, Dương, Lư và Lạc), nhưng chủng văn kiểu đó vào thời nhà Đường lại có hình thức cương hóa, nội dung trống rỗng, cho nên đến những năm Thiên Bảo thời Đường Huyền Tông, chủ trương phục cổ văn lại hưng khởi.[39]:727 Vận động cổ văn trên danh nghĩa là chủ trương phục hồi lại tản văn thời Tiên Tần và Lưỡng Hán, còn thực tế thì muốn văn chương có nhiều nội dung hơn, nội dung chủ trương là "Văn dĩ tải đạo" (文以載道, dùng văn chương truyền tải đạo lí). Hàn Dũ là người đầu tiên trong Đường Tống bát đại gia chủ trương tả được cái khí thế mênh mông của tản văn và lại có những tư tưởng rất thâm sâu. Sau khi Hàn Dũ mất, vận động cổ văn dần dà suy thoái, song đến thời Đường mạt thì biền văn lại hưng khởi.[39]:736

Tranh vẽ thi thánh Đỗ Phủ
Thể loại truyền kì của Trung Quốc thuộc hình thức tiểu thuyết cổ điển, xuất hiện từ đời nhà Tùy, hưng thịnh ở thời Đường.[39]:746 Các tác phẩm truyền kì bao quát như: "Liễu nghị truyện" (柳毅傳), "Oanh oanh truyện" (鶯鶯傳), "Nam Kha thái thú truyện" (南柯太守傳), "Chẩm trung kí" (枕中記), "Trường hận truyện" (長恨傳). Các loại truyền kì về sau đều cải biên thành hí kịch và tiểu thuyết Bạch thoại. Thể loại biện văn cũng có địa vị trọng yếu trong văn học sử nhà Đường. Biện văn xuất phát từ khi tăng lữ Phật giáo tuyên truyền kinh đạo Phật pháp. Biện văn đã được dùng trong lúc xướng giảng kinh văn Phật của các tăng lữ và dần dần có xu hướng nhập sâu vào văn học. Biện văn càng lưu truyền vào càng về sau càng rất có ảnh hưởng.[39]:749
Sử học thời Đường bắt đầu khai sáng làn gió tu sửa các chính sử.[8]:292 Những năm Trinh Quán thời Đường Thái Tông, các sử quán đã phụng chiếu cho tu sửa 6 bộ chính sử như "Tấn thư", "Lương thư", "Trần thư", "Bắc Tề thư", "Chu thư" và "Tùy thư". Lại có sử gia Lý Diên Thọ (李延寿) biên soạn ra "Nam sử" và "Bắc sử". Trong chính Nhị thập tứ sử của Trung Hoa đã có tới 8 bộ sử được hoàn thiện từ đời Đường. Sử chép thời Đường thành thư sách rất sắc bén, chép tỏ tường các nguồn, nội dung phong phú, nhưng vì các nhà thống trị trực tiếp quản lí khống chế việc tu sửa sử sách nên vì nhu cầu chính trị thiên vị nhà Đường nên việc chép sử có phần hạ thấp đời trước và khoe khoang quá đáng về chính trị Đường triều. Ngoài ra, có Đỗ Hựu (杜佑) tả rõ về "Chính điển" (政典) trong chính thư "Thông điển" (通典), có Lưu Tri Kỉ[chú 16]。}} chế soạn ra "Sử thông" (史通). Đỗ Hựu chuyên ghi chép về tài chính, kinh tế, và điển chương, pháp lệnh, chế độ với những nhận thức rất hiện thực về chính trị, lựa chọn nhiều nguồn tài liệu. Lưu Tri Kỉ có hơi chút cường điệu trong văn phong viết sử, trong quá trình viết có tự mình ó sáng kiến mới và bình luận kiến giải, là người khởi xướng cho lí luận học lịch sử Trung Quốc.[39]:749

Tôn giáo

Tôn giáo từ trước đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến xã hội Trung Quốc, thời Đường đã lên mức độ cực đại. Thịnh Đường là thời kỳ Tam đại giáo là Khổng giáo, Phật giáo, và Đạo giáo tiếp tục phát triển đến đỉnh cao. Tư tưởng của 3 trường phái này phát huy giúp con người điều chỉnh lại tư tưởng và hành vi của mình, thẩm thấu trong các lĩnh vực xã hội. Xã hội thời Thịnh Đường được duy trì những chuẩn mực đạo đức cao. Đường triều vì thế trở nên huy hoàng.
Đường Thái Tông không chỉ tôn sùng Nho học, mà còn là người phù trì Phật giáo, bảo hộ Đạo giáo, xây dựng cả một hệ thống hoàn thiện điện tế trời đất, tông miếu thờ thần linh, chùa chiền tượng phật. Người dân kính Trời và tin Thần, tôn sùng đạo đức, đọc sách thánh hiền, có trách nhiệm cao đối với sự hưng thịng của xã tắc. Nho gia giảng: “Nhân giả ái nhân”- (Người yêu thương người), Đạo gia giảng: “Ngộ đạo chứng chân”-(Giác ngộ Đạo và chứng được Chân Lý), Phật gia giảng: “Từ bi phổ độ chúng sinh” (Từ bi cứu độ muôn loài). Các tín ngưỡng chính thống giúp cho con người mở rộng nhãn quan, duy trì phẩm chất mộc mạc, thiện lương, thuần chính, tìm cầu chân lý, kiên định hành thiện.
Ở thời Đường, Phật giáo có chủ yếu những tông phái sau: Thiên Thai tông (天台宗), Hoa Nghiêm tông (華嚴宗), Pháp Tướng tông (法相宗), Tịnh độ tông (淨土宗) và Thiền tông (禅宗). Phật giáo thời Đường rất phát triển, có chuyển biến hướng về dân gian. Thiên Thai tông có phụng túng Diệu Pháp Liên Hoa kinh (妙法莲华经), cũng xưng là Pháp Hoa tông. Hoa Nghiêm tông phụng túng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh (大方廣佛華嚴經), thường thích tham dự vào việc chính trị. Tịnh Thổ tông thì có những khuôn tắc sửa đổi khi nhập môn. Thiền tông có phân ra Nam Thiền và Bắc Thiền. Bắc Thiền là của Ngọc Tuyền Đại Thông Thần Tú (神秀) pháp sư, chủ trương thiền định mà dần dần ngộ đạo. Nam Thiền là của pháp sư Huệ Năng (惠能). Đến thời Đường Vũ Tông thì lại có chủ trương hủy diệt đàn áp đạo Phật, sử gọi là Hội Xương diệt Pháp (會昌滅法), khiến cho Phật giáo Nam Thiền suýt bị tiêu vong, mà các tông phái thiểu số của đạo Phật cũng một phen chấn động.
Phật giáo tuy địa vị chính trị không bằng Đạo giáo, nhưng phạm vi truyền bá rất rộng, có thực lực kinh tế lớn, có nhiều tín đồ và tăng ni hơn cả Đạo giáo nhiều.[39]:654 Tư tưởng Phật giáo cũng được truyền bá sâu rộng, phát dương quang đại. Một lượng lớn kinh thư Phật giáo được biên dịch và lưu truyền trong thời kỳ này.
Còn Đạo giáo hay còn gọi là đạo Lão, tôn thờ Lão Tử (gọi ông là Thái Thượng Lão Quân), mà hoàng tộc nhà Đường mang họ Lý, trong khi đó Lão Tử cũng mang họ Lý, nên thuyết đồn rằng Lão Tử là tổ nhà Đường, thành ra Đạo giáo rất được coi trọng đặc biệt là trong giới thượng lưu, cùng với Phật giáo trở thành tôn giáo lớn ở Trung Hoa. Có truyền thuyết kể rằng Đường Cao Tổ đến núi Chung Nam xây Thái Hòa điện, trông thấy Lão Tử tự xưng là tổ nhà Đường, bèn truy phong cho Lão Tử làm Thái Thượng Huyền Nguyên hoàng đế (太上玄元皇帝), bắt tất cả các vương công và trăm quan phải nghiên cứu về Lão Tử và Đạo đức kinh (道德经), về sau Vũ Tắc Thiên lại bắt hoàng tộc và quan lại học cuốn "Lão Tử", cùng với cuốn "Hiếu Kinh" (孝经) và "Luận Ngữ" (论语) làm sách để thi cử khảo hạch kẻ sĩ. Đời Đường Huyền Tông cho đến Đường Đại Tông lại cực lực đề xướng Đạo giáo, khiến đạo này trở nên thịnh phát. Huyền Tông tự mình chú giải "Đạo đức kinh", năm 733, lại lập ra kì thi khoa cử kinh điển giành cho Đạo gia cùng với thi cử của Nho gia, cùng cho các cử nhân thi giáo điển của sách "Minh Kinh" (明經), nâng cấp Đạo học ngang tầm với Nho học về bắt các thí sinh đều phải thông hiểu kinh nghĩa của hai đạo học này. Theo "Tân Đường thư" phần Bách quan chí ghi lại, những năm Khai Nguyên thời Huyền Tông toàn quốc có 1687 cung quán Đạo giáo, trong đó nữ quán có đến 550 nơi, đương thời chủ yếu Đạo giáo có 2 tông phái là: Thanh Kinh Pháp phái (清经法派) và Chính Nhất phái (正一派), có các nhân vật nổi tiếng như: Vương Viễn Tri (王远知), Phan Sư Chính (潘师正), Tư Mã Thừa Trinh (司马承祯), Ngô Quân (吴筠) và Trương Quả (张果). Lý do Đạo giáo được hoàng thất giành cho thiện cảm có nguyên nhân chủ yếu là họ nhiều lần luyện đan để cho hoàng đế được trường sinh bất lão, song trong thành phần của chúng có khả năng có độc nên có nhiều hoàng đế nhà Đường dùng đan trường sinh bất lão đó mà thiệt mạng, như Thái Tông và Tuyên Tông.[39]:706
Ngoại trừ 2 tôn giáo Phật và Lão, còn có Hồi giáo, Cảnh giáo,[chú 17] Bái Hỏa giáoMani giáo là những tôn giáo ngoại lai truyền nhập. Nhưng ảnh hưởng đến xã hội còn nhỏ. Nhà Đường đối với các tôn giáo ngoại lai rất khoan dung nên có nhiều giáo sĩ nước ngoài đã đến truyền thụ đạo pháp và trong đó nhiều nhất là Hồi giáo và Cảnh giáo. Hồi giáo là quốc giáo của nước Đại Thực (Ả Rập), nên cũng gọi là "Đại Thực pháp giáo". Năm 650, đấng tiên tri Muhammad và người cữu phụ là Sa Đức (沙德) đã 2 lần cử sứ giả đến tiếp kiến Đường Cao Tông xin được cho phép truyền bá Hồi giáo, lập một nhà thờ Hồi giáo đầu tiên là chùa Hoài Thánh (怀圣寺) ở tại Quảng Châu. Về những thế kỷ sau, Hồi giáo theo bước của những thương nhân Tây Vực men theo Con đường tơ lụa bằng đường thủy và đường bộ mà đến Trung Quốc khiến tôn giáo này phát triển mạnh mẽ. Cảnh giáo cũng thông qua con đường tơ lụa của các thương nhân Tây Vực mà truyền vào Trung Hoa khi nhà Đường có quan hệ giao thương với nước Đại Tần (tức là đế quốc Đông La Mã), nên cũng gọi là "Đại Tần Cảnh giáo". Năm 638 nhà Đường đã tiếp nhận đạo này và cho xây dựng thánh đường chùa Đại Tần ở Trường An, lại cho dựng bia đá.[40]:154 Nhưng đến năm Hội Xương thứ 5 (845) đời Đường Vũ Tông do nạn diệt Phật, Cảnh giáo cũng đồng thời bị cấm, cho nên về sau gần như tuyệt tích tại Trung Quốc.
Mani giáo được sáng lập từ khoảng năm 242 do một người tên là Mani sống dưới thời vua Shapur I của đế quốc Ba Tư. Sau loạn An Sử, thế lực Hồi Hột mạnh lên, Mani giáo cũng được Hồi Hột che chở truyền giáo tại Trung Hoa, về sau do ảnh hưởng của nạn diệt Phật thời Vũ Tông, Mani giáo cũng bị đả kích và suy yếu trầm trọng nhưng vẫn chưa tuyệt hẳn, các tín đồ dần dần trời khỏi nơi khống chế của chính quyền đến phía nam để kết hợp tôn giáo lại, và chạy đến vùng Phúc Kiến nay để bắt đầu lập địa điểm truyền giáo, lưu truyền đến duyên hải đông nam Chiết Giang, đất Mân, và dần dần chuyển thành tôn giáo bí mật trong dân gian. Mani giáo cũng ảnh hưởng đến các giáo phái về sau này như Minh giáo, Di Lặc giáo, Bạch Liên giáo.[41]

Giáo dục và tuyển quan lại

Nghệ thuật

Li Sixun peizazh.jpg
Do hấp thu được những đặc trưng văn hóa của Tây Vực và sắc thái tôn giáo nên nghệ thuật thời Đường không giống với các triều đại trước và sau đó.[39]:758 Thời Đường Sơ đã có 2 họa sĩ rất nổi danh là Diêm Lập Bản (閻立本) và Diêm Lập Đức (閻立德). Ngô Đạo Tử có tên gọi là "họa thánh" (thánh vẽ), ông là một họa sư chuyên về vẽ nhân vật, sơn thủy, hấp thụ các kỹ thuật và phương pháp của các phái họa của Tây Vực. Ông có một chủ trương riêng là "Ngô đái đương phong" (吳帶當風). Trương Huyên (张萱) và Chu Phưởng (周昉) chủ yếu vẽ tranh về nữ giới, họ có những tác phẩm họa như "Đảo luyện đồ" (搗練圖), "Quắc Quốc phu nhân du xuân đồ" (虢國夫人游春圖, Quắc Quốc phu nhân là chị họ của Dương Quý Phi), "Trâm hoa sĩ nữ đồ" (簪花仕女圖), phát triển xa hơn trong việc vẽ nhân vật. Thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, sơn thủy phong cảnh chủ yếu phối cảnh cho chủ đề nhân vật, nhưng đến thời Tùy Đường, tranh sơn thủy phong cảnh đã trở thành chủ đề. Đương thời khi các phái nhà thơ phân chia ra Bắc phái và Nam phái, nhà thơ Vương Duy rất giỏi về vẽ tranh thủy mặc cảnh non nước, là đại diện tiêu biểu của Nam phái, Tô Thức đời nhà Tống cũng bình luận về tác phẩm của ông rằng: "Trong thơ có họa, trong họa có thơ" (诗中有画,畫中有詩 - Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi). Một họa gia Bắc phái là Lý Tư Huấn (李思訓) rất giỏi trong việc dùng sắc xanh đậm để vẽ cảnh sơn thủy nhiều màu sắc. Lại có Tào Bá (曹霸), Hàn Cán (韓幹) giỏi vẽ ngựa, Hàn Hoảng (韓滉) giỏi vẽ trâu, Tiết Tắc (薛稷) giỏi vẽ chim hạc, Biên Loan (边鸾) rất giỏi vẽ chim công.
Sự nghiệp bích họa thời Đường rất đặc biệt phát triển. Các bích họa trong mộ thất ở hang Mạc Cao là những tác phẩm tinh tế để lại cho người đời. Thời Đường, nghệ thuật điêu khắc đồng dạng xuất chúng. Các hang đá Đôn Hoàng, Long Môn, Mạch Tích Sơn (麥積山) và Bỉnh Linh tự (炳靈寺) là những nơi khắc thể hiện sự phát triển thịnh vượng của nghệ thuật điêu khắc trong thời kỳ này.[39]:761 Hang đá Long Môn với Lô Xá Na Đại PhậtLạc Sơn Đại Phật ở Tứ Xuyên được nhiều người ca ngợi. Sáu con chiến mã ở Chiêu Lăng (lăng mộ của Đường Thái Tông), bức tượng gốm ba màu trong một táng tính tế và đẹp đến phi thường. Nói về điêu khắc có Dương Huệ Chi (楊惠之) được xưng là "tố thánh" (thánh nặn). Thời nhà Đường, những bậc về thư pháp rất tài giỏi. Âu Dương Tuân (歐陽詢), Lư Thế Nam (虞世南) là những thư pháp gia trứ danh thời Sơ Đường. Các loại thư pháp của Âu Dương Tuân ngòi bút rất nghiêm chỉnh, nhất là tác phẩm "Cửu Thành cung lễ tuyền minh" (九成宮醴泉銘, Bài minh về suối rượu cung Cửu Thành). Thư pháp của Lư Thế Nam nét chữ uyển chuyển mềm mại, tác phẩm tiêu biểu như "Khổng Tử miếu đường bi" (孔子廟堂碑), "Nhữ Nam công chúa mộ chí" (汝南公主墓誌) và "Mô Lan đình tự" (摹蘭亭序). Nhan Chân Khanh (顏真卿) và Liễu Công Quyền (柳公權) là hai nhà thư pháp của thời trung hậu kì nhà Đường. Thư pháp của Nhan Chân Khanh đầy đặn, trong chứa gân cốt, cứng kiện mà không bó buộc, tiêu biểu có "Đa bảo tháp bi" (多寶塔碑), "Nghiêm Thị gia bảo miếu bi" (颜氏家寶庙碑) và "Ma Cô tiên đàn kí" (麻姑仙坛记). Nét chữ của Liễu Công Quyền cứng cáp, tiêu biểu có "Huyền bí tháp bi" (玄秘塔碑), người đời gọi hai người này là "Nhan cân Liễu cốt" (顏筋柳骨). Trương HúcHoài Tố rất giỏi về thảo thư, phóng thoáng mà làm rung động, có sự thâm sâu, rất có phong cách và tính nghệ thuật.[39]:755
Các loại âm nhạc ca múa thời Đường cũng rất phát triển. Đường Thái Tông khi dẹp Cao Xương có lấy được nhạc nơi đó, nhập với nhạc ở Trung Nguyên thành 10 bộ nhạc: Yên nhạc (燕樂), Thanh Thương nhạc (清商樂), Tây Lương nhạc (西涼樂), Thiên Trúc nhạc (天竺樂), Cao Ly nhạc (高麗樂), Quy Từ nhạc (龟兹乐), An Quốc nhạc (安國樂), Sơ Lặc nhạc (疏勒乐), Khang Quốc nhạc (康國樂), và Cao Xương nhạc (高昌樂).[42] Sau đến thời Đường Cao Tông, 10 bộ nhạc đã bắt đầu suy lạc, các âm nhạc gia lại nghiên cứu về những loại nhạc vũ mới, còn những loại nhạc này dần dần mất đi về đến thời Đường Huyền Tông thì triệt tiêu hẳn. Đường Huyền Tông bản thân cũng là một âm nhạc gia, nên cũng tự thân diễn tấu được đàn tì bà, trống yết cổ và nhiều loại nhạc cụ và giỏi trong việc sáng tác, như có "Nghê thường vũ y khúc" (霓裳羽衣曲, Khúc múa váy xiêm có màu sắc cầu vồng), "Tiểu phá trận nhạc" (小破陣樂) và hơn hàng trăm nhạc khúc. Họ vô cùng coi trọng nhã nhạc, 10 bộ nhạc được phân thành Tọa bộ kĩ (坐部伎, ngồi tại trên tòa đường diễn tấu) và Lập bộ kĩ (立部伎, đứng trên tòa đường diễn tấu).[43] Hoàng đế đã từng đích thân tuyển 300 người tọa bộ kĩ, hiệu là "Hoàng đế lê viên đệ tử" (Đường Huyền Tông có tài âm nhạc, chọn ba trăm con em nhà nghề vào dạy ở trong vườn lê, vì thế ngày nay gọi rạp hát tuồng là lê viên), Lý Quy Niên (李龜年) và Vĩnh Tân nương tử (永新娘子) là hai người ca hát có tiếng vang một thời. Về vũ đạo (điệu múa) thì nhà Đường có 2 điệu cực kỳ có tiếng là kiện vũ (múa khỏe) và nhuyễn vũ (múa dẻo). Kiện vũ là dùng những tiết tấu sảng khoái, hào hùng mà nên hay, có tác phẩm "A liêu" (阿辽), múa "Chá chi" (柘枝, một điệu múa mà thân mình giống như là không có xương, người xem đều lấy làm kinh dị), "Phất lâm" (拂林), "Đại Vị Châu" (大渭州), "Hoàng chương" (黄獐, con hưu vàng), "A liên" (阿连), "Kiếm khí" (剑器), "Hồ toàn" (胡旋), "Hồ đằng" (胡腾), "Dương liễu chi" (杨柳枝)...nhiều loại. Nhuyễn vũ cũng gọi là văn vũ, nhu mềm uyển chuyển đẹp, tiết tấu thong thả, có các tác khúc "Thùy thủ la" (垂手罗), "Hồi ba nhạc" (回波乐), "Lan lăng vương" (兰陵王), "Xuân oanh chuyển" (春莺啭), "Tá tịch" (借席), "Ô dạ đề" (乌夜啼), "Lương Châu" (凉州), "Lục yêu" (绿腰), "Khuất chá chi" (屈柘枝), "Cam Châu" (甘州). Các loại điệu múa có tiếng như "Thất đức vũ" (七德舞), "Thượng nguyên vũ" (上元舞), "Cửu công vũ" (九功舞), lưu hành trong cung đình. Những người múa rất hay như Dương Quý Phi, Công Tôn Đại Nương (公孫大娘), Tạ A Man (谢阿蛮).[14] Thời nhà Tấn sau loạn Bát Vương, các loại nhạc múa của Tây Vực đã truyền vào Trung Hoa, dung hợp với ca múa Hoa Hạ tạo thành những điệu nhạc hay, truyền nối nhiều thế kỉ, đến thời Đường lại càng có nhiều loại đặc sắc.

Khoa học kỹ thuật

Hoàng đồ ẩn nằm trong hang Mạc Cao ở thị trấn Đôn Hoàng
Khoa học kỹ thuật đời Đường so với thời trước có nhiều phát minh tiến bộ. Nói về các phát minh như "Tứ đại phát minh" của Trung Quốc thì đã có 2 phát minh tập trung trong thời nhà Đường, tức thuốc nổ và bản mộc in ấn.

Xã hội


Một người phụ nữ trong tranh mặc "trang phục Hồ" loại "Phiên lĩnh"
Trong xã hội thời Đường, mặc dù thế lực của giới quý tộc bị tước giảm, nhưng vẫn không tạo ra được sự bình đẳng xã hội. Trong "Đường luật" có ghi rõ rằng, người phân ra 2 loại "lương" (lành, tốt) và "tiện" (hèn, đáng khinh rẻ), tiện dân thì chỉ được kết hôn với tiện dân thôi; những địa chủ có giết hại bộ khúc cũng chỉ phạt hình 1 năm, mà bộ khúc giết hại địa chủ thì xử trảm. Dù cũng đã thi hành chế độ khoa cử tuyển nhân tài, nhưng bọn con em thế tộc vẫn được sự ưu đãi trong tu dưỡng học hành và được dễ đề bạt làm chức tước cao, cho dù không có thi khoa cử đỗ đạt tiến sĩ gì nữa thì việc leo lên chức vẫn không khó gì; Tể tướng thời nhà Đường xuất thân từ quý tộc thế gia không phải là ít.[21]:144 Những tiến sĩ được tuyển bạt thời Đường, một ít có mang hàm nghĩa công bằng xã hội, phòng cái tệ thi thì không nghiêm ngặt,[chú 18] thường có khảo hạch lại thi sinh khi có cả chủ khảo chấm, để xem cái thực học ra sao mà khen hay chê, đề phòng việc thí sinh lợi dụng quyền môn hoặc đút lót quan trường; nhưng mà cũng có những trang tài xuất chúng như Đỗ Phủ, vậy mà đỗ đạt khoa bảng vẫn thấp.[21]:144
Thời nhà Đường, ở phương Bắc có quận Sơn Đông luôn có tập trung những người mang địa vị xã hội rất cao, Thái Tông từng sai Cao Sĩ Liêm biên soạn "Thị tộc chí", hi vọng căn cứ việc chính trị tương lai có được thành tựu kết quả bình đẳng không có sự thiên vị thế tộc mà luôn tuyển người tài dựa vào khoa thi cử, sự đắc thế của bọn quý tộc vẫn không bị lay chuyển địa vị. Cuộc "Ngưu Lí đảng tranh" đã khiến cuộc thi cử trở nên còn hay mất là dựa vào bọn đảng phái, nhưng vẫn không thể cản trở được người thường dân muốn quật khởi chí khoa bảng. Lúc này kỹ thuật in ấn đã lưu hành rộng, sách vở nhiều, tư nhân mở lớp dạy cũng nhiều, học sinh các nơi rất đông và không có cách nào để lũng đoạn trí thức được. Từ trung kì nhà Đường cho đến thời Ngũ Đại liền năm nhiều sự biến loạn, điều đó khiến cho giới sĩ phu ở phương Bắc việc học bị phá hoại không còn như trước nữa, cho đến đời Bắc Tống thì sự học miền Bắc thật điêu linh. Các lãnh tụ sau này cũng không thể trừ bỏ được, do đó có câu "Giàu không quá ba đời", đành cứ theo chế độ khoa cử mà tuyển sĩ thân.
Thời Đường cũng có thịnh hành theo thời đại "phong cách Hồ". Sở dĩ có điều này là do đời Đường có sự pha tạp nhiều các tầng lớp không phải tộc người Hán về tập tục và ngôn ngữ, trong đó chủ yếu có những người thuộc sắc tộc du mục phía bắc và những người Tây Vực truyền phong tục, cũng do phong tục xã hội truyền thừa lại từ thời Ngũ Hồ thập lục quốc khi các dân tộc ngoại lai di dân về phía nam đến Trung Nguyên, những nhân tố tác động này hình thành "phong cách Hồ" rất lưu hành thời Đường. Như "nhạc Hồ", "trang phục Hồ", "thức ăn Hồ" rất cực thịnh ở kinh đô Trường An.[chú 19].}}Các loại phục sức văn hóa của Tây Vực có ảnh hưởng rất lớn đối với thời Tùy Đường, đặc biệt ở vùng phương Bắc khi mà người Hán người Hồ sống hòa quyện chung trong một chế độ, trang phục thường ngày là Hồ phục Tiên Ti, những dịp tế lễ quan trọng thì đổi sang mặc Hán phục (Đường phục). Người phụ nữ có địa vị cao trong xã hội, điều này được phản ánh trong trang phục. Con gái quý tộc và cung đình nhiều người để lộ một nửa ngực còn váy thì làm bằng tơ tằm, mỏng, rộng và thoải mái. Váy yếm là loại trang phục rất thông dụng và đối với ca nữ thường chỉ mặc che đến nách với sắc đẹp sặc sỡ lòe cả mắt, quý tộc nhuộm màu đẹp đẽ tao nhã. Thời nhà Tùy đã dùng sắc vàng để làm hoàng bào cho nhà vua. Đời Đường Cao Tổ đã quy định cấm dân gian mặc trang phục sắc vàng, hoàng bào trở thành trang phục chỉ sử dụng trong hoàng thất.[44][45]

Đánh giá

Nhà Đường, cùng với Nhà Chunhà Hán, được coi là 3 triều đại để lại nhiều dấu ấn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thậm chí về nhiều mặt (lãnh thổ, tôn giáo...) nhà Đường còn vượt hơn 2 triều đại trước. Do vậy nhà Đường còn được người dân Trung Hoa các đời sau ca tụng là "Thịnh thế Thiên triều".
Âu Dương Tu (欧阳修), Tống Kì (宋祁) trong sách "Tân Đường thư" ở phần "Bắc Địch truyện" đối với công tích của nhà Đường đều có khẳng định: "Nhà Đường có đức lớn vậy !" (唐之德大矣, Đường chi đức đại hĩ).
Nhà sử học Hướng Đạt (向达, 1900 - 1966): "Lý Đường là thời đại chỉ có một trong lịch sử, trên có tiếng vang hơn cả Hán, Ngụy, Lục triều. Dưới đến Lưỡng Tống đổi vận mới cho văn minh. Mà có thể làm cho rực rỡ huy hoàng, kế tập những văn vật cũ, hấp thu những tinh anh của ngoại lai. Có những ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư tưởng học thuật thời Lưỡng Tống, là không thể ngược lại được gốc nguồn (nhà Đường) đó".
Vua Minh Hiến Tông: "Từ thời Tam Đại về sau, công lao cai trị không đâu thịnh bằng nhà Đường, mà trong 300 năm triều Đường, không đâu thịnh bằng thời Trinh Quán (Đường Thái Tông)". "Làm việc giúp đời yên dân, thành sự rực rỡ lạ thường, cơ hồ chẳng lúc nào bằng được, có lòng quý thương, sửa mình mà chính lại cái lòng tự lấy làm thẹn với đạo của Nhị Đế Tam Vương, không vị nào thành thật vậy. Nói đến những bậc phát triển cơ nghiệp, đáng chỉ có đây là đỉnh cao rồi vậy".
Nhà Hán Học là Max Weber: "Dựng nên văn hóa và bản đồ Trung Quốc với những bậc dựng nghiệp chân chính, nhà Đường đáng lưu vinh đến muôn đời.
Vương Phu Chi (王夫之) nhà Minh: "Thịnh thế Khai Nguyên, Hán Tống cũng không bằng". "Trước có Hán, sau có Tống, đều không bì kịp".

Các vị vua của nhà Đường


Nhà Đường và Vũ Chu (618907
Miếu hiệu Thụy hiệu Họ tên Thời gian làm vua Niên hiệu Lăng mộ
Nhà Đường (trước thời Vũ Chu)(618690
Cao Tổ (高祖) Thần Nghiêu Đại Thánh Đại Quang Hiếu hoàng đế
神尧大圣大光孝皇帝
Lý Uyên (李渊) 618626 Vũ Đức (武德, 618626) Hiến lăng (獻陵)
Thái Tông (太宗) Văn Vũ Đại Thánh Đại Quảng Hiếu hoàng đế
文武大圣大广孝皇帝
Lý Thế Dân (李世民) 626649 Trinh Quán (貞觀,627649) Chiêu lăng (昭陵)
Cao Tông (高宗) Thiên Hoàng Đại Thánh Đại Hoằng Hiếu hoàng đế
天皇大圣大弘孝皇帝
Lý Trị (李治) 649683 Vĩnh Huy (永徽, 650655)
Hiển Khánh (显庆,656661)
Long Sóc(龙朔, 661663)
Lân Đức (麟德, 664665)
Càn Phù (乾封, 666668)
Tổng Chương (總章, 668670)
Hàm Hanh (咸亨, 670674)
Thượng Nguyên (上元, 674676)
Nghi Phượng (儀鳳, 676679)
Điều Lộ (調露, 679680)
Vĩnh Long (永隆, 680681)
Khai Diệu (开耀, 681682)
Vĩnh Thuần (永淳, 682683
Hoằng Đạo (弘道, 683)
Càn Lăng (乾陵)]]
Trung Tông (中宗)
(bị phế)
Đại Hòa Đại Thánh Đại Chiêu Hiếu hoàng đế
大和大圣大昭孝皇帝
Lý Hiển (李显) 684684 Tự Thánh (嗣圣, 684 Định Lăng (定陵)
Duệ Tông (睿宗)
(bị phế)
Huyền Chân Đại Thánh Đại Hưng Hiếu hoàng đế
玄真大圣大兴孝皇帝
Lý Đán (李旦) 684690 Văn Minh (文明, 684
Quang Trạch (光宅, 684)
Thùy Củng (垂拱, 685688)
Vĩnh Xương ([[永昌, 689)
Tải Sơ (载初, 690)
Kiều Lăng (橋陵)
Vũ Chu690705
Tắc Thiên Thuận Thánh hoàng hậu
則天順聖皇后
Tắc Thiên Đại Thánh hoàng đế
则天大圣皇帝
Vũ Chiếu (武曌) 690705 Thiên Thụ (天授, 690692)
Như Ý (如意, 692)
Trường Thọ (长寿, 692694)
Diên Tải (延載, 694)
Chứng Thánh (証聖, 695)
Thiên Sách Vạn Tuế (天冊萬歲, 695)
Vạn Tuế Đăng Phong (萬歲登封, 696)
Vạn Tuế Thông Thiên (萬歲通天, 696697)
Thần Công (神功, 697)
Thánh Lịch (聖曆, 698700)
Cửu Thị (久視, 700701)
Đại Túc (大足, 701)
Trường An (长安, 701705
Càn Lăng (乾陵)
Nhà Đường(sau thời Vũ Chu)(705907
Trung Tông (中宗)
(phục ngôi)
Đại Hòa Đại Thánh Đại Chiêu Hiếu hoàng đế
大和大圣大昭孝皇帝
Lý Hiển (李显) 705710 Thần Long (神龍, 705707)
Cảnh Long (景龍, 707710
Định Lăng (定陵)
Cung Tông (恭宗) Thương hoàng đế Lý Trùng Mậu (李重茂) 710710 Đường Long (唐隆, 710)
Duệ Tông (睿宗)
(phục ngôi)
Huyền Chân Đại Thánh Đại Hưng Hiếu hoàng đế
玄真大圣大兴孝皇帝
Lý Đán (李旦) 710712 Cảnh Vân (景雲, 710712)
Thái Cực (太極, 712)
Diên Hòa (延和, 712)
Kiều Lăng (橋陵)
Huyền Tông (玄宗) Chí Đạo Đại Thánh Đại Minh Hiếu hoàng đế
至道大圣大明孝皇帝
Lý Long Cơ (李隆基) 712756 Tiên Thiên ([[先天, 712713)
Khai Nguyên (开元, 713741)
Thiên Bảo (天宝, 742756
Thái Lăng (泰陵)
Túc Tông (肅宗) Văn Minh Vũ Đức Đại Thánh Đại Tuyên Hiếu hoàng đế
文明武德大圣大宣孝皇帝
Lý Hanh (李亨) 756762 Chí Đức (至德, 756758)
Càn Nguyên (乾元, 758760)
Thượng Nguyên (上元, 760761)
Bảo Ứng (寶應, 762763)
Kiến Lăng (建陵)
Đại Tông (代宗) Duệ Văn Hiếu Vũ hoàng đế
睿文孝武皇帝
Lý Dự (李豫) 762779 Bảo Ứng (寶應, 762763)
Quảng Đức (廣德, 763764)
Vĩnh Thái (永泰, 765766)
Đại Lịch (大曆, 766779)
Nguyên Lăng (元陵)
Đức Tông (德宗) Thần Vũ Hiếu Văn hoàng đế
神武孝文皇帝
Lý Quát (李适) 779805 Kiến Trung (建中, 780783)
Hưng Nguyên (興元, 784)
Trinh Nguyên (貞元, 785805)
Sùng Lăng (崇陵)
Thuận Tông (顺宗) Chí Đức Hoằng Đạo Đại Thánh Đại An Hiếu hoàng đế
至德弘道大圣大安孝皇帝
Lý Tụng (李诵) 805806 Vĩnh Trinh (永貞, 805) Phong Lăng (丰陵)
Hiến Tông (宪宗) Chiêu Văn Chương Vũ Đại Thánh Chí Thần Hiếu hoàng đế
昭文章武大圣至神孝皇帝
Lý Thuần (李纯) 805820 Nguyên Hòa (元和, 806820) Cảnh Lăng (景陵)
Mục Tông (穆宗) Duệ Thánh Văn Huệ Hiếu hoàng đế
睿圣文惠孝皇帝
Lý Hằng (李恒) 820824 Trường Khánh (長慶, 821824) Quang Lăng (光陵)
Kính Tông (敬宗) Duệ Vũ Chiêu Mẫn Hiếu hoàng đế
睿武昭愍孝皇帝
Lý Trạm (李湛) 824827 Bảo Lịch (寶曆, 825827) Trang Lăng (庄陵)
Văn Tông (文宗) Nguyên Thánh Chiêu Hiến Hiếu hoàng đế
元圣昭献孝皇帝
Lý Ngang (李昂) 827840 Bảo Lịch (寶曆, 825827)
Đại Hòa (大和, 827835)
Khai Thành (開成, 836840)
Chương Lăng (章陵)
Vũ Tông (武宗) Chí Đạo Chiêu Túc Hiếu hoàng đế
至道昭肃孝皇帝
Lý Viêm (李炎) 840846 Hội Xương (会昌, 841846) Đoan Lăng (端陵)
Tuyên Tông (宣宗) Nguyên Thánh Chí Minh Thành Vũ Hiến Văn Duệ Trí Chương Nhân Thần Thông Ý Đạo Đại Hiếu hoàng đế
元圣至明成武献文睿智章仁神聪懿道大孝皇帝
Lý Thầm (李忱) 846859 Đại Trung (大中, 847860) Trinh Lăng (貞陵)
Ý Tông (懿宗) Chiêu Thánh Cung Huệ Hiếu hoàng đế
昭圣恭惠孝皇帝
Lý Thôi (李漼) 859873 Hàm Thông (咸通, 860874) Giản Lăng (簡陵)
Hi Tông (僖宗) Huệ Thánh Cung Định Hiếu hoàng đế
惠圣恭定孝皇帝
Lý Huyên (李儇) 873888 Càn Phù (乾符, 874879)
Quảng Minh (廣明, 880881)
Trung Hòa (中和, 881885)
Quang Khải (光啟, 885888)
Văn Đức (文德, 888)
Tĩnh Lăng (靖陵)
Chiêu Tông (昭宗) Thánh Mục Cảnh Văn Hiếu hoàng đế
圣穆景文孝皇帝
Lý Diệp (李晔) 888904 Long Kỉ (龍紀, 889)
Đại Thuận (大順, 890891)
Cảnh Phúc (景福,892893)
Càn Ninh (乾寧, 894898)
Quang Hóa (光化, 898901)
Thiên Phục (天复, 901904)
Thiên Hựu (天祐, 904)

không (có nhà Hậu Đường truy là Cảnh Tông 景宗) Ai hoàng đế
(Hậu LươngThái Tổ truy)
Chiêu Tuyên Quang Liệt Hiếu hoàng đế
昭宣光烈孝皇帝
(Hậu ĐườngTrang Tông truy)
Lý Chúc (李柷) 904907 Thiên Hựu (天祐, 904907
  • Ghi chú: Sau khi Võ Tắc Thiên bị bức thoái vị năm 705, Đường Trung Tông (Lý Hiển) lên ngôi, khôi phục quốc hiệu Đường. Hoàng hậu họ Vi ám hại Trung Tông, đưa một hoàng tử nhỏ tuổi là Lý Trọng Mậu lên ngôi gọi là Thiếu Đế hay Thương Đế, để lũng đoạn triều chính. Lý Long Cơ phối hợp với cô là Thái Bình công chúa (con Võ Tắc Thiên) làm chính biến, giết chết Vi hậu. Lý Đán lên ngôi, tức là Đường Duệ Tông, Lý Long Cơ được phong làm thái tử.

Tham chiếu

  • Benn, Charles. 2002. China's Golden Age: Everyday Life in the Tang Dynasty. Oxford University Press. ISBN 0-19-517665-0.
  • Schafer, Edward H. 1963. The Golden Peaches of Samarkand: A study of T’ang Exotics. University of California Press. Berkeley and Los Angeles. 1st paperback edition: 1985. ISBN 0-520-05462-8.
  • Schafer, Edward H. 1967. The Vermilion Bird: T’ang Images of the South. University of California Press. Berkeley and Los Angeles.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ thời cận đại, tiên sinh Trần Dần Khác trong các tác phẩm "Đường đại chính trị sử thuật luận cảo" (唐代政治史述论稿)[11] và "Tùy Đường chế độ uyên nguyên lược luận cảo" (隋唐制度渊源略论稿)[12] của mình có viết rằng theo khảo chức thì hoàng tộc họ Lý của nhà Đường không thực sự có nguồn gốc từ vương thất Tây Lương cũng như quý tộc họ Lý Quan Lũng. Hoàng tộc thực ra phát tích từ một tiểu chi hệ họ Lý ở Long Khánh thuộc Triệu Quận, dưới quyền cai trị của triều Bắc Ngụy của hoàng tộc Thác Bạt tộc Tiên Ti. Tổ tiên của hoàng tộc nhà Lý là một trong hai người: Lý Sơ Cổ Bạt (李初古拔) và Lý Mãi Đắc (李買得), họ mang họ Hán nhưng có tên Tiên Ti. Nhờ đó, Trần tiên sinh cho rằng tổ tiên của hoàng tộc họ Lý của nhà Đường là người Hán và đã được ban cho tên Tiên Ti
  2. ^ một thuyết nói Lý Thế Dân, Lưu Văn Tĩnh, Bùi Tịch hợp mưu
  3. ^ a ă Trung văn giản thể: 龟兹; Trung văn phồn thể: 龜茲; bính âm: Qiūcí; Chú âm phù hiệu: ㄑㄧㄡ ㄘˊ, chữ đồng âm trong tiếng Hán: Khâu Từ (丘辞)
  4. ^ a ă Trung văn giản thể: 吐谷浑; Trung văn phồn thể: 吐谷渾; bính âm: Tǔyùhún; Chú âm phù hiệu: ㄊㄨˇ ㄩˋ ㄏㄨㄣˊ, chữ đồng âm trong tiếng Hán là 土育魂。
  5. ^ Trung văn giản thể: 安车骨; Trung văn phồn thể: 安車骨; bính âm: Ānjūgǔ; Chú âm phù hiệu: ㄢ ㄐㄩ ㄍㄨˇ, chữ Hán đồng âm 鹌居古 (Am Cư Cổ)
  6. ^ hoặc Huệ Siêu (惠超)
  7. ^ có một thuyết nói lại độc (吏讀) là do Tiết Thông tạo nên
  8. ^ Trung văn giản thể: 责力; Trung văn phồn thể: ; bính âm: ; Chú âm phù hiệu: ㄐㄧˋ, Hán tự đồng âm: 绩
  9. ^ Trung văn giản thể: 焉耆; Trung văn phồn thể: 焉耆; bính âm: Yānqí; Chú âm phù hiệu: ㄧㄢ ㄑㄧˊ, Hán tự đồng âm: 烟奇
  10. ^ nghĩa là “chuẩn bị tác chiến”。[29]
  11. ^ Tân Đường thư• binh chí: có viết “府兵之置,居无事时耕于野,其番上者,宿卫京师而已。若四方有事,则命将以出,事解辄罢,兵散于府,将归于朝。故士不失业,而将帅无握兵之重,所以防微渐、绝祸乱之萌也。”
  12. ^ thơ (糖霜) Tô Đông Pha thời nhà Tống: "băng bàn tiến hổ phách, hà tự đường sương mỹ" (冰盤薦琥珀,何似糖霜美), "đường sương" có nghĩa là tinh thể đường
  13. ^ nguyên xưng là tam thải đào dũng (三彩陶俑)
  14. ^ Phát triển kinh tế có thể phân thành các giai đoạn: (1)Kinh tế tự nhiên: Trao đổi hàng hóa.(2)Kinh tế tiền tệ: tiền là trung gian (3)Kinh tế tín dụng: các phiếu khoán tín dụng làm trung gian. Cuối thế kỷ thứ 2 đến giữa thế kỷ 8, Trung Quốc chủ yếu là trao đổi hàng hóa, tiền tệ lưu thông ít, vì thế có học giả gọi là "kinh tế tự nhiên trung cổ"
  15. ^ Tham khảo tại Tuân Tử- Thiên luận
  16. ^ Trung văn giản thể: 刘知几; Trung văn phồn thể: 劉知幾; bính âm: Liú Zhījī; Chú âm phù hiệu: ㄌㄧㄡˊ ㄓ ㄐㄧ chữ đồng âm: 留之基 (Lưu Chi Cơ)
  17. ^ tức phái Nestorius của Kitô giáo
  18. ^ nguồn gốc từ hàng giới nhất khí (沆瀣一氣).
  19. ^ Liên quan đến nghiên cứu phong cách Hồ thời Đường, chủ yếu tham khảo tại《唐代長安與西域文明》(三聯書店,1957), trang 1-116;〔Hoa Kỳ〕謝弗《唐代的外來文明》(吳玉貴譯,1995年中國社會科學出版社,1995), trang 13-66

Tư liệu tham khảo

  1. ^ Turchin, Peter; Adams, Jonathan M.; Hall, Thomas D (tháng 12 năm 2006). “East-West Orientation of Historical Empires”. Journal of world-systems research 12 (2): 219–229. ISSN 1076–156x. Truy cập 12 tháng 8 năm 2010.
  2. ^ Ebrey, Walthall & Palais 2006, tr. 91.
  3. ^ Ebrey 1999, tr. 111.
  4. ^ Ebrey 1999, tr. 141.
  5. ^ Du 1998, tr. 37.
  6. ^ Fairbank & Goldman 2006, tr. 106.
  7. ^ Yu 1998, tr. 73–87.
  8. ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ Giang Tăng Khánh (江增慶). “第四篇第一章 隋唐”. Trung Quốc tông sử cương yếu (中國通史綱要).
  9. ^ a ă â b Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第四章〈隋帝國的亂亡〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  10. ^ Từ Tuấn (徐俊) (2000). Trung Quốc cổ đại vương triều hòa chính quyền danh hiệu tham nguyên (中国古代王朝和政权名号探源). Vũ Hán: Hoa Trung Sư phạm Đại học xuất bản xã (华中师范大学出版社). tr. 179–182. ISBN 7562222770.
  11. ^ 陈寅恪 (Trần Dần Khác). 唐代政治史述论稿 (Đường đại chính trị sử thuật luận cảo).
  12. ^ 陈寅恪 (Trần Dần Khác). 隋唐制度渊源略论稿 (Tùy Đường chế độ uyên nguyên lược luận cảo).
  13. ^ Adshead 2004, tr. 40–41.
  14. ^ a ă â b c d Hồ Như Lôi (胡如雷). “Đường (唐)”. Trung Quốc Đại bách khoa toàn thư (中国大百科全书). Trung Quốc Đại bách khoa toàn thư xuất bản xã (中国大百科全书出版社).
  15. ^ a ă Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第五章〈唐太宗的政治〉”. 《Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  16. ^ "Cựu Đường thư" của Tiết Cư Chính
  17. ^ Trung Quốc thông sử của Phạm Văn Lan
  18. ^ a ă â b c d đ Phạm Văn Lan (范文瀾). “第二章 封建经济繁荣疆域大扩张时期——唐”. Trung Quốc thông sử (中國通史) 3.
  19. ^ a ă â b c d đ e ê Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第八章〈唐代的武功(上)”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  20. ^ a ă â b c Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第六章〈武后的稱帝〉”. 《Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  21. ^ a ă â b Hoàng Nhân Vũ (黃仁宇). “第十章 第二帝國:已有突破,但未竟事功”. Trung Quốc đại lịch sử (中國大歷史).
  22. ^ Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第七章〈唐玄宗的政治與安史之亂〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  23. ^ a ă â b Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第十章〈藩鎮的割據〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  24. ^ a ă â Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第十二章〈宦官與黨爭〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  25. ^ a ă Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第十三章〈唐帝國的滅亡〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  26. ^ a ă â b Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第八章〈唐代的武功(下)〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  27. ^ a ă â b Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第十一章〈安史之後的對外關係〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  28. ^ a ă â Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第十六章〈唐代的制度(上)〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  29. ^ “Mạt mã lệ binh (秣馬厲兵)” (bằng Trung văn phồn thể). "重編國語辭典修訂本" của Bộ Giáo dục Trung Hoa Dân Quốc. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2010.
  30. ^ Khâu Thụ Sâm (邱树森) (1996). Trung Quốc Hồi tộc sử (中国回族史). Ninh Hạ Nhân dân xuất bản xã (宁夏人民出版社). ISBN 7-227-01724-9.
  31. ^ a ă â Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第十七章〈唐代的制度(下)〉”. Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  32. ^ a ă â Đại học Phúc Đán biên tập (1982). “第四章〈封建社會北朝隋唐(前期)的經濟〉”. Trung Quốc cổ đại kinh yế giản sử (中國古代經濟簡史).
  33. ^ Phó Cập Quang (傅及光) (tháng 6 năm 2006). “Nghiên cứu văn hóa trà đời Đường (唐代茶文化之研究)” (PDF) (bằng Chinese (Taiwan)). Luận văn thạc sĩ ban thạc sĩ hệ văn học Trung Quốc, Đại học Phùng Giáp. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.
  34. ^ 藝術與建築索引典—唐 Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2011
  35. ^ Ebrey, Walthall, Palais, (2006). East Asia: A Cultural, Social, and Political History. Boston: Houghton Mifflin Company. pg.156.
  36. ^ Bowman, John S. (2000). Columbia Chronologies of Asian History and Culture. New York: Columbia University Press. pg.105
  37. ^ Gernet, Jacques (1962). Daily Life in China on the Eve of the Mongol Invasion, 1250-1276. Stanford: Stanford University Press. ISBN 0-8047-0720-0. pg.60.
  38. ^ Lưu Ngọc Phong (劉玉峰) (2002). “唐代貨幣制度與貨幣流通淺論”. Học báo Đại học Sơn Đông (bằng Trung văn giản thể) (Tế Nam) (6).
  39. ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l Phạm Văn Lan (范文瀾). “第七章〈唐五代的文化概况〉”. Trung Quốc thông sử (中國通史) 3.
  40. ^ Phó Nhạc Thành (傅樂成) (1993). “第十八章〈唐代的宗教〉”. 《Trung Quốc thông sử-Tùy Đường Ngũ Đại sử (中國通史 隋唐五代史).
  41. ^ “唐代摩尼教流傳概況” (bằng Trung văn phồn thể). 佛教沈香林紀念中學. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.
  42. ^ Hướng Đạt (向达). 唐代长安与西域文明·西域传来之画派与乐舞. ISBN 7-5434-4237-X.
  43. ^ 陈凌 陈奕玲. 胡乐新声——丝绸之路上的音乐. tr. 75. ISBN 7-102-03216-1.
  44. ^ Trương Thư Quang (张书光) (1990). 中国历代服装资料. 安徽美术出版社. ISBN 7-5398-0141-7.
  45. ^ Hoàng Nằn Phức (黄能馥) & Trần Quyên Quyên (陈娟娟) (1995). 中国服装史. 中国旅游出版社. ISBN 7-5032-1853-3.

Liên kết ngoài


Tiếng Trung
  • 赵剑敏. 《细说隋唐》. 上海人民出版社. ISBN 7-208-04232-2.
  • 任士英. 《正说唐朝二十一帝》. ISBN 7-101-04773-4.
  • 崔瑞德. 《剑桥中国隋唐史》. 中国社会科学出版社. ISBN 7-500-40561-0 Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp).
  • 王仲荦. 《中国断代史系列—隋唐五代史(上、下)》. 上海人民出版社. ISBN 7-208-04216-0.
  • 张传玺 主编. 《中国古代史纲》(下). 北京大学出版社. ISBN 7-301-00087-1./K•016
  • 《话说中国—大唐气象》. 上海文艺出版社. ISBN 7-5321-2736-2.
  • 《话说中国—变幻中的乾坤》. 上海文艺出版社. ISBN 7-5321-2752-4.
  • 许倬云. 《万古江河》. 上海文艺出版社. ISBN 7-5321-3022-3.
  • 張元, 李孝悌 soạn. 《簡明中國歷史》. 龍騰文化. ISBN 957-458-522-0.
  • 龔書鐸, 劉德麟 chủ biên (2007). 《圖説天下 05:圖説隋、唐、五代》. Đài Bắc: 鳳凰出版社.
Tiếng Anh
  • Abramson, Marc S. (2008), Ethnic Identity in Tang China, Philadelphia: University of Pennsylvania Press, ISBN 978-0-8122-4052-8
  • Cotterell, Arthur (2007), The Imperial Capitals of China: An Inside View of the Celestial Empire, London: Pimlico, ISBN 978-1-84595-009-5
  • de la Vaissière, E. (2005), Sogdian Traders. A History, Leiden: Brill, ISBN 90-04-14252-5
  • Schafer, Edward H. (1967), The Vermilion Bird: T’ang Images of the South, Berkeley and Los Angeles: University of California Press
  • Adshead, S. A. M. (2004), T'ang China: The Rise of the East in World History, New York: Palgrave Macmillan, ISBN 1-4039-3456-8 (hardback).
  • Andrew, Anita N.; Rapp, John A. (2000), Autocracy and China's Rebel Founding Emperors: Comparing Chairman Mao and Ming Taizu, Lanham: Rowman & Littlefield, ISBN 0-8476-9580-8
  • Beckwith, Christopher I. (1987), The Tibetan Empire in Central Asia, Princeton: Princeton University Press, ISBN 0-691-02469-3
  • Benn, Charles (2002), China's Golden Age: Everyday Life in the Tang Dynasty, Oxford University Press, ISBN 0-19-517665-0
  • Bernhardt, Kathryn (July năm 1995), “The Inheritance Right of Daughters: the Song Anomaly?”, Modern China: 269–309
  • Bowman, John S. (2000), Columbia Chronologies of Asian History and Culture, New York: Columbia University Press
  • Brook, Timothy (1998), The Confusions of Pleasure: Commerce and Culture in Ming China, Berkeley: University of California Press, ISBN 0-520-22154-0

Video yêu thích   
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Trở về trang chính

Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống Thơ cho con

No comments:

Post a Comment