Thursday, May 8, 2014

Chào ngày mới 9 tháng 5


CNM365 Chào ngày mới 9 tháng 5 Wikipedia Ngày này năm xưa Ngày Chiến thắng tại nhiều nước Đông Âu và Liên Xô cũ; ngày Độc lập tại Romania. Năm 759 – Trong loạn An Sử, sau khi sát hại An Khánh Tự, Sử Tư Minh xưng là hoàng đế Đại Yên. Năm 1917 – Trên Mặt trận phía Tây của Thế chiến thứ nhất, quân Pháp chiến bại trước quân Đức trong trận sông Aisne lần thứ hai. Năm 1964 – Sau khi hai anh trai bị lật đổ và sát hại, Cố vấn Trung phần của Việt Nam Cộng hòaNgô Đình Cẩn bị xử bắn. Năm 1972 – Bắt đầu chiến dịch Linebacker (hình) của không quânHải quân Hoa Kỳ oanh tạc miền Bắc Việt Nam. Năm 2012 – Một máy bay Sukhoi Superjet 100 gặp nạn khi đang bay trình diễn trên núi Salak tại tỉnh Tây Java, Indonesia, khiến 45 người thiệt mạng.

Chiến dịch Linebacker

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến dịch Linebacker
Một phần của Chiến tranh Việt Nam
Long Bien Bridge destroyed by LGBs 1972.jpg
Cầu Long Biên (Hà Nội) bị bom Mỹ phá hỏng, tháng 5 năm 1972
.
Thời gian 9 tháng 5 – 23 tháng 10, 1972
Địa điểm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Kết quả Cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng
Tham chiến
Flag of the United States.svg Hoa Kỳ
Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hòa
Flag of Vietnam.svg Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chỉ huy
Melvin R. Laird
Thomas H. Moorer
John Dale Ryan
John C. Meyer
John W. Vogt, Jr.
Võ Nguyên Giáp
Văn Tiến Dũng
Phùng Thế Tài
Lê Văn Tri
Hoàng Phương


Tổn thất
VNDCCH tuyên bố: 674 máy bay Hoa Kỳ bị bắn hạ, 125 chiếc bị hư hại,[1] 80 tàu chiến Mỹ bị bắn chìm hoặc hư hại[2] Hoa Kỳ tuyên bố: 134 máy bay Hoa Kỳ bị bắn hạ
10 máy bay VNCH bị bắn hạ
68 máy bay bị hạ, thương vong lớn về thường dân
.
Để giải tỏa áp lực tiến công của Quân giải phóng trong Chiến dịch hè 1972; Hoa Kỳ quyết định mở Chiến dịch Linebacker, ném bom miền bắc Việt Nam, thả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng, nhằm làm kiệt quệ miền Bắc, ngăn chặn sự chi việc cho miền Nam. Phía Bắc Việt Nam gọi chiến dịch này là Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai.
Chiến dịch Linebacker bắt đầu ngày 16 tháng 4 năm 1972, thực sự là một đòn bất ngờ đối với miền Bắc, vì phần lớn lực lượng phòng không đã được điều động bảo vệ hậu phương của Chiến dịch hè 1972. Mặt khác, lần này Hoa Kỳ đã tung ra những loại máy bay và những đòn tiến công mạnh mẽ, ác liệt hơn so với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1964-1968). Ngay ngày đầu tiên của cuộc chiến, Hà Nội bị đánh phá ác liệt. Tổng kho xăng dầu Đức Giang bốc cháy hơn 1 tuần lễ liền. Lần đầu tiên Hải Phòng bị B-52 rải thảm. Các cuộc oanh tạc Hà Nội và Hải Phòng cùng những hoạt động phóng ngư lôi phong toả các hải cảng ở miền Bắc Việt Nam, do Tổng thống Nixon ra lệnh vào tháng 5 để trả đũa Chiến dịch Xuân Hè 1972, đã giáng một đòn nặng nề vào kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.[3] Hoạt động vận chuyển hàng hóa từ bên ngoài vào miền Bắc, cũng như hoạt động tiếp tế của miền Bắc cho các chiến trường miền Nam Việt Nam bị suy giảm rõ rệt, dẫn đến những thay đổi lớn trong chiến cục năm 1972 tại Việt Nam.
Cho đến trước chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng, chiến cuộc diễn ra ác liệt khắp miền Bắc. Cơ sở hạ tầng của miền Bắc từ đường bộ, đường sắt, cầu, cảng, nhà máy, cơ sở sản xuất cho đến đê điều đều bị tàn phá nặng nề. Đổi lại, về phía Hoa Kỳ cũng đã có hơn 1.000 máy bay các loại bị bắn hạ (số liệu của miền Bắc). Trong số các máy bay bị bắn rơi có 34 chiếc B-52, 4 chiếc F111.

Diễn biến

Đợt 1-"Chiến thuật nhảy cừu"

Mở đầu chiến dịch này, ngày 6 tháng 4, Không lực Hoa Kỳ huy động hơn 150 lần chiếc máy bay, trong đó có 18 lần chiếc B-52 phối hợp với các pháo hạm ném bom, bắn phá các kho hàng, chân hàng và trận địa tên lửa của QĐNDVN tại Quảng BìnhVĩnh Linh. Tiểu đoàn 52 Trung đoàn tên lửa 267 thuộc Sư đoàn phòng không 363B đã bắn rơi tại chỗ 1 chiếc F-4 tại Quảng Hưng, Quảng Trạch, Quảng Bình. Đây là chiếc máy bay đầu tiên bị hạ trong Chiến dịch Linebacker.
Ngày 7 tháng 4 Không lực Hoa Kỳ tổ chức nhiều trận không kích lớn vào các đơn vị phòng không của QĐNDVN tại Vĩnh Linh và Quảng Bình; đánh hỏng 6 bộ khí tài, 7 tiểu đoàn tên lửa của các Sư đoàn phòng không 367 và 377 mất sức chiến đấu. Đợt tấn công đầu tiên của Không lực Hoa Kỳ kết thúc ngày 10 tháng 4. Tuy được công nhận bắn rơi 18 máy bay nhưng đợt tấn công này đã làm suy yếu đáng kể sự yểm hộ đất đối không của QĐNDVN cho chiến dịch Trị-Thiên. Phía Việt Nam phản ứng thận trọng. Ngày 7 tháng 4, Quân ủy Trung ương QĐNDVN ra chỉ thị: "Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết bảo vệ miền Bắc và làm tốt nhiệm vụ chi viện tiền tuyến trong tình hình mới".[4]. Đến ngày 9 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN mới ban hành mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho tất cả các lực lượng vũ trang trên toàn miền Bắc.[5]
Sáng ngày 9 tháng 5, phân hạm đội tuần dương và khu trục số 11 thuộc Hạm đội 7 (Hải quân Hoa Kỳ) bắt đầu chiến dịch rải thủy lôi ngăn chặn, cô lập bờ biển Bắc Việt Nam với 7.963 quả ở 43 khu vực bến cảng, cửa sông của 10 tỉnh ven biển từ Quảng Bình đến Quảng Ninh; tập trung nhiều nhất ở các khu vực Hải Phòng, Cửa Hội, Hòn La và cửa sông Gianh.
Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 4, Không lực Hoa Kỳ huy động 50 lần chiếc máy bay, trong đó có 12 chiếc B-52 ném bom khu vực Vinh - Bến Thủy. Ngày 13 tháng 4, 64 lần chiếc máy bay cường kích và 6 chiếc B-52 không kích cầu Hàm Rồng và sân bay Thọ Xuân (căn cứ của MiG-21). Sư đoàn phòng không 365 của QĐNDVN ở khu vực này không bắn rơi được chiếc nào. 3 giờ sáng ngày 16 tháng 4. Không lực Hoa Kỳ tổ chức một trận đánh quy mô vào Hải Phòng; sử dụng 261 phi vụ chiến thuật và 9 phi vụ B-52 dội bom xuống thành phố kết hợp với sử dụng nhiễu điện tử ồ ạt và dày đặc. Các Trung đoàn tên lửa 285 và 238 QĐNDVN bảo vệ thành phố Hải Phòng đã bắn lên 93 quả đạn tên lửa nhưng không trúng chiếc B-52 nào. Sau trận này, tướng Mormoyer, tham mưu trưởng Không lực Hoa Kỳ tuyên bố: "B-52 của Không quân chiến lược Hoa Kỳ có thể đánh bất cứ địa điểm nào trên miền Bắc Việt Nam mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể của đối phương" [6].
Cầu Hàm Rồng bị máy bay Mỹ sử dụng bom LORAN đánh hỏng năm 1972 (ảnh chụp từ trên không)
Trong các trận đánh tháng 4 năm 1972 ở miền Bắc, Không lực Hoa Kỳ đã sử dụng phổ biến các loại máy gây nhiễu điện tử có công suất lớn: ALQ (các phiên bản 51, 87, 100, 101) gây nhiễu radar điều khiển tên lửa đất đối không; ALR-18 gây nhiều radar của MiG-21; ALQ-76QTR-13 gây nhiều ra đa pháo phòng không COH-9A. Các máy bay thế hệ mới được sử dụng có F-4D và E thay cho F-4C, F-105G thay cho F-105F, A-6A-7 thay cho A-4. Các kỹ thuật điều khiển vũ khí hiện đại có: hệ thống điều khiển bom bằng laser ZOT và KNIGHT. Các loại tên lửa chống ra đa mới như AGM-78, AGM-88 cũng được đưa vào sử dụng kết hợp với loại AGM-45 cũ.[7][8]
Về chiến thuật, Không lực Hoa Kỳ không leo thang theo từng địa điểm từ Nam ra Bắc mà đánh theo lối "nhảy cừu": từ Quảng Bình ra Vinh, Thanh Hóa (bỏ qua Hà Tĩnh) đến Hải Phòng, Hà Nội (bỏ qua Nam đồng bằng Bắc Bộ). Từ ngày 6 tháng 4 đến ngày 8 tháng 5, Không lực Hoa Kỳ và không quân của Hải quân Hoa Kỳ đã không kích 857 điểm trên miền Bắc, trong đó có: 345 mục tiêu giao thông, 215 mục tiêu dân sự, 85 mục tiêu quân sự. Các pháo hạm của Hạm đội 7 đã bắn 12.870 quả đạn vào các mục tiêu ven biển từ Đồ Sơn đến Vĩnh Linh. Theo phía VNDCCH, họ đã bắn rơi 89 máy bay của đối phương. Hoa Kỳ chỉ công nhận mất 15 chiếc.[9]

Đợt 2-"Vùng 6"

Đội hình F-4 phối hợp với A-7 không kích miền Bắc Việt Nam
"Vùng 6" là mật danh của Không lực Hoa Kỳ chỉ không phận Hà Nội và các vùng lân cận có bán kính 50 dặm. Ngày 10 và 11 tháng 5, Không lực Hoa Kỳ tổ chức các trận đánh quy mô lớn vào Hà Nội và các khu vực lân cận. Tên lửa phòng không của QĐNDVN không bắn rơi được chiếc nào do bị gây nhiễu nặng bao gồm cả nhiễu trong đội hình từ các máy phát nhiều gắn trên máy bay ném bom, máy bay tiêm kích gây ra cũng như nhiễu ngoài đội hình từ các máy bay EB-66EC-121 gây ra. Các đầu mối giao thông chiến lược như cầu Long Biên, cầu Đuống, Cầu Phú Lương và nhiều khu công nghiệp ở miền Bắc bị máy bay Mỹ đánh hỏng trong thời gian ngắn. Bộ Tham mưu quân chủng phòng không - không quân QĐNDVN phải tổ chức điều chỉnh lại khí tài và tập huấn tác chiến tên lửa đối không để đối phó với các biện pháp chống tên lửa hiện đại của Không lực Hoa Kỳ và tổ chức lại thế trận phòng không trên toàn miền Bắc.[5] Không quân tiêm kích của QĐNDVN bắn rơi 9 máy bay của đối phương (Hoa Kỳ công nhận rơi 5 chiếc). Trung đoàn không quân tiêm kích 923 (QĐNDVN) mất 2 chiếc MiG-17 trong trận bảo vệ cầu Phú Lương (Hải Dương) [10]
Song song với các cuộc không kích vào Hà Nội, Không lực Hoa Kỳ còn tổ chức các đợt tấn công vào các đầu mối giao thông quan trọng ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Trong các ngày từ 7 đến 30 tháng 5, hàng trăm lần chiếc cường kích tổ chức hơn 10 trận không kích cầu Ninh Bình nhưng không phá được cầu, chỉ đánh hỏng được các đoạn đường giao thông ở hai đầu cầu và mất 8 máy bay.
Từ ngày 15 tháng 5 đến cuối tháng 6, Không lực Hoa Kỳ tiếp tục tổ chức các trận đánh lẻ vào "Vùng 6" và các khu vực lân cận. Ngày 6 tháng 6, Trung đoàn tên lửa 261 bắn rơi một chiếc F-4 ở Yên Bái chấm dứt 2 tháng thúc thủ không đánh rơi máy bay đối phương của tên lửa phòng không. Ngày 27 tháng 6, Trung đoàn 261 hạ một F-4 rơi ở Đại Kim (Hà Nội); Trung đoàn 257 đánh rơi 1 F-105G ở Thanh Sơn (Phú Thọ). Đầu tháng 7 năm 1972, Không lực Hoa Kỳ phối hợp với không quân của hải quân Hoa Kỳ tổ chức 6 trận đánh lớn vào Hà Nội. Các đơn vị tên lửa quanh Hà Nội đã cơ động ra vòng ngoài, hình thành thế ngoài đánh vào, bắn rơi 6 chiếc F-4 và F-105. Trong tháng 6, các Trung đoàn không quân tiêm kích 921 và 923 Không quân Nhân dân Việt Nam cũng bắn rơi 16 máy bay của đối phương và chịu tổn thất 4 chiếc. Lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh miền Bắc cùng tham gia với quân đội chính quy đánh các máy bay bay thấp của Hải quân Hoa Kỳ. Trong các ngày 12, 17, 19 và 21 tháng 7 các đơn vị này đã bắn rơi 3 chiếc A-7 và 1 chiếc F-4H. Ngày 27 tháng 6, Không quân Mỹ tổ chức một trận tập kích lớn vào Hà Nội với 24 máy bay cường kích và 20 máy bay tiêm kích F-4 yểm hộ. 5 chiếc MiG-21MF của Không quân Nhân dân Việt Nam hạ 4 chiếc F-4E của các Liên đội không quân chiến thuật số 366 và 423 của Không quân Hoa Kỳ tại vùng trời Tây Bắc Việt Nam (các F-4 bị rơi có số hiệu 68-0314, 67-0248, 69-7271, 69-7296); bắn bị thương 1 F-4E (số hiệu 67-0243).[11]
Trong tháng 7 năm 1972, VNDCCH công bố bắn rơi 43 máy bay của không quân và hải quân Hoa Kỳ. Phía Hoa Kỳ ghi nhận từ ngày 10 tháng 5 đến 30 tháng 7, họ chỉ mất mất 35 chiếc.[9]

Đợt 3-"Không kích mở rộng"

Một chiếc F-4 của Không lực Hoa Kỳ bị trúng tên lửa SAM-2 khi đang không kích miền Bắc Việt Nam
Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1972, Không lực Hoa Kỳ giảm bớt cường độ các đợt đánh phá vào Vùng 6 và mở rộng đánh phá ra các tuyến giao thông quan trọng ở phía Bắc, phía Nam Hà Nội (quốc lộ số 1) và phía Đông (quốc lộ số 5, quốc lộ số 10). Trọng điểm không kích trong thời gian này là các cầu, phà đầu mối (Sông Hóa, Bắc Giang, Đáp Cầu, Tân Đệ, Phú Lương, Ninh Bình, Hàm Rồng...), các chân hàng, kho hàng (Hải Phòng, Đồng Mỏ, Đông Anh), các trận địa tên lửa phòng không, các sân bay, các nhà ga đầu mối trên các tuyến đường sắt Hà Nội-Thanh Hòa-Vinh, Hà Nội-Đồng Đăng, Hà Nội-Hải Phòng, Hà Nội-Yên Bái và các kho xăng, dầu. Quân chủng phòng không-không quân QĐNDVN tổ chức thêm 3 trung đoàn pháo cao xạ, bố trí lại thế trận từ tập trung bảo vệ yếu địa Hà Nội sang phân tán ra các địa bàn đường 1 Bắc, đường 1 Nam... tổ chức các cụm phòng không bảo vệ các đầu mối giao thông.[5].
Ngày 25 tháng 9, Bộ tư lệnh Không lực Hoa Kỳ điều 2 đại đội gồm 48 máy bay cường kích F-111A thuộc Liên đội không quân chiến thuật số 47 đến căn cứ Takhli (Thái Lan) với nhiệm vụ phối hợp với các máy bay tầm thấp A-6 và A-7 của không lực Hải quân Hoa Kỳ tiêu diệt các trận địa tên lửa SAM. F-111A có góc cánh thay đổi (cụp-xòe), có vận tốc siêu âm, mang được 8 tấn bom, có thể bay thấp cách mặt đất 60 m, lần đầu tiên xuất hiện trong chiến tranh Việt Nam. Cũng trong tháng 9, Quân chủng phòng không - không quân QĐNDVN đã xây dựng xong phương án đối phó với các cuộc tập kích đường không lớn bằng B-52.[12]
Ngày 6 tháng 10, Không lực Hoa Kỳ tổ chức cuộc oanh kích lớn vào Hà Nội với đội hình hơn 40 máy bay tiêm kích và cường kích, tập trung đánh các trận địa tên lửa phòng không của QĐNDVN ở Chèm, Dục Tú, Đại Chu, Yên Nghĩa, Bắc Hồng, Song Mai. Ngày 8 tháng 10, Không quân chiến thuật Hoa Kỳ tiếp tục tấn công các sân bay quanh Hà Nội. Ngày 11 tháng 10, máy bay của Hải quân Mỹ tập kích Hải Dương. Trong loạt trận này, các đơn vị tên lửa của QĐNDVN đã áp dụng thành công các biện pháp chống tên lửa tự dẫn AGM-87 và AGM-88 của không quân Hoa Kỳ, không những không bị tổn thất mà còn bắn rơi 4 máy bay cường kích. Đêm 17 tháng 10, một máy bay F-111A bị súng phòng không tầm thấp hạ tại cầu Tiền Châu, Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1972, VNDCCH công bố kết quả bắn rơi 221 máy bay của đối phương. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ chỉ thừa nhận mất 93 chiếc.[11]

Đợt 4-"Kéo dãn đối phương"

Ngày 8 tháng 10, tại Hội nghị Paris, phía VNDCCH đưa ra Dự thảo hiệp định hòa bình. Đoàn Hoa Kỳ do Henry Kissinger dẫn đầu đã cùng đoàn VNDCCH thảo luận, tu chỉnh dự thảo này trong ba ngày và đi đến thoả thuận sẽ ký tắt Hiệp định vào ngày 23 tháng 10 tại Hà Hội, ký chính thức vào ngày 26 tháng 10 tại Paris. Trước đó, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt ném bom miền Bắc từ ngày 18 tháng 10. Ngày 20 tháng 10, phía Hoa Kỳ đề nghị lùi thời gian biểu lại năm ngày. Phía VNDCCH chấp nhận. Đến ngày 23 tháng 10, Tổng thống Richard Nixon tuyên bố đơn phương ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam nhưng không phải là tất cả mà chỉ từ vĩ tuyến 20 trở ra. Cùng ngày, Tổng thống Richard Nixon cũng gửi công hàm cho Phạm Văn Đồng đề nghị có thêm một cuộc gặp riêng nữa ở Paris vì có nhiều vấn đề kỹ thuật xuất hiện. Vấn đề đó chính là bốn điều kiện mà Nguyễn Văn Thiệu đòi phải đáp ứng để ký kết hiệp định:
Một chiếc B-52D (số đuôi 56-0110) cùng kiểu với chiếc trong ảnh này đã bị SAM-2 bắn trúng ngày 22/11/1972, rơi cách sân bay Nakhon Phanom 20 km
1- Không có chính phủ liên hiệp;
2- Quân miền Bắc phải rút khỏi miền Nam;
3- Tôn trọng tính trung lập của khu phi quân sự;
4- Giải quyết những bất đồng chính trị còn lại giữa hai miền mà không có sự can thiệp nước ngoài.[13]
Từ ngày 23 tháng 10, Không lực Hoa Kỳ tập trung đánh phá các tuyến giao thông ở các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào. Các khu vực trọng điểm Tân Kỳ, Triều Dương, Đô Lương (trên tuyến đường 15) thường xuyên bị B-52 oanh kích. Từ cuối tháng 10 đến giữa tháng, Không lực Hoa Kỳ đã ném xuống các mục tiêu ở khu 4 hơn 1.000 tấn bom trong hơn 60 trận đánh nhưng không ngăn chặn được việc vận chuyển 21.000 tấn hàng qua khu vực này, còn bị mất thêm 11 máy bay cường kích. Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 11, các Tiểu đoàn tên lửa 43, 44 của Sư đoàn phòng không 365 bắn trúng 1 chiếc B-52D có số đuôi 55-0110, mật danh liên lạc Olive 2, trên độ cao 25.000 ft tại vùng trời Nghệ An. Chiếc máy bay này cố gắng bay về hạ cánh xuống sân bay Nakhon Phanom nhưng khi còn cách sân bay 20 km thì bị rơi. Theo thống kê của Marshall, chiếc này bị MiG-21 bắn, nhưng theo thống kê của Hobson, nó bị SA-2 bắn.[9][11]
Đầu tháng 11, Bộ Tổng tham mưu và Bộ tư lệnh quân chủng phòng không-không quân QĐNDVN đứng trước hai sự lựa chọn, hoặc co các đơn vị tên lửa về quanh Hà Nội và Hải Phòng, hoặc phòng thủ Hà Nội từ xa. Ngày 15 tháng 11, Bộ Tổng tham mưu thực hiện nghị quyết của Quân uỷ Trung ương điều Trung đoàn tên lửa 267 vào bảo vệ địa bàn Thanh Hóa. Tuy nhận được Trung đoàn 274 từ Quảng Bình ra tăng cường cho lực lượng tên lửa bảo vệ Hà Nội nhưng trung đoàn này chỉ còn 1 tiểu đoàn đủ khí tài, có thể tác chiến được. Ngày 8 tháng 12, Bộ tổng tham mưu tiếp tục ra lệnh điều Trung đoàn 261 vào phía Nam. Bộ tư lệnh phòng không-không quân phải mất hai ngày thuyết phục, Bộ Tổng tham mưu mới đồng ý giữ trung đoàn này lại.[5] Trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" chính Trung đoàn 261 là một trong hai đơn vị chủ công, bắn rơi nhiều B-52 nhất. Do sự điều động thay đổi lực lượng này, các tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp của lực lượng phòng không QĐNDVN quyết định bố trí các đơn vị tác chiến theo các hướng chủ yếu, thứ yếu và phối hợp bổ trợ, tạo ra càng nhiều vùng "trùng hỏa lực" càng tốt.[12]
Với các biện pháp điều động binh lực phòng không được ghi nhận như trên, về hình thức, có vẻ như phía Mỹ đã đạt được mục đích kéo dãn lực lượng tên lửa phòng không của QĐNDVN ra xa khu vực Hà Nội và Hải Phòng. Lực lượng tên lửa SA-2 bảo vệ Hà Nội chỉ còn bằng 1/3 so với năm 1967.[4] Đầu tháng 12 năm 1972, lực lượng phòng không của QĐNDVN phòng thủ miền Bắc như sau:
  • Sư đoàn phòng không Hà Nội (361) gồm 2 trung đoàn + 1 tiểu đoàn tên lửa SA-2 (tổng cộng 9 tiểu đoàn hỏa lực), 5 trung đoàn pháo cao xạ. Các đơn vị khác tham gia bảo vệ Hà Nội có 3 trung đoàn không quân tiêm kích (thuộc Bộ tư lệnh phòng không-không quân, 4 đại đội pháo 100 mm và 226 trung đội súng máy phòng không (thuộc Bộ tư lệnh Thủ đô). Các Trung đoàn 276 và 277 trang bị tên lửa SA-3 mới từ Azerbaijan và Armenia về nước nhưng khí tài không về kịp nên coi như không tham chiến.
  • Sư đoàn phòng không Hải Phòng (363) gồm 2 trung đoàn tên lửa SA-2 (mỗi trung đoàn chỉ có 3 tiểu đoàn hỏa lực); Trung đoàn cao xạ 252 (4 tiểu đoàn, có 2 đại đội pháo 100 mm), một cụm súng máy cao xạ hạng nặng gồm 36 khẩu kiểu ZPU-2, ZPU-4 và 12 khẩu DShK 12,7 mm; hơn 80 trung đội súng máy tầm thấp.
  • Hướng vùng núi phía Bắc có Trung đoàn 268 trang bị tên lửa Hongqi-2 của Trung Quốc nhưng không chiến đấu được do khí tài bị đánh hỏng trong trận các oanh kích tháng 8 tại Bắc Giang, 5 trung đoàn pháo cao xạ, trong đó có trung đoàn 256 pháo 100 mm bảo vệ Thái Nguyên.
  • Hướng Nam Hà Nội có Sư đoàn phòng không 365 ở Thanh Hóa, Nghệ An, Sư đoàn phòng không 367 ở Quảng Bình, Vĩnh Linh và Trung đoàn không quân tiêm kích 927 (thuộc Bộ tư lệnh phòng không - không quân).[4]
Phần Bắc lãnh thổ Guam (USA) nhìn từ trên không; phía trên, bên phải là căn cứ không quân Anderson
Cùng thời gian này, Không lực Hoa Kỳ một mặt tiếp tục oanh kích các mục tiêu đường giao thông, nhà ga, cầu phà, bến cảng, kho hàng... ở phía nam vĩ tuyến 20; mặt khác, tích cực chuẩn bị cho Chiến dịch Linebacker II. Đến ngày 16 tháng 12, Không lực Hoa Kỳ đã tập trung xong Tập đoàn không quân chiến lược số 8 (SAC-8AF) gồm 3 không đoàn: Không đoàn lâm thời số 57 (57AD-P) ở Anderson (Guam), Không đoàn lâm thời số 17 (17AD-P) ở U-Tapao (Thái Lan) và Không đoàn phục vụ chiến đấu số 376 (376SW) ở căn cứ Kadena trên đảo Okinawa (Nhật Bản). Phối hợp và yểm hộ cho lực lượng này có Tập đoàn không quân chiến thuật số 7 (TAC-7AF) ỏ Đông Nam Á và Lực lượng đặc nhiệm 77 gồm các máy bay của hải quân trên các tàu sân bay đậu tại "Trạm Yankee" trên Vịnh Bắc Bộ.[14] Toàn bộ lực lượng gồm có:
  • Máy bay ném bom chiến lược B-52D: 107 chiếc; tại U-Tapao (Thái Lan): 54 chiếc thuộc Liên đoàn 307 (có 4 chiếc đang sửa chữa, bảo dưỡng), tại Guam: 53 chiếc thuộc Liên đoàn 43; (có 3 chiếc đang sửa chữa, bảo dưỡng)
  • Máy bay ném bom chiến lược B-52G: 99 chiếc thuộc Liên đoàn 72, đều ở Guam (có 2 chiếc đang sửa chữa-bảo dưỡng);
  • Máy bay tiếp dầu KC-135 (các version A và Q): 53 chiếc thuộc liên đoàn 310 ở U-Tapao; 96 chiếc thuộc không đoàn 376 ở Okinawa và căn cứ Clark (Philippines);
  • Máy bay trinh sát SR-71: 10 chiếc tại Okinawa;
  • Máy bay trinh sát U-2C và DC-130: mỗi loại 2 chiếc tại U-Tapao.
  • Máy bay ném bom F-111A: 48 chiếc tại Takhli (Thái Lan);
  • Máy bay tiêm kích-ném bom F-4 (các version C, D, E): 267 chiếc; tại Udorn (Thái Lan) 99 chiếc, tại Korat (Thái Lan) 30 chiếc, tại Ubon (Thái Lan) 111 chiếc, tại Nậm Phong (Thái Lan) 27 chiếc;
  • Máy bay cường kích-gây nhiễu điện tử F-105G: 23 chiếc tại Korat;
  • Máy bay cường kích A-7C: 72 chiếc tại Korat;
  • Máy bay tác chiến điện tử EB-66: 17 chiếc tại Korat;
  • Máy bay trinh sát-chỉ huy tác chiến trên không EC-121: tại Korat (không rõ số lượng);
  • Máy bay tìm kiếm-cứu hộ C-130: tại Korat (không rõ số lượng);
  • Trực thăng tìm kiếm-cứu hộ HH-53: tại Nakhon Phanom (Thái Lan) (không rõ số lượng).[15]
Vị trí của "Trạm Yankee", nơi đậu các tàu sân bay Hoa Kỳ ở Biển Đông
Lực lượng hải quân của hạm đội 7 Hoa Kỳ tham gia chiến dịch Linebacker II có:
  • Tàu sân bay USS America (CVA-66) có 75 máy bay
  • Tàu sân bay USS Enterprise (CVAN-65) có 75 máy bay
  • Tàu sân bay USS Midwey (CVA-41) có 55 máy bay
  • Tàu sân bay USS Oriskany (CVA-34) có 45 máy bay
  • Tàu sân bay USS Saratoga (CVA-60) có 65 máy bay
  • Tàu sân bay USS Ranger (CVA-61) có 65 máy bay
Ngoài ra còn có hơn 30 tuần dương hạm, khu trục hạm và hơn 20 tàu chở bom đạn, chở dầu, hậu cần, bệnh viện... Không quân và hải quân vận tải của Hoa Kỳ đã vận chuyển hàng vạn tấn xăng dầu, hơn 500 nghìn tấn bom đến các căn cứ không quân Kadena (Okinawa, Nhật Bản), Anderson (Guam), U-Tapao và các căn cứ khác ở (Thái Lan).
Qua kinh nghiệm chiến đấu trong Chiến dịch Sấm Rền và tổng kết các cuộc không kích của máy bay Mỹ từ tháng 4 đến cuối tháng 11 năm 1972. Bộ tư lệnh quân chủng phòng không - không quân QĐNDVN dự báo B-52 sẽ tấn công Hà Nội từ bốn hướng. Trong đó, có hai hướng chủ yếu và hai hướng thứ yếu:
  • Hướng thứ nhất (chủ yếu): lấy ngã ba sông Việt Trì làm điểm kiểm tra tập hợp đội hình và tấn công Hà Nội theo trục sông Hồng (Tây Bắc - Đông Nam); sau khi cắt bom thoát ly ra biển theo hướng Đông Nam hoặc sang Lào Theo hướng Tây Nam.
  • Hướng thứ hai (chủ yếu): lấy núi Viên Nam (nam Ba Vì) là điểm kiểm tra tập hợp đội hình đột nhập không phận Hà Nội từ phía Tây; thoát ly theo hướng Đông Nam ra biển hoặc "uốn móc câu" trở lại Lào.
  • Hướng thứ ba (thứ yếu): lấy ngã ba sông Lục Nam và Sông Thương làm điểm kiểm tra, tập hợp đội hình và bay vào Hà Nội từ phía Đông Bắc qua Hà Bắc; thoát ly ra biển hoặc bay thẳng sang Lào.
  • Hướng thứ tư (thứ yếu): lấy cửa Ba Lạt làm điểm kiểm tra tập hợp đội hình và bay thẳng lên Hà Nội theo trục sông Hồng (Đông Nam-Tây Bắc); thoát ly phía Tây, Tây Bắc, Tây Nam sang Lào.
Thực tế Chiến dịch Linebacker II sau đó cho thấy các tốp B-52 sử dụng hướng thứ nhất và thứ hai trong 2/3 số phi vụ, các hướng thứ hai và thứ tư được sử dụng ít hơn.
Các đường bay đột kích của B-52 vào Hải Phòng được dự báo có hai hướng:
  • Hướng thứ nhất: lấy cửa Nam Triệu làm điểm kiểm tra và đột nhập Hải phòng từ phía chính Đông
  • Hướng thứ hai: lấy cửa sông Văn Úc làm điểm kiểm tra tập hợp đội hình vào đánh Hải Phòng từ phía Tây Nam.
Trên thực tế, các tốp B-52 vào Hải Phòng từ ngày 22 tháng 12 đến ngày 26 tháng 12 đều sử dụng cả hai đường bay này.[4]
Tại Paris, cuộc đàm phán Việt Nam - Hoa Kỳ một lần nữa lâm vào bế tắc và đây cũng là lần bế tắc cuối cùng. Đêm 12 tháng 12, Chánh văn phòng Nhà trắng Heizman thừa uỷ quyền của Richard Nixon gửi một bức điện cho Kissinger có đoạn viết: Chúng ta cần tránh làm bất cứ điều gì có vẻ như là chúng ta phá vỡ thương lượng một cách đột ngột. Nếu xảy ra tan vỡ thì phải làm như là do họ chứ không phải do chúng ta. Trong bất cứ trường hợp nào, Hoa Kỳ không được chủ động cắt đứt cuộc nói chuyện. Chúng ta cần yêu cầu hoãn cuộc họp để tham khảo thêm".[13] Ngày 15 tháng 12, đàm phán ở Paris bế tắc, Lê Đức ThọKissinger chia tay nhau tại sân bay Le Bourger (Paris). Ngày 16 tháng 12, Kissinger họp báo tại Washington DC đổ lỗi cho VNDCCH kéo dài đàm phán. Tối 18 tháng 12, khi Lê Đức Thọ vừa về đến nhà (sau khi ghé qua Maskva và Bắc Kinh) thì những trái bom đầu tiên từ B-52 trong chiến dịch Linebacker II rơi xuống Hà Nội.[16]
Tổng thống Nixon viết:
"Phải nói thẳng với Brezhnev rằng chừng nào người Bắc Việt Nam tiếp tục sát hại người miền Nam và người Mỹ ở đây, thì chừng đó Tổng thống Mỹ sẽ còn phải thường xuyên cho oanh tạc các căn cứ quân sự ở miền Bắc"
Và ông cũng đã bày tỏ với công luận:
"Nếu như sự hiểu biết của chúng ta đối với người Nga luôn cho thấy rằng chúng đã bắt đầu và cuối cùng là giảm bớt mức độ cuộc oanh tạc trong khi kẻ thù vẫn tiếp tục quy mô chiến tranh của nó, thì chúng ta sẽ phải chuốc lấy những điều tồi tệ nhất của hai phái: sự coi thường của phía tả và sự chán nản hoàn toàn của phía hữu".[3]

Chú thích

  1. ^ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tập VIII
  2. ^ Victory in Vietnam, p. 301.
  3. ^ a ă Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam-Ilya V. Gaiduk Chương 10 Giữa sự hoà hoãn và Việt Nam
  4. ^ a ă â b Lịch sử bộ đội tên lửa phòng không 1965-2005. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005
  5. ^ a ă â b Lịch sử quân chủng phòng không-không quân. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2006
  6. ^ Green Wood. Airforce in Vietnam war - the hubris of power. Solomon press. London. 1973
  7. ^ Karl J. Eschmann. Linebacker -The Untold Story of the Air Raids Over North Vietnam
  8. ^ Marshall L. Mitchel. 11 Days of Christmas, published 2002.
  9. ^ a ă â Chris Hobson. Vietnam Air Losess - United States Air Force, Navy and Marine Corps Fixed-Wing Aicraft Losses in Southeast Asia 1961-1973.
  10. ^ Lịch sử Trung đoàn không quân 923 (1965-2000). NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2000
  11. ^ a ă â Marshall L. Michell III. Air Combat Over North Vietnam 1965-1972. Naval Institute Press, 1997.
  12. ^ a ă Quân khu Thủ đô (Nguyễn Minh Tâm: chủ biên). Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không. NXB Quân đội nhân dân. 2008
  13. ^ a ă Henry Kissingerr. A la maison blanche 1968-1973. Edition Fayard. Paris. 1979
  14. ^ James. R. McCarthy and Robert E. Rayfield. Linebacker II A view from the rock. Office of Air force history - United States Air force. Washington DC. 1985.
  15. ^ Terry Horstead. History of Strategic Air Command - History of Linebacker II-Vietnam.
  16. ^ Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris. NXB Công an nhân dân. Hà Nội. 2002

Ngày chiến thắng (9 tháng 5)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngày chiến thắng
Ngày chiến thắng
Pháo hoa mừng chiến thắng ở điện Kremli, Moskva, 9/5/1945
Tên chính thức tiếng Nga: День Победы, Den' Pobedy'
Cử hành bởi Armenia, Azerbaijan, Belarus,
Cộng hòa Srpska, Serbia, Gruzia,
Đức, Israel, Kazakhstan, Kyrgyzstan,
Moldova, Montenegro, Nga, Tajikistan,
Turkmenistan, Ukraina, Uzbekistan
Ngày 9 tháng 5
Quân đội Nga diễu binh tại Quảng trường Đỏ ngày 9 tháng 5 năm 2005
Ngày Chiến thắng (tiếng Nga: День Победы, chuyển tự La Tinh: Den Pobedy) được coi ngày kỷ niệm chiến thắng hoàn toàn của các nước Đồng Minh chống phát xít (trong đó có Liên Xô) đối với quân đội Đức Quốc xã. 22 giờ 43 phút ngày 8 tháng 5 năm 1945 theo giờ Berlin (tức 0 giờ 43 phút ngày 9 tháng 5 theo giờ Moskva), tại một trường quân sự cũ ở Karlshorst gần Berlin trước sự chứng kiến của đại diện các cường quốc đồng minh, các đại diện toàn quyền được uỷ nhiệm của nước Đức Quốc xã ký vào biên bản xác nhận họ đầu hàng không điều kiện.[1] - Các nước đồng minh chống phát xít ở phương Tây cũng kỷ niệm trước đó một ngày. 2 giờ 41 phút ngày 7 tháng 5, (giờ GMT, tức 5 giờ 41 sáng ngày 7 tháng 5 theo giờ Moskva) tại Reims (Pháp), các đại diện quân đội Đức Quốc xã đã ký biên bản xác nhận sự đầu hàng sơ bộ của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía Tây và Bắc Ý. Kể từ năm 1946 trở đi, Liên Xô (cũ), các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ), các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng như Liên Bang Nga và các nước trong Cộng đồng SNG hiện nay đều lấy ngày 9 tháng 5 làm ngày chiến thắng phát xít Đức trong khi các nước Tây Âu và Hoa Kỳ lấy ngày 8 tháng 5 theo sự công bố chính thức của văn bản Reims.[2]
Tại Liên Xô (cũ) cũng như Liên Bang Nga và các nước trong cộng đồng SNG hiện nay, Ngày Chiến thắng được coi là ngày quốc lễ và là ngày nghỉ. Trong ngày này, các lễ hội kỷ niệm được tổ chức tại Moskva, thủ đô các nước cộng hoà liên bang và nhiều thành phố lớn. Tại những năm kỷ niệm tròn 5 và tròn 10 (so với năm 1945), các lễ hội được tổ chức với quy mô lớn hơn, bao gồm các cuộc duyệt binh, diễu binh của quân đội và các cuộc diễu hành của quần chúng nhân dân. Theo truyền thống có từ ngày 9 tháng 5 năm 1947 và cho đến hiện nay, các lễ duyệt binh tại Moskva luôn được tổ chức tại Quảng trường Đỏ, lấy Lăng Lenin làm lễ đài và lấy Điện Kremli, biểu tượng quyền lực chính trị của Liên Xô (trước đây) và nước Nga (hiện nay) làm hậu cảnh chính.[3]
Vì những lý do trên mà người Nga gọi ngày 8 tháng 5 là "Ngày Chiến thắng ở Châu Âu" (День Победы в Европе) để phân biệt với ngày chiến thắng 9 tháng 5 của mình. Ngược lại Hoa Kỳ, Anh và các nước phương Tây gọi ngày 9 tháng 5 là "Ngày Chiến thắng (9 tháng 5)": Victory Day (9 May) để phân biệt với ngày 8 tháng 5 mà họ gọi là "Ngày Chiến thắng ở Châu Âu" (Victory in Europe Day, viết tắt là V-E Day hay VE Day).[4]
Tại các nước Tây Âu, AnhHoa Kỳ, trong ngày 8 tháng 5 (cũng là ngày 9 tháng 5 theo múi giờ Moskva và một số nước Đông Âu), chính quyền, các hiệp hội cựu chiến binh, các tổ chức đấu tranh vì hoà bình và nhiều tổ chức chính trị, xã hội khác cũng tổ chức lễ kỷ niệm này nhưng với tính chất của một ngày hội nhiều hơn là lễ nghi. Đối với Hoa Kỳ, quân đội và nhân dân Hoa Kỳ cũng có một ngày chiến thắng khác của riêng mình với quy mô và mức độ không thua kém ngày ngày 9 tháng 5; đó là ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên Chiến hạm Missuri neo đậu trong vịnh Tokyo, các đại diện có thẩm quyền của Đế quốc Nhật Bản ký biên bản xác nhận sự đầu hàng vô điều kiện của họ trước đại diện toàn quyền các nước đồng minh chống phát xít.[5] Tên tiếng Anh của ngày này là Victory over Japan Day, viết tắt là V-J Day hay VJ Day. Người Triều Tiên, Uzbekistan, gọi đây là "ngày Giải phóng" (Chogukhaebang'ŭi nal hay Kwangbokchŏl). Còn người Nhật gọi là là "ngày kỷ niệm kết thúc chiến tranh" (Chung chiến kỷ niệm nhật, 終戦記念日, Shūsen-kinenbi).
Trong một nghị quyết cuối năm 2004, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã gọi ngày này là Ngày Tưởng niệm và Hòa giải. Không chỉ với ý nghĩa là Ngày Chiến thắng, các ngày 8 và 9 tháng 5 còn được coi là Ngày Tưởng niệm và Ngày Hoà giải để tưởng nhớ các nạn nhân đã chết trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai và để thực hiện sự hoà giải giữa các dân tộc.

Diễn biến các sự kiện trong các ngày đầu tháng 5 năm 1945

Tình hình mặt trận Xô-Đức

Trung úy William Robertson, quân đội Hoa Kỳ và Trung úy Alexander Sylvashko, quân đội Liên Xô gặp nhau tại Torgau. (Phía sau họ là tấm biển có dòng chữ "Đông Tây hội ngộ")
Lúc 10 giờ sáng 30 tháng 4 năm 1945, các binh sỹ Liên Xô Alexei Berestov, Mikhail Yegorov và Meliton Kantaria thuộc Trung đoàn bộ binh 150, Sư đoàn bộ binh 2 (Huân chương Kutuzov), thuộc Quân đoàn bộ binh 79, Tập đoàn quân xung kích 3, Phương diện quân Belorrusia 1 đã cắm là cờ chiến thắng lên nóc nhà Quốc hội Đức. Cũng trong ngày 30 tháng 4, Văn phòng đế chế (còn gọi là Toà nhà Đế chính) nằm trên đại lộ Friedrich Wilheim bị Quân đội Liên Xô đánh chiếm. Ngày 2 tháng 5, đến lượt trụ sở cơ quan an ninh Đức Quốc xã trên đường Unter den Lindel (Dưới rặng bồ đề) thất thủ. Mặc dù chiến sự ở khu vực Berlin cơ bản đã chấm dứt nhưng tại Tây Tiệp Khắc, phía Đông Nam nước Áo, tại bán đảo Kurlandia và một số đảo trên biển Baltic, quân Đức vẫn không chịu hạ vũ khí.[6]
Tại khu vực phía Tây Tiệp Khắc bao gồm cả thành phố Praha, quân Đức vẫn kháng cự đặc biệt mạnh như chưa hề có chuyện Berlin thất thủ. Một số quân rất lớn của Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức) mà nòng cốt là Tập đoàn quân xe tăng 6 SS dưới quyền chỉ huy của thống chế SS Ferdinand Schörner vẫn dựa vào các vị trí xung quanh các dãy núi vùng Boheim và Moravia để tiếp tục chiến đấu. Theo mệnh lệnh trước đó của Hitler (lúc này đã tự sát), Tập đoàn quân xe tăng 6 SS phải giữ bằng được "Pháo đài Alpe" nằm trong vùng tam giác Munchen - Insburg và Salsburg để Chính phủ Đức Quốc xã và các cơ quan chỉ huy quân sự Đức Quốc xã có thể rời đến làm việc ở đó trong trường hợp Berlin thất thủ. Hoạt động trên địa bàn này còn có Cụm tác chiến Áo của tướng Lothar Rendulic và Cụm tác chiến Đông Nam của tướng Alexander Löhr.[7] Điều này hoàn toàn phù hợp với một tài liệu của Bộ Tổng tham mưu Đức do tướng Alfred Jodl ký ngày 2 tháng 5 ra lệnh:
Quân đội Anh và Quân đội Liên Xô gặp nhau trên bờ biển Baltic (Bắc Đức), ngày 3 tháng 5 năm 1945
Kể từ hôm nay, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động chủ yếu của Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã là cứu vãn binh lính Đức khỏi bị quân Nga bắt làm tù binh càng nhiều càng tốt và tiến hành đàm phán ngay với các nước phương Tây về việc ngừng bắn với họ càng sớm càng tốt.
—Alfred Jodl, [8]
Căn cứ mệnh lệnh này, quân Đức chỉ hạ vũ khí trên mặt trận phía Tây và mặt trận Ý trong khi vẫn liên tục phản kích vào sườn trái Phương diện quân Ukraina 1 và ngăn chặn Phương diện quân Ukraina 2 (Liên Xô) ở ngoại vi Brno. Ngày 3 tháng 5, Thống chế Albert Kesselring, tư lệnh Cụm tập đoàn quân Italia được sự uỷ nhiệm của Đô đốc Karl Dönitz chấp nhận ngừng bắn ở Bắc Ý và yêu cầu liên quân Anh - Hoa Kỳ để cho quân Đức tại Ý được tự do rút sang mặt trận phía Đông để chống lại quân đội Liên Xô. Tuy nhiên, người Anh ngỏ ý rằng phía Đức nên chấp nhận một sự đầu hàng không điều kiện. Để sớm giải quyết dứt điểm kết cục của cuộc chiến, ngày 4 tháng 5, Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô I. V. Stalin điện hỏi nguyên soái I. S. Koniev: "Ai sẽ chiếm Praha?". Ngày 5 tháng 5, Chiến dịch Praha được quân đội Liên Xô phát động, sử dụng các Phương diện quân Ukraina 1, 2 và 4 bao vây Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức) đang hoạt động tại khu vực Tiệp Khắc và miền Đông nước Áo. Ngày 9 tháng 5, quân đội Liên Xô giải phóng Praha.[9]

Tình hình mặt trận phía Tây

Quân đội Hoa Kỳ và quân đội Liên Xô gặp nhau trên bờ sông Elbe ngày 26 tháng 4 năm 1945
Ngày 20 tháng 4 năm 1945, Tập đoàn quân bộ binh 7 và Tập đoàn quân xe tăng 1 (Hoa Kỳ) vượt sông Rhine sau khi tấn công liên tục 160 km trong 4 ngày và chiếm thành phố Nuremberg. Ngày 22 tháng 4, các quân đoàn bộ binh 15 và 21 thuộc tập đoàn quân 7 (Hoa Kỳ) tấn công đánh chiếm thành phố Stuttgart. Bên cánh trái, các tập đoàn quân 3 và 6 (Hoa Kỳ) và Tập đoàn quân 1 (Pháp) cũng tiến đến sông Danube ngày 24 tháng 4. Ngày 25 tháng 4, một đội tuần tiễu của sư đoàn bộ binh 69 (Hoa Kỳ) đã gặp kỵ binh Liên Xô tại làng Leckwitz. Ngày 26 tháng 4, tư lệnh sư đoàn bộ binh 69 (Hoa Kỳ), thiếu tướng Emil F. Reinhardt đã có cuộc gặp với Thiếu tướng Vladimir Rusakov, tư lệnh sư đoàn bộ binh 58 (Liên Xô) tại thị trấn Torgau bên bờ sông Elbe-Mulde. Đây là lần đầu tiên, quân đội hai nước gặp nhau trên chiến trường sau khi đã đánh bại những đơn vị cuối cùng của Tập đoàn quân 12 (Đức).[10]
Ngày 30 tháng 4, các quân đoàn 15 và 21 của Tập đoàn quân 7 (Hoa Kỳ) đánh chiếm Munich và phát triển thêm 48 km về phía nam sông Danube, trong khi các lực lượng phái đi trước của Quân đoàn 6 đã đột nhập địa phận nước Áo hai ngày trước đó. Ngày 4 tháng 5, các quân đoàn bộ binh 3, 5 và 12 đã phát triển đến gần biên giới Áo - Tiệp Khắc. Ở phía Nam, Quân đoàn bộ binh 6 đã bắt liên lạc được với các đơn vị Hoa Kỳ và Anh trên biên giới Áo - Ý nối liền mặt trận Tây Âu và mặt trận Địa Trung Hải. Cũng trong ngày 4 tháng 5, Quân đoàn 5 đánh chiếm căn cứ Salzburg, nằm trong tam giác chiến lược của "pháo đài Alpe", nơi bộ máy chiến tranh đầu não của quân đội Đức Quốc xã định rút về đây. Quân đoàn 15 cũng đánh chiếm thành phố Berchtesgaden, nơi được Hitler chọn làm sở chỉ huy dự bị của mình trong trường hợp Berlin thất thủ. Các con đường đi đến Alpe đã bị quân đội Hoa Kỳ phong toả, làm tiêu tan nốt ảo vọng cuối cùng của quân đội Đức Quốc xã về việc thiết lập căn cứ chỉ huy dự bị tại đây để tiếp tục cuộc chiến. Số phận của nước Đức Quốc xã trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ở Châu Âu chỉ còn có thể tính từng ngày.[11]

Những thoả thuận của các nước đồng minh trước ngày 8 tháng 5 về việc đầu hàng không điều kiện của nước Đức Quốc xã

Tờ báo tiếng Đức Feldpost ra tháng 2 năm 1945 đăng tin ảnh về Hội nghị Yalta và tình hình mặt trận phía Đông
Từ ngày 2 đến ngày 4 tháng 5 năm 1945, tại Tổng hành dinh mới của nước Đức Quốc xã đóng ở Hamburg đã diễn ra hội nghị Ban chỉ đạo chiến tranh tối cao của nước Đức Quốc xã dưới sự chủ trì của Thủy sư đô đốc Karl Dönitz. Dự họp còn có thống chế Wilhelm Keitel, tổng tư lệnh lục quân Đức, tướng Alfred Jodl Phó tổng tham mưu trưởng lục quân Đức và một số tướng lĩnh Đức khác. Mở dầu cuộc họp, Karl Dönitz đặt vấn đề sẽ đầu hàng quân đội Hoa Kỳ, quân đội Anh và tiếp tục chiến đấu chống quân đội Liên Xô. Tất cả các tướng lĩnh Đức dự họp đều tán thành chủ trương này. Kết quả của hội nghị đó là ngày 5 tháng 5 năm 1945. Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã đã kết thúc các cuộc đàm phán trên mặt trận phía Tây về việc quân Đức sẽ đình chiến tại nhiều mặt trận. Thiếu tướng I. A. Susloparov, đại diện Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tại Tổng hành dinh của Thống tướng Eisenhower đã báo cáo toàn bộ các diễn biến mà ông ta biết được về các cuộc gặp riêng giữa chuẩn đô đốc Đức Hans-Georg von FriedeburgThống tướng Eisenhower về Moskva. Thực ra thì không chỉ đến ngày 7 tháng 5 mà từ trước đó nhiều ngày, chuẩn đô đốc Đức Hans-Georg von Friedeburg, đặc phái viên của Thuỷ sư đô đốc Karl Dönitz dã có mặt tại Tổng hành dinh của thống chế Dwight D. Eisenhower để thăm dò khả năng "đầu hàng một phía" của Đế chế thứ ba.
Theo một thoả ước được xác định bằng một văn bản ghi nhớ tại Hội nghị họp từ ngày 4 đến ngày 11 tháng 2 năm 1945 tại Cung điện Livadia gần thành phố Yalta, miền nam Ukraina thì:
Vì tính nhân đạo của công cuộc chiến đấu chống các thế lực phát xít và để giảm thiểu đến mức thấp nhất có thể đạt được những tổn thất đối với quân đội các nước tham gia chống phát xít; tư lệnh quân đội các nước đồng minh chống phát xít được quyền tiếp nhận bất kỳ sự đầu hàng nào của chỉ huy các đơn vị quân đội Đức Quốc xã tại khu vực mặt trận do mình phụ trách mà chỉ cần thông báo cho nước đồng minh có liên quan biết về sự đầu hàng đó.
—Văn bản hội nghị Yalta, [12]
Mặc dù đang trong cơn bĩ cực nhưng bộ máy tình báo Đức Quốc xã vẫn hoạt động bình thường và không chỉ đô đốc Karl Dönitz mà nhiều tướng lĩnh cao cấp khác của nước Đức Quốc xã cũng nắm được như ý tưởng cơ bản của thoả thuận Yalta. Chính những điều đó đã giúp cho các tướng lĩnh Đức Quốc xã còn đang lãnh nhiệm sau ngày 30 tháng 4 năm 1945 nhìn ra một kẽ hở cho các cuộc đàm phán riêng rẽ với phía Liên Xô và phía Hoa Kỳ - Anh về việc đầu hàng của nước Đức Quốc xã. Nếu như ngày 1 tháng 5, ở Berlin, trung tướng Hans Krebs thất bại trong cuộc đàm phán với thượng tướng I. D. Sokolovsky của quân đội Liên Xô về vấn đề ngừng bắn thì ngày 5 tháng 5 tại Reims, thượng tướng Alfred Jodl lại đạt được thảo thuận về việc đầu hàng của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía Tây. Khi hiểu ra điều này, S. M. Stemenko, khi đó là Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô đã nhận xét:
Té ra, đầu hàng không điều kiện vẫn có thể kiếm lời về chính trị được.
—S. M. Stemenko, [13]

Nước Đức Quốc xã đầu hàng

Văn bản đầu hàng sơ bộ tại Reims

Văn kiện đầu hàng ký kết ngày 7 tháng 5 năm 1945 tại Reims
Ngày 5 tháng 5 năm 1945, theo sự giới thiệu của chuẩn đô đốc Hans-Georg von Friedeburg, thượng tướng Alfred Jodl, Phó tổng tham mưu trưởng lục quân Đức Quốc xã phụ trách các vấn đề tác chiến đã đến tổng hành dinh của Thống chế Dwight D. Eisenhower, Tổng tư lệnh liên quân đồng minh Anh - Hoa Kỳ tại Reims (Pháp). Tại đây, thống chế Dwight D. Eisenhower đã yêu cầu Alfred Jodl trình giấy uỷ nhiệm về việc ký kết văn bản đầu hàng không điều kiện. Vì không có giấy uỷ nhiệm theo yêu cầu của phía Hoa Kỳ, tướng Alfred Jodl trả lời rằng ông ta chỉ được uỷ quyền ký kết văn bản ngừng bắn để có thể điều động các đơn vị đang chiến đấu chống liên quân Anh - Hoa Kỳ sang mặt trận Đông để chống lại quân đội Liên Xô. Tướng Alfred Jodl tuyên bố rằng chủ trương của chính phủ Karl Dönitz như chính vị thuỷ sư đô đốc này đã trình bày tại cuộc họp ngày 4 tháng 5 năm 1945:
Cần phải giữ gìn cho dân tộc Đức và giúp đỡ cho càng nhiều người Đức càng tốt thoát khỏi chủ nghĩa Bolshevik
—Karl Dönitz, [14]
Tướng Alfred Jodl ký văn bản đầu hàng sơ bộ tại Reims
Trong cuộc đàm phán, tướng Alfred Jodl còn cho biết thêm: vì các tập đoàn quân của các thống chế Ferdinand Schörner và các tướng Lothar Rendulic, Alexander Löhr đang chiến đấu tại mặt trận phía Đông chống lại quân đội Liên Xô cho nên họ sẽ không chịu sự ràng buộc của lệnh đầu hàng do Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã ký với các đồng minh Anh và Hoa Kỳ tại mặt trận phía Tây. Thống chế Dwight D. Eisenhower bác bỏ đề nghị của tướng Alfred Jodl chỉ vì một lẽ hiển nhiên, trong tay ông này không có một chứng cứ về sự uỷ quyền nào để ký kết một văn kiện vượt quá thẩm quyền của một Phó tổng tham mưu trưởng lục quân. Việc xin giấy uỷ nhiệm của Thủy sư đô đốc Karl Dönitz diễn ra rất khẩn trương và ngày 6 tháng 5 năm 1945, Alfred Jodl đã quay lại Reims sau 8 giờ với một uỷ nhiệm thư đủ thủ tục pháp lý trong tay.[15]
Gần nửa đêm ngày 6 tháng 5, viên sĩ quan tuỳ tùng của thống chế Dwight D. Eisenhower đến phòng làm việc của thiếu tướng I. A. Susloparov - trưởng phái đoàn quân sự Liên Xô bên cạnh Bộ Tổng tư lệnh Liên quân - trao thiếp mời của Bộ Tổng tư lệnh liên quân Hoa Kỳ-Anh về việc tham gia ký kết văn bản đầu hàng của quân đội Đức Quốc xã. Tại Tổng hành dinh liên quân, tướng I. A. Susloparov đã đọc kỹ toàn bộ văn bản đầu hàng do các sỹ quan tham mưu của Bộ Tổng tư lệnh liên quân soạn thảo bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Khi được thống tướng Eisenhower hỏi: Thưa tướng quân, ngài có ý kiến gì về việc này?; tướng I. A. Susloparov trả lời:
Tôi thấy các thành viên của khối liên minh chống Hitler đã cùng cam kết với nhau rằng phải tiến hành sự đầu hàng cùng lúc của quân đội phát xít Đức trên tất cả các mặt trận. Vì vậy, tốt hơn hết là chúng ta cùng ký kết nó nhưng văn bản này lại không đề cập đến sự đầu hàng của quân Đức trên mặt trận phía Đông?
—I. A. Susloparov, [15]
Đại diện quân đội các nước đồng minh sau Lễ ký kết văn bản đầu hàng sơ bộ tại Reims (từ trái sang phải):Tướng Susloparov (Liên Xô), Tướng Morgan (Anh), Tướng Smith (Hoa Kỳ), một nhân viên phiên dịch, Thống chế Eisenhower (Hoa Kỳ), Thống chế Tedder (Không lực Hoàng gia Anh)
Ban đầu người Đức chỉ chấp nhận đầu hàng các nước phương Tây thuộc phe Đồng minh. Tuy nhiên, sau nửa ngày được phía Hoa Kỳ và Anh thuyết phục, họ đã đồng ý chấp nhận đầu hàng toàn bộ các thành viên thuộc phe Đồng Minh. Thống chế Eisenhower cũng chính thức thông báo cho phái đoàn quân sự Liên Xô rằng Liên quân đã yêu cầu tướng Alfred Jodl phải chấp nhận việc nước Đức Quốc xã phải đầu hàng hoàn toàn chứ không phải một sự đầu hàng nào khác. Ông cũng đề nghị tướng I. A. Susloparov thông báo ngay cho Moskva biết tiến trình sự kiện để Moskva tán thành và tướng I. A. Susloparov có thể thay mặt chính phủ Liên Xô ký vào văn bản này. Thời gian biểu cuối cùng để ký văn bản dự kiến vào 2 giờ 30 phút ngày 7 tháng 5 năm 1945 tại Phòng tác chiến của Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ - Anh ở mặt trận Tây Âu. Một trong những điều khoản quan trọng nhất mà văn bản này quy định là Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã có trách nhiệm ra lệnh đình chỉ chiến sự trên tất cả các mặt trận vào 0 giờ 01 phút ngày 9 tháng 5 năm 1945 (theo giờ Moskva) tức 2 giờ 01 phút cùng ngày (theo giờ Trung Âu).[15] Tướng I. A. Susloparov thấy đây là điều có thể chấp nhận được. Vì chưa được sự uỷ quyền chính thức, lúc 11 giờ 30 phút, I. A. Susloparov cho mã hoá toàn bộ văn bản và gửi bằng vô tuyến điện về Moskva kèm theo đề nghị được trao thẩm quyền ký kết văn kiện đầu hàng của quân đội Đức Quốc xã theo lời khuyên của thống chế Eisenhower.[16]
Việc ký kết này khiến I. A. Susloparov rất băn khoăn, rõ ràng ông không lường được trường hợp này và trước đó cũng chưa nhận được chỉ thị gì từ Moskva. 2 giờ 35 phút sáng ngày 7 tháng 5, giờ ấn định ký kết đã qua hơn 5 phút, các tướng lĩnh đại diện các cường quốc Anh, Hoa Kỳ, Pháp và cả tướng I. A. Susloparov đều nóng lòng chờ đợi câu trả lời từ Moskva nhưng vẫn không thấy hồi âm. Cuối cùng, thấy không thể trùng trình được nữa, lúc 2 giờ 41 phút ngày 7 tháng 5, I. A. Susloparov quyết định ký vào văn bản. Ông hiểu rằng nếu ông cương quyết không ký, rất có khả năng biên bản đầu hàng sẽ được ký mà không có sự tham gia của Liên Xô. Để bảo đảm cho Chính phủ Liên Xô có khả năng ảnh hưởng trở lại đối với tiến trình đầu hàng của nước Đức Quốc xã khi cần thiết, ông ghi chú vào tờ số 1 của văn kiện:
Biên bản về việc chấm dứt chiến sự này không loại trừ sau này có thể ký kết một văn kiện hoàn hảo hơn ghi nhận sự đầu hàng của nước Đức Quốc xã nếu một trong các nước đồng minh có yêu cầu

Biên bản đầu hàng sơ bộ được ký kết tại Reims vào ngày 7 tháng 5 năm 1945, có hiệu lực vào 23 giờ 1 phút ngày 8 tháng 5 tính theo giờ Trung Âu. Thống chế Eisenhower nâng cốc chúc mừng tướng I. A. Susloparov sau khi ông này gửi báo cáo về Moskva thì lúc 2 giờ 50 phút, Moskva có điện trả lời: Không được ký kết một văn kiện nào hết.[17]

Văn bản đầu hàng toàn bộ tại Berlin

Hình ảnh lá cờ chiến thắng của Trung đoàn bộ binh 150, Sư đoàn bộ binh 79 (Huân chuwong Kutuzov hạng nhì), thuộc Phương diện quân Belorrusia 1 (Liên Xô) đã được cắm trên nóc nhà Quốc hội Đức ngày 30 tháng 4 năm 1945
8 giờ sáng ngày 7 tháng 5, tướng Deel, trưởng phái đoàn quân sự Hoa Kỳ tại Moskva trao cho Chính phủ Liên Xô một giác thư có đoạn viết:
Trưa hôm nay, tôi nhận được thông điệp khẩn của Tổng thống Hoa Kỳ đề nghị Nguyên soái Stalin đồng ý tuyên bố về việc đầu hàng của nước Đức Quốc xã vào hồi 19 giờ ngày hôm nay, theo giờ Moskva. Qua Bộ dân uỷ ngoại giao, chúng tôi được biết rằng không thể làm như vậy vì Chính phủ Liên Xô chưa được các đại diện của mình hiện đang công tác tại Bộ tham mưu của thống chế Eisenhower báo cáo về sự đầu hàng của Đức. Tôi đã báo cáo lại tình hình cho Tổng thống Harry Truman và được Tổng thống đồng ý rằng sẽ chưa công bố chính thức trước 9 giờ sáng ngày 8 tháng 5 (theo giờ Washington) tức 16 giờ (theo giờ Moskva) nếu Nguyên soái Stalin chưa tỏ ra đồng ý về thời hạn sớm đó.
—-, [18]
Rõ ràng là Moskva không hài lòng với việc ký một văn bản đầu hàng của nước Đức Quốc xã nhưng họ không phải là người tham gia chính thức với một sĩ quan cấp thiếu tướng và lại không có sự uỷ quyền ký kết. I. V. Stalin cho rằng việc ký kết phải có đầy đủ đại diện có thẩm quyền của các nước đồng minh chống phát xít chủ chốt tham gia và phải diễn ra trên đất nước của kẻ gây ra chiến tranh chứ không thể diễn ra ở nơi khác. Đại tướng A. I. Antonov ủng hộ ý kiến này và nhận xét:
Các nước đồng minh đang gây sức ép, họ muốn toàn thế giới biết rằng quân đội Đức Quốc xã đầu hàng họ chứ không đầu hàng Liên Xô
—A. I. Antonov, [19]
Lãnh tụ Liên Xô I. V. Stalin cũng tỏ ra không hài lòng trước các sự kiện trên. Ông cho rằng buổi ký kết văn kiện đầu hàng của Đức phải diễn ra tại Berlin dưới sự phê chuẩn của đại diện phái đoàn Liên Xô; còn biên bản đầu hàng tại Reims chỉ là biên bản sơ bộ mà thôi. Trong hồi ký Nhớ lại và suy nghĩ của mình, Nguyên soái G. K. Zhukov đã ghi lại ý kiến của I. V. Stalin như sau:
Hôm nay, tại Reims, người Đức đã ký kết biên bản sơ bộ về việc đầu hàng vô điều kiện. Tuy nhiên, gánh nặng chiến tranh chủ yếu chống phát xít Đức lại đè lên vai nhân dân Liên Xô chứ không phải các nước đồng minh. Vì vậy, buổi lễ ký kết văn kiện đầu hàng phải diễn ra dưới sự chứng kiến của tất cả các quốc gia thuộc liên minh chống Hitler chứ không phải chỉ dưới sự chứng kiến của Bộ Tổng tư lệnh Tối cao của các nước Đồng Minh phương Tây. Thêm nữa, tôi không đồng tình về việc ký kết văn kiện đầu hàng không diễn ra tại Berlin - trung tâm của chế độ phát xít Đức. Chúng ta đã đồng ý với các nước Đồng Minh phương Tây về việc xem văn kiện ký kết tại Reims chỉ là một biên bản đầu hàng sơ bộ. Ngày mai, đại diện của Bộ Tổng chỉ huy quân đội Đức Quốc xã và đại diện của Bộ Tổng tư lệnh các nước Đồng minh sẽ đến Berlin để ký kết văn bản chính thức. Đồng chí được cử làm đại diện toàn quyền cho Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô. A. Ya. Vysinsky, V. D. Sokolovsky và K. F. Teleghin sẽ làm trợ lý cho đồng chí
—I. V. Stalin, [20]
Nguyên soái G. K. Zhukov đọc văn kiện đầu hàng của Đức. Ngồi bên cạnh ông là Thống chế Không lực Hoàng gia Anh Arthur William Tedder.
Ngay trước buổi trưa ngày 7 tháng 5, đại tướng A. I. Antonov, Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô đã chuyển cho các phái đoàn quân sự Hoa Kỳ, Anh và Pháp tại Moskva một giác thư đề nghị các nước đồng minh thống nhất coi văn bản được ký kết tại Reims chỉ là văn bản sơ bộ và ngày 8 tháng 5, các nước đồng minh sẽ cử các đại diện cao cấp có thẩm quyền đến Berlin để ký một định ước cuối cùng về sự đầu hàng của quân đội Đức Quốc xã, có sự tham gia của cấp chỉ huy cao cấp nhất của quân đội Đức. Chính phủ các nước Hoa Kỳ, Anh và Pháp chấp thuận đề nghị này.[21]
Ngày 7 tháng 5, các sĩ quan chính trị thuộc Bộ tham mưu Phương diện quân Belorussia 1 đã tìm được một ngôi nhà còn nguyên vẹn trong một trường quân sự tại Karls Horster, ngoại ô Berlin để dùng làm nơi ký kết văn kiện đầu hàng chính thức của nước Đức Quốc xã. Ngày 8 tháng 5, thống chế Dwight D. Eisenhower cử ba cấp phó của mình là thống chế không quân Hoàng gia Anh Arthur Tedder, tướng Carl A. Spaatz tư lệnh các lực lượng không quân chiến lược Hoa Kỳ ở Châu Âu và thống chế Pháp Jean de Lattre de Tassigny đến ký kết văn bản đầu hàng chính thức. Họ đi Berlin trên một chuyên cơ, đem theo 10 sỹ quan tuỳ tùng, 11 nhà báo và phóng viên nhiếp ảnh. Trên chuyên cơ này cũng chở theo thống chế Wilhelm Keitel, Tổng tư lệnh lục quân Đức, đô đốc Hans-Georg von Friedeburg, tưóng Hans-Jürgen Stumpff và ba sỹ quan tuỳ tùng người Đức đến Berlin để ký định ước đầu hàng không điều kiện.[22]
Thống chế William Keitel đại diện cho phía Đức ký kết văn kiện đầu hàng không điều kiện.
22 giờ ngày 8 tháng 5, (0 giờ ngày 9 tháng 5 theo giờ Moskva), Các đoàn đại biểu quân sự của bốn nước đồng minh vào phòng họp. Phía Liên Xô có Nguyên soái G. K. Zhukov, đại tướng V. D. Sokolovsky, trung tướng K. F. Teleghin và nhà ngoại giao A. Ya. Vysinsky. Đoàn đại biểu quân đội Hoàng gia Anh do thống chế Arthur Tedder đứng đầu, đoàn đại biểu Quân đội Hoa Kỳ do tướng Carl A. Spaatz đứng đầu. Đại diện cho quân đội Pháp là thống chế Jean de Lattre de Tassigny. G. K. Zhukov đọc lời khai mạc ngắn gọn và cho gọi các đại diện Đức vào phòng họp với thủ tục đầu tiên là kiểm tra giấy uỷ nhiệm của Chính phủ Đức. Thay mặt nước Đức Quốc xã, thống chế Wilhelm Keitel ký vào định ước xác nhận đầu hàng không điều kiện của nước Đức Quốc xã được làm bằng ba thứ tiếng Anh, Đức và Nga được làm thành 5 bản. Sau đó, lần lượt đại diện các đoàn Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô đều ký vào văn bản định ước. Việc ký kết nhanh chóng hoàn thành lúc 22 giờ 43 phút.[23] Lúc đó ở Moskva - vì khác biệt về múi giờ - đã là 0 giờ 43 phút ngày 9 tháng 5. Ngay sau lễ ký kết định ước, đoàn đại biểu quân sự Liên Xô đã mở tiệc chiêu đãi các đoàn đại biểu đồng minh. Tại buổi tiệc, các tướng lĩnh Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô đều bày tỏ lòng mong muốn củng cố và giữ vững mãi mãi các mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các nước trong khối Đồng minh chống phát xít.[24]
Ngay sau lễ ký kết, nhà ngoại giao A. Ya. Vysinsky đã thông báo cho thiếu tướng I. A. Susloparov, người cũng có mặt trong lễ ký kết rằng I. V. Stalin thấy không có gì đáng phàn nàn về những công việc mà I. A. Susloparov tiến hành tại Reims ngày 7 tháng 5 năm 1945.[25]

Việc ban bố văn kiện đầu hàng của nước Đức Quốc xã và thiết lập quyền kiểm soát của Đồng minh

Trình đơn
0:00
Tuyên bố của Chính phủ Liên Xô về việc nước Đức Quốc xã đầu hàng không điều kiện do phát thanh viên Levitan đọc trên Đài phát thanh Moskva
Nếu như về mặt ngoại giao, Chính phủ Liên Xô cương quyết đòi tổ chức một lễ ký kết tại Berlin thì trong việc triển khai ban bố văn kiện đầu hàng của nước Đức Quốc xã, họ tỏ ra mềm dẻo và linh hoạt. Không chờ lễ ký kết ở Berlin hoàn tất, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã đồng ý phối hợp với Bộ Tổng tư lệnh Liên quân Đồng minh triển khai ngay việc thông tin về sự kiện nước Đức Quốc xã đầu hàng trên khắp các mặt trận. 22 giờ 35 phút ngày 7 tháng 5, thống chế Dwight D. Eisenhower đề nghị mở một hành lang trên không phận Châu Âu từ thành phố Flensburg, nơi đóng trụ sở tạm thời của Tổng hành dinh bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức đến bán đảo Kurlandia, Latvia để cho một máy bay Đức mang mệnh lệnh đầu hàng đến cho Tập đoàn quân 18 (Đức) vẫn còn bị vây tại đây; phía Liên Xô đã đáp ứng yêu cầu này. Bản mệnh lệnh đầu hàng được các sỹ quan tham mưu Đức cùng các sỹ quan Anh và Hoa Kỳ đi theo giám sát có đính kèm theo bản khổ lớn chụp ảnh văn kiện đầu hàng sơ bộ của nước Đức tại Reims. Cùng ngày hôm đó, quân Đức tại Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan, Hy LạpNam Tư cũng nhận được các văn kiện về việc đầu hàng thông qua các chuyến bay phối hợp của không quân Liên Xô, không lực Hoa Kỳ, không lực Hoàng gia Anh và họ nhanh chóng thực hiện mệnh lệnh đầu hàng.[26]
Ngôi nhà đã diễn ra lễ ký kết bản định ước xác nhận sự đầu hàng không điều kiện của nước Đức Quốc xã ngày 9 tháng 5 năm 1945 tại Karlshoster nay được dùng làm bảo tàng Đức-Nga
Đối với những lực lượng cơ bản của Cụm tập đoàn quân trung tâm (Đức) do thống chế Ferdinand Schörner và Cụm tác chiến Áo do tướng Lothar Rendulic chỉ huy thì việc đầu hàng diễn ra không đơn giản. Ngày 4 tháng 5, tại Praha nổ ra cuộc khởi nghĩa của những người yêu nước Tiệp Khắc chống phát xít. Viện cớ những người khởi nghĩa tập kích quân Đức, cắt đường dây điện thoại và được sự dung túng của Thủy sư đô đốc Karl Dönitz, người đang lãnh trách nhiệm đứng đầu Chính phủ Đức, thống chế Ferdinand Schörner nói rằng ông ta không nhận được một văn bản nào cả. Ngày 7 tháng 5, một tốp sĩ quan liên lạc của Liên Xô được những người khởi nghĩa dẫn đường đến Plezen mang theo văn kiện đầu hàng đã bị các nhóm biệt kích của Tập đoàn quân xe tăng 6 SS bắt và thủ tiêu. Phía Liên Xô chỉ biết được việc này sau ngày 9 tháng 5 khi nhận được lời khai của một lính Nga trong quân đoàn "Nước Nga tự do" của A. A. Vlasov bị bắt làm tù binh. Ngày 8 tháng 5, thông qua Đài phát thanh Praha do quân khởi nghĩa chiếm giữ, các văn kiện đầu hàng được công bố rõ ràng nhưng thống chế Ferdinand Schörner vẫn làm như không biết gì và tiếp tục thực hiện các hoạt động chiến đấu, mở một hàng lang hẹp qua Plezen để rút quân sang tuyến kiểm soát của quân đội Hoa Kỳ. Thậm chí đến tận ngày 10 tháng 5, hơn 1.000 quân SS tại Traslav vẫn tiếp tục kháng cự lại Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 (thuộc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 của tướng A. G. Kravchenko) cho đến khi bị tiêu diệt hoàn toàn vào cuối ngày.[27]
Rõ ràng là chính phủ Karl Dönitz đã không thể kiểm soát được tình hình và bắt đầu dung túng cho những hành động phá hoại hoà bình, đi ngược lại lời tuyên bố đầu hàng không điều kiện đã được chính họ xác nhận tại Reims ngày 7 tháng 5 và Berlin ngày 8 tháng 5. Ngày 16 tháng 5, cựu thủ tướng Anh Winston Churchill tuyên bố với tờ Thời báo (Anh) rằng Hoa Kỳ và Anh không có ý định đảm nhận việc cai trị nước Đức.[28] Ngày 17 tháng 5 năm 1945, phái đoàn Liên Xô do nguyên soái G. K. Zhukov chỉ huy bắt đầu đến làm việc tại Hội đồng kiểm soát nước Đức của các nước Đồng minh tại Flensburg. Tại đây, các đại biểu Liên Xô đã đưa ra những bằng chứng về việc chính phủ Karl Dönitz không kiểm soát được tình hình và các bằng chứng về phần lớn các thành viên trong chính phủ này đều là tội phạm chiến tranh. Nói cách khác, đó vẫn là chính phủ Quốc xã mà không có đảng Quốc xã và Hitler. Nhiều bằng chứng khác về việc các thành viên trong chính phủ Karl Dönitz vẫn ngầm cung cấp vũ khí cho các phần tử SS còn chưa bị bắt giữ chống lại các lực lượng đồng minh đã được đưa ra.[29] Trước những bằng chứng không thể chối cãi, ngày 23 tháng 5 năm 1945, Hội đồng kiểm soát nước Đức của các nước Đồng minh ra nghị quyết về việc giải tán và bắt giữ chính phủ Karl Dönitz như những tội phạm chiến tranh. Sự kiện này đã mở đường cho một hội nghị toàn thể của Hội đồng kiểm soát nước Đức của các nước Đồng minh họp tại Berlin ngày 5 tháng 6 năm 1945. Hội nghị đã ra bản tuyên bố chung về sự bại trận của nước Đức và thiết lập sự kiểm soát của bốn nước đồng minh Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và Pháp tại nước Đức. Tuyên bố nêu rõ:
Kể từ ngày 5 tháng 6 năm 1945, bốn cường quốc đồng minh đảm nhận quyền lực tối cao ở nước Đức, kể cả các quyền lực của chính phủ Đức, của Bộ chỉ huy tối cao Đức và mọi cấp chính quyền từ trung ương đến cấp vùng, các thành phố, thị xã và địa phương
—Tuyên bố của bốn nước đồng minh ngày 5 tháng 6 năm 1945, [30]
Cùng ngày, bốn cường quốc đồng minh đã ký các hiệp nghị về việc phân chia vùng chiếm đóng của các nước đồng minh tại nước Đức và cơ chế kiểm soát chống việc tái vũ trang nước Đức. Hiệp nghị thứ nhất quy định chia nước Đức thành bốn vùng kiểm soát do bốn nước đồng minh Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô uỷ trị. Riêng thủ đô Berlin chia làm bốn phần do bốn nước Đồng minh thay nhau chỉ huy các lực lượng kiểm soát liên hợp. Hiệp nghị thứ hai quy định trong thời kỳ nước Đức có trách nhiệm thực hiện những yêu cầu cơ bản của việc đầu hàng không diều kiện, quyền lực tối cao sẽ do bốn Bộ tư lệnh của bốn nước đồng minh đảm nhiệm trong từng vùng đóng quân của mình, phù hợp với những chỉ thị của các chính phủ hữu quan, phối hợp với nhau trong giải quyết những vấn đề tổng thể của nước Đức. Bốn vị tư lệnh đồng minh sẽ là thành viên ngang quyền trong một Hội đồng kiểm soát làm việc theo chế độ đồng thuận.[29]
Như vậy, phải đến gần một tháng sau Ngày Chiến thắng, tình hình nước Đức mới thực sự được kiểm soát và Chiến thắng ngày 9 tháng 5 mới được bảo đảm một cách cơ bản.

Kỷ niệm ngày chiến thắng phát xít Đức ở Liên Xô trước đây và các nước SNG hiện nay

Tại Moskva và Nga

Phim tư liệu về Lễ kỷ niệm chiến thắng ngày 24 tháng 6 năm 1945 được tổ chức tại Quảng trường Đỏ, Moskva
Đêm mùng 8 rạng ngày 9 tháng 5 năm 1945, ở các thành phố lớn của tất cả các nước cộng hoà trong Liên bang Xô viết và nhiều vùng nông thôn cho đến những nơi đóng quân của quân đội Liên Xô tại Đông Âu, tại Viễn Đông, người Liên Xô hầu như không ngủ. Cũng giống như ngày 22 tháng 6 năm 1941, họ tụ tập quanh các loa phóng thanh công cộng chờ nghe tuyến bố của Chính phủ Liên Xô. Đúng 1 giờ 45 phút, Yuri Borisovich Levitan, phát thanh viên nổi tiếng của Đài phát thanh Moskva, từng bị Joseph Goebbels thề độc rằng ông sẽ bị treo cổ trước tiên nếu quân Đức chiếm được Moskva, đã trực tiếp đọc tại phòng bá âm của Đài phát thanh Moskva bản nhật lệnh đặc biệt của Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô và tuyên bố đặc biệt của Chính phủ Liên Xô về việc nước Đức Quốc xã đã ký văn kiện xác nhận sự đầu hàng không điều kiện; và cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô đã thành công. Để tránh sự nhầm lẫn, các văn bản này được đọc hai lần; đồng thời được Cục Thông tin Liên Xô phát đi bằng điện báo trên toàn thế giới.[29] 2 giờ 00 phút, Moskva chào mừng Ngày Chiến thắng bằng màn pháo hoa cấp đặc biệt, màn pháo hoa lớn nhất để mừng chiến thắng kể từ ngày 5 tháng 8 năm 1943 khi lần đầu tiên, nghi thức này được thực hiện bởi một sắc lệnh của I. V. Stalin. Từ 2 giờ đến 2 giờ 45 phút ngày 9 tháng 5, bầu trời Moskva được chiếu sáng bởi hàng vạn quả pháo hoa được bắn từ 1.000 khẩu đại bác, mỗi khẩu bắn 30 loạt đạn.[31]
Đêm pháo hoa mừng Ngày chiến thắng tại thủ đô Moskva, 9 tháng 5 năm 2005
Mặc dù sự kiện Ngày Chiến thắng được ghi dấu ấn đầu tiên năm 1945 nhưng đến năm 1947, ngày 9 tháng 5 mới được nhà nước Liên Xô công nhận là một ngày kỷ niệm cấp quốc gia. Trước đó, buổi lễ mừng chiến thắng đầu tiên đã được tổ chức nhưng không nhằm ngày 9 tháng 5 mà vào ngày 24 tháng 6 năm 1945 tại Quảng trường Đỏ với đội ngũ đại diện cho 11 phương diện quân (vào thời điểm năm 1945), Quân đội Ba Lan và quân đoàn Kuban Cossacks tham gia diễu binh với đội hình 13 trung đoàn, do các tư lệnh hoặc tham mưu trưởng phương diện quân, tư lệnh quân đội, quân đoàn dẫn đầu. Điểm đặc sắc nhất của lần kỷ niệm có một không hai này là hơn 200 binh sĩ Liên Xô mang theo hơn 200 lá quân kỳ thu được của các sư đoàn quân đội Đức Quốc xã và lực lượng SS với tư thế cầm chúc mũi cờ xuống đất. Lần lượt 200 lá quân kỳ Quốc xã diễu qua mặt đường đá đẫm nước mưa của Quảng trường Đỏ và cuối cùng, được ném xuống thành một đống trước của lăng Lenin. Một số nhà báo phương Tây cho rằng đây là một hành động hạ nhục quân đội Đức Quốc xã. Còn nhà báo Liên Xô Boris Polevoy thì cho biết sự việc này làm ông nhớ đến Nguyên soái Mikhail Kutuzov sau khi đuổi quân đội của Napoléon Bonaparte khỏi biên giới Nga đã ra lệnh thu các quân kỳ của người Pháp lại và hạ chúc mũi các là cờ đó trước con ngựa bạch của ông. Trong khi đó, các phương tiện truyền thông Liên Xô cho rằng đây là một hành động báo công trước lãnh tụ đã quá cố Vladimir Ilich Lenin.
Ngày 9 tháng 5 năm 2005, đoàn cựu chiến binh các Phương diện quân (Liên Xô cũ) diễu hành trên những chiếc xe được thiết kế giống loại xe GAZ A-A cũ đã sử dụng trong cuộc diễu binh ngày 7 tháng 11 năm 1941
Từ sau khi Stalin chết đến năm 1964, ngày 9 tháng 5 hàng năm chỉ được tổ chức kỷ niệm bằng các buổi lễ và các cuộc gặp mặt, thăm viếng các nghĩa trang, đặt hoa ở Đài liệt sĩ vô danh dưới chân tường Điện Kremli và một số di tích chiến tranh quan trọng trong đó có di tích pháo đài Brest, di tích "Con đường sống" ở Leningrad và thắng tích "Ngọn đuốc vĩnh cửu" trên đồi Mamayev ở Volgagrad. Bắt đầu từ năm 1965 cho đến năm 1985, ngày 9 tháng 5 được tổ chức long trọng hơn tại Moskva với các cuộc diễu hành quần chúng. Các cuộc diễu binh chỉ tổ chức vào các năm 1965, 1985 và 1990. Sau khi Liên Xô sụp đổ, lần đầu tiên, chính phủ Nga tổ chức lại cuộc diễu binh kết hợp với diễu hành quần chúng ngày 9 tháng 5 năm 1995 tại Quảng trường Đỏ. Năm 2001, tổng thống Nga Vladimir Putin ra sắc lệnh về Ngày Chiến thắng là ngày lễ cấp quốc gia thường niên của Nga và ngày 9 tháng 5 năm đó được tổ chức diễu hành, duyệt đội ngũ quân sự nhưng không diễu hành các trang bị kỹ thuật quân sự. Ba năm sau đó, nước Nga đều tiến hành kỷ niệm cấp quốc gia ngày 9 tháng 5 theo thông lệ này.
Ngày 9 tháng 5 năm 2005, lần đầu tiên, các cựu chiến binh Liên Xô cũ đến dự lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng được bố trí ngồi trên những chiếc ô tô GAZ A-A để diễu qua Quảng trường Đỏ đúng như gần 60 năm trước đó, họ tham gia cuộc duyệt binh lịch sử ngày 7 tháng 11 năm 1941 cũng từ Quảng trường Đỏ và đi thẳng ra mặt trận trong Chiến dịch Moskva. Cũng tại lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng năm 2005, người Nga đã dùng một màn trình diễn sân khấu hoá do hai trung đoàn tân binh tham gia với trang phục đúng như của Hồng quân năm 1941 để tái hiện hình ảnh các đơn vị quân đội Liên Xô chiến đấu đẩy lùi quân Đức khỏi chân thành Moskva 60 năm trước đó. Một số máy bay chiến đấu mới của Nga cũng tham gia các màn trình diễn trên không.
Ngày 9 tháng 5 năm 2008, một lễ kỷ niệm với quy mô hoành tráng nhất kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ được tổ chức tại Quảng trường Đỏ với sự xuất hiện của hàng loạt các vũ khí quan trọng như tên lửa xuyên lục địa RT-2PM "Topol", tên lửa đạn đạo chiến thuật Iskander, hệ thống tên lửa phòng không tầm xa BM-30 Smerch, hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Tor-M1, hệ thống phòng không liên hợp di động 9K22 Tunguska, xe thiết giáp chiến đấu dành cho bộ binh cơ giới BMP-3, pháo tự hành 2S19 Msta, máy bay ném bom chiến lược Tupolev Tu-95, máy bay tiêm kích MiG-29, máy bay tiếp dầu trên không Ilyushin Il-78. Đoàn xe quân sự không chỉ diễu qua Quảng trường Đỏ mà còn diễu binh qua đại lộ Arbat mới, đại lộ hiện đại nhất của Moskva.
Quân đội Hoa Kỳ tham gia diễu binh ngày 9-5-2010 tại Quảng trường Đỏ (Moskva)
Ngày 9 tháng 5 năm 2009, một lễ kỷ niêm với quy mô hoàng tráng không thua kém lễ kỷ niệm năm 2008, toàn bộ cựu chiến binh Nga và các nước SNG trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại được mời đã đến Moskva dự lễ (trừ những người đã quá yếu). Tại cuộc diễu binh này, người Nga tiếp tục giới thiệu các vũ khí mới như các tổ hợp tên lửa phòng không tầm xa S-300S-400 Triumf SAM, tổ hợp tên lửa phòng không tầm ngắn 9K37 Buk, xe tăng chủ lực T-90.
Đối với người dân Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu, trước năm 1991, ngày 9 tháng 5 là một ngày lễ lớn của Liên Xô và các quốc gia xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Một điều thú vị là trong khi nhiều nước Cộng hòa thuộc Liên Xô đã chính thức công nhận ngày 9 tháng 5 là ngày nghỉ lễ, thì ở Nga và Ukraina, ngày này chỉ trở thành ngày nghỉ lễ lần lượt vào năm 1963 và 1965. Nếu như ngày 9 tháng 5 rơi vào một trong hai ngày nghỉ cuối tuần (thứ 7 hoặc chủ nhật) thì người dân được nghỉ bù thêm một ngày khác trong tuần (thường là thứ hai).
Cộng đồng người Nga ở hải ngoại cũng xem ngày 9 tháng 5 là một ngày lễ lớn đối với họ - bất chấp việc ngày này bị đối xử như thế nào ở nơi họ đang sống. Cộng đồng người Nga ở Hoa Kỳ, Canada, Estonia, Latvia, Litva [32] thường tổ chức các cuộc hội họp, mít tinh công khai và thậm chí cả những buổi diễu hành lớn vào ngày này.[33] Trong ngày này, một số kênh truyền hình đa ngôn ngữ của các nước Châu Âu đã phát sóng các bài diễn văn mừng Ngày chiến thắng của Tổng thống Nga và buổi lễ diễu binh trên Quảng trường Đỏ.[34]

Tại các nước SNG và Đông Âu hiện nay

Quân đội Ba Lan tham gia diễu binh kỷ niệm 65 ngày chiến thắng (9-5-2010) tại Quảng trường Đỏ
Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nhân dân Nga và nhiều nước thuộc khối SNG vẫn tiếp tục xem ngày 9 tháng 5 như một ngày quốc lễ. Một số chính phủ không đứng ra tổ chức ngày kỷ niệm này nhưng họ lại ủng hộ hoặc ít nhất cũng cho phép các tổ chức chính trị xã hội đứng ra tổ chức. Theo truyền thống, những buổi lễ mừng chiến thắng vẫn được tổ chức vào ngày 9 tháng 5, cùng thời gian với buổi diễu binh ở Quảng trường Đỏ tại thủ đô Moskva của Nga. Những quốc gia thuộc cộng đồng SNG, một số nước phương Tây và các nước Đông Âu sau đây đã công nhận ngày 9 tháng 5 là ngày Chiến thắng, một số nước cho công dân nghỉ lễ, không coi đó là ngày làm việc:
  • Cộng hoà Armenia công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946;
  • Cộng hoà Azerbaijan công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946;
  • Cộng hoà Belarus công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946 và coi đó không phải là ngày làm việc;
  • Cộng hoà Estoniacông nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946 đến năm 1990;
  • Cộng hoà Gruzia công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946;
  • Cộng hoà Kazakhstan công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1947 và đôi khi kết hợp với hai ngày 10 hoặc 11 là ngày quốc lễ khác.
  • Cộng hoà Kyrgyzstan công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946;
  • Cộng hoà Litva công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946 đến năm 1990;
  • Cộng hoà Latvia công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946 đến năm 1990;
  • Cộng hoà Moldova công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1951;
  • Cộng hoà Tajikistan công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946;
  • Cộng hoà Turkmenistan công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946;
  • Cộng hoà Ukraina công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946 và coi đó không phải là ngày làm việc;
  • Cộng hoà Uzbekistan công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946 đến năm 1988. Đến năm 1999 khôi phục sự công nhận và gọi đó là "Ngày tưởng niệm".
  • Cộng hòa Dân chủ Đức (cũ) và khu vực Đông Berlin công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 1946 đến năm 1990. Sau khi sáp nhập với CHLB Đức chuyển sang kỷ niệm ngày 8 tháng 5.
  • Serbia coi ngày 9 tháng 5 là ngày kỷ niệm nhưng vẫn là ngày làm việc. Hiện nay, việc kỷ niệm chỉ giới hạn trong phủ Tổng thống, Bộ Quốc phòng, quân đội và các cựu chiến binh thời kỳ 1939-1945.
  • Cộng hoà Srpska, một trong hai chủ thể cấu thành nhà nước Bosna và Hercegovina từ ngày thành lập đã công nhận ngày 9 tháng 5 là Ngày Chiến thắng và xem đó là ngày nghỉ.

Tại các nước khác

  • Ngày 8 tháng 5: Các nước Pháp, Đức,... công nhận là ngày lễ tưởng niệm và kết thúc chiến tranh. Slovakia là ngày Deň víťazstva nad fašizmom (Ngày chiến thắng Phát xít). Cộng hòa Séc công nhận là ngày Den vítězství or Den osvobození (Ngày Giải phóng), Na Uy là ngày "Frigjøringsdagen" (Ngày Giải phóng).
  • Ngày 5 tháng 5: Là ngày "Bevrijdingsdag" (Ngày Giải phóng) ở Hà Lan và "Befrielsen" (Ngày Giải phóng) ở Đan Mạch.
  • Israel công nhận ngày 9 tháng 5 từ năm 2000 .

Kỷ niệm Ngày chiến thắng năm 2010 tại Nga

Đài tưởng niệm liệt sĩ vô danh với Ngọn lửa vĩnh cửu dưới chân tường thành Điện Kremli
Lễ kỷ niệm Ngày chiến thắng năm 2010 có quy mô và ảnh hưởng quốc tế lớn hơn tất cả các lễ kỷ niệm trước đó, kể cả các lễ kỷ niệm diễn ra dưới thời Xô Viết. Theo thông lệ, tất cả các cựu chiến binh của cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại ở Nga và các nước SNG đều được mời đến Moskva dự lễ và được ngồi tại hàng ghế danh dự trên lễ đài.[35] 9 giờ 45 phút (giờ Moskva) ngày 9 tháng 5 năm 2010, Tổng thống Nga Dmitry Anatolyevich Medvedev cùng các nguyên thủ quốc gia: bà Thủ tướng Đức Angela Merkel, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào, Quyền tổng thống Ba Lan Bronisław Komorowski, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Nguyễn Minh Triết, Tổng thống Belarus Alexander Lukashenko, Thủ tướng Ukraina Mykola Azarov, Tổng thống Kazakhstan Nursultan Nazarbayev, Thủ tướng Mông Cổ Sükhbaataryn Batbold, Thủ tướng Azerbaijan Artur Rasizade, Tổng thống Turkmenistan Gurbanguly Berdimuhamedow, Thủ tường lâm thời Kyrgyzstan Roza Otunbayeva, Tổng thống Uzbekistan Islam Karimov, Tổng thống Tajikistan Emomalii Rahmon, Tổng thống Armenia Serzh Sargsyan, Thủ tướng Litva Andrius Kubilius cùng đại diện chính phủ các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Ba Lan, Czech, Bulgaria, Latvia, Estonia và nhiều nước Châu Âu khác bước lên lễ đài được dựng trước Lăng Lenin. Đúng 10 giờ (giờ Moskva), lễ kỷ niệm bắt đầu bằng cuộc duyệt đội danh dự của Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoliy Serdyukov theo sự hướng dẫn của Tư lệnh Quân khu Moskva Valery Vasilyevich Gerasimov.
Lãnh đạo các nước dự Lễ kỷ niệm Ngày chiến thắng 9 tháng 5 năm 2010 chụp ảnh lưu niệm trong sân Điện Kremli
Điểm khác biệt đầu tiên của Lễ kỷ niệm Ngày chiến thắng năm 2010 không phải là việc trưng bày các vũ khí hiện đại mới mà là sự tham gia của 102.000 người. 8.729 quân nhân đã tham gia diễu binh. Ngoài quân đội Nga là chủ yếu, còn có quân nhân thuộc quân đội các nước Đồng Minh chống phát xít Hoa Kỳ, Anh, Pháp và các nước SNG đã cùng với Liên bang Nga trong khuôn khổ Liên bang Xô Viết tham gia cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại.[36] Phục vụ trong lễ diễu binh có một dàn quân nhạc với quân số 1.100 người, 112 xe quân sự các loại và 70 máy bay quân sự. Trong cuộc diễu binh, có sự tham gia của Đội lễ binh quân đội Hoàng gia Anh, Đội danh dự quân đội Hoa Kỳ, quân đội Ba Lan, quân đội Mông Cổ, quân đội các nước thuộc Liên Xô cũ: Ukraina, Belarus, Kazakhstan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan, Armenia, Kyrgyzstan, Azerbaijan.[37] Chỉ có duy nhất một nước cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ) không cử đại diện tham gia lễ kỷ niệm này là Gruzia. Lãnh đạo nước này thông báo rằng Nga đã không mời họ.[38] Hải quân Hoa Kỳ cử tàu chiến tham gia lễ kỷ niệm tại Vladivostok. Hải quân Pháp cử tàu chiến tham gia lễ kỷ niệm tại Sevastopol[39]
Diễn văn kỷ niệm Ngày Chiến thắng 9 tháng 5 năm 2010 của Tổng thống Nga Dmitry Anatolyevich Medvedev tại Quảng trường Đỏ
Điểm khác biệt thứ hai của lễ kỷ niệm ngày 9 tháng 5 năm 2010 là lễ đài tuy được đặt trước lăng Lenin nhưng ngôi lăng được che phủ bằng ba tấm bình phong mang biểu tượng quốc kỳ Nga ở hai bên và biểu tượng Ngày chiến thắng ở chính diện. Các tấm bình phong này đã được dựng lên từ ngày 6 tháng 5 khi diễn ra cuộc tổng duyệt lần cuối cùng.
Điểm khác biệt thứ ba là sau cuộc duyệt binh, Tổng thống Liên bang Nga D. A. Medvedev mời các nguyên thủ quốc gia và đại diện lãnh đạo các nước đến dự lễ kỷ niệm cùng đến đặt vòng hoa tưởng niệm tại Đài liệt sĩ vô danh dưới chân tường Điện Kremli. Trong các cuộc kỷ niệm trước đó, nghi thức này diễn ra trước lễ kỷ niệm chính thức tại Quảng trường Đỏ.
Điểm khác biệt cuối cùng là lễ kỷ niệm tại Moskva diễn ra đồng thời với lễ kỷ niệm tại các thành phố lớn ở Nga gồm Sankt-Peterburg, Volgograd, Rostov trên sông Đông, Novorossiysk, Kaliningrad (8 giờ, giờ địa phương) và Vladivostok (6 giờ, giờ địa phương). Các địa điểm ở ngoài nước Nga đồng thời tổ chức lễ kỷ niệm có thủ đô Kiev Ukraina, thủ đô Minsk của Belarus có quân đội Nga tham gia[40] và các địa điểm Seelow, Tượng đài Chiến binh Xô Viết tại Công viên TreptowerNhà Quốc hội Đức đều ở Berlin.[41]
Đây cũng là lễ kỷ niệm có chi phí cao nhất so với tất cả các lễ kỷ niệm Ngày chiến thắng tại Nga từ năm 1991 đến nay. Nhà chức trách Moskva công bố đã chi 205.000.000 rúp (tương đương 6.100.000 USD) cho lễ kỷ niệm này.[42]

Kỷ niệm ngày chiến thắng phát xít Đức ở các nước phương Tây

Tại Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức và nhiều nước phương Tây cũng như một số nước Đông Âu hiện nay, ngày 8 tháng 5 đượs coi là ngày kỷ niệm chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Một số nước như Hà Lan và Đan Mạch lấy ngày 5 tháng 5 để kỷ niệm sự kiện này và gọi là ngày giải phóng.

Ngày tưởng niệm và ngày hoà giải

Lãnh đạo các nước trên thế giới tới dự Lễ kỷ niệm 65 năm ngày chiến thắng phát xít Đức tại Moskva đến đặt hoa tại Đài tưởng niệm Liệt sĩ vô danh dưới chân tường Kremly, ngày 9 tháng 5 năm 2010
Ngày 22 tháng 11 năm 2004, trong phiên họp thường niên, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bàn thảo về việc toàn thế giới tổ chức kỷ niệm 60 năm kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1945-2005), cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất, tàn khốc nhất, làm chết và làm bị thương nhiều người nhất trong lịch sử nhân loại. Các đại biểu đến từ các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc đều nhất trí nhìn nhận rằng Chiến tranh thế giới thứ hai là thảm hoạ chưa từng có trong lịch sử loài người với khoảng 100 triệu người chết (kể cả những người chết do ảnh hưởng gián tiếp của chiến tranh), hàng trăm triệu người chịu thương tật, hàng trăm triệu người mất nhà cửa. Từ nhận thức đó, cần phải xem Ngày Chiến thắng không chỉ là chiến thắng của các cường quốc đã đánh bại chủ nghĩa phát xít mà còn phải xem đó là ngày mà toàn nhân loại tưởng niệm các nạn nhân của cuộc chiến tranh này và là ngày nhân loại hoà giải để vĩnh viễn không bao giờ để xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới mới mà hậu quả của nó có thể dẫn đến sự diệt vong của loài người.[43][44][45][46][47][48][49][50]
Đó là những ý tưởng ban đầu để kết thúc phiên họp toàn thể cuối năm 2004, Đại hội đồng Liên hợp quốc ra một bản tuyên bố chung về kỷ niệm 60 năm kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai và sau đó, là một Nghị quyết về Ngày Tưởng niệm và Ngày Hoà giải. Không chỉ với ý nghĩa là Ngày Chiến thắng, các ngày 8 và 9 tháng 5 còn được coi là Ngày Tưởng niệm và Ngày Hoà giải để tưởng nhớ các nạn nhân đã chết trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai và để thực hiện sự hoà giải giữa các dân tộc. Ngày Tưởng niệm và Ngày Hoà giải này được xác lập bằng Nghị quyết số A/RES/59/26 ngày 22 tháng 11 năm 2004 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc nhân dịp kỷ niệm 60 năm kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai trong năm 2005.[51] Mặc dù không có tính ràng buộc về pháp lý nhưng bằng Nghị quyết № A/RES/59/26, Đại hội đồng Liên hợp quốc nhất trí khuyến cáo các nước thành viên, các tổ chức phi chính phủ và các cá nhân, cùng với việc tổ chức ngày chiến thắng (ngày 8 hoặc ngày 9 tháng 5) cũng nên tổ chức song song lễ tưởng niệm các nạn nhân của cuộc Chiến tranh thứ giới thứ hai.[52]

Kỷ niệm ngày chiến thắng trong văn hoá đại chúng Đông Âu

Các nước thuộc cộng đồng SNG và Châu Âu kỷ niệm ngày Chiến thắng 9 tháng 5 trên các con tem

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ История Великой Отечественной войны Советского Союза 1941-1945 гг. Том 5. Победоносное окончание войны с фашистской Германией. Поражение империалистической Японии (1945 г.) — М.: Воениздат, 1963
  2. ^ Third Reich Victorious. The Alternate History of How the Germans Won the War. — L.: Greenhill Books, 2002
  3. ^ Bản chụp sắc lệnh của Tổng thống Nga Vladimir Putin về việc tổ chức kỷ niệm 60 năm ngày chiến thắng
  4. ^ Gilbert, Martin. The Day the War Ended: May 8, 1945--Victory in Europe. New York: H. Holt, 1995 p. 215.
  5. ^ Hakim, Joy (1995). A History of Us: War, Peace and all that Jazz. New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-509514-6.
  6. ^ Игорь Михайлович Ильинский, Великая Победа: наследие и наследники, Знание. Понимание. Умение, — 2005.
  7. ^ Иван Степанович Конев, Сорок пятый. — М.: Воениздат, 1970.
  8. ^ Kurt von Tippelskirch, Geschichte des Zweiten Weltkrieges. — Bonn, 1954
  9. ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. NXB Tiến Bộ. Moskva. 1985. trang 496-500.
  10. ^ Edward M. Bedessem, Central Europe, CMH Online bookshelves: The U.S. Army Campaigns of World War II. Washington: US Army Center of Military History. (1990) trang 30
  11. ^ Edward M. Bedessem, Central Europe, CMH Online bookshelves: The U.S. Army Campaigns of World War II. Washington: US Army Center of Military History. (1990) trang 32-33
  12. ^ Các văn bản của Hội nghị Tam cường đồng minh chống phát xít từ ngày 4 đến ngày 11 tháng 2 năm 1945 tại Yalta (Liên Xô)
  13. ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 2. NXB Tiến Bộ. Moskva. 1985. trang 518.
  14. ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 2. trang 507
  15. ^ a ă â Dwight Eisenhower, Крестовый поход в Европу. — Смоленск: Русич, 2000 - Глава 21: Вторжение в Германию
  16. ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 2. trang 508.
  17. ^ a ă S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 2. trang 509.
  18. ^ Bernard Montgomery, Мемуары фельдмаршала. — М.: Вагриус, 2006
  19. ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 2. trang 517
  20. ^ Zhukov, Georgy (2002). Memoirs (bằng tiếng Nga). Olma-Press. tr. 329.
  21. ^ Grigori Doberin. Những bí mật của Chiến tranh thế giới thứ hai. NXB Sự thật. Hà Nội. 1986. trang 354.
  22. ^ Крах фашистской агрессии 1939-1945. — М.: Наука, 1980 - Финал - Капитуляция
  23. ^ Голль, Шарль, де. Военные мемуары: Спасение 1944–1946. — М.: ACT, Астрель, Транзиткнига, 2004. (Charles de Gaulle. Sự cứu rỗi 1944-1946. AST dịch và xuất bản. Moskva. 2004. Mục "Tài liệu tham khảo" - "Một số văn bản quan trọng")
  24. ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 3. NXB Quân đội nhân dân. Hà Nội. 1987. trang 361-363.
  25. ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập2. NXB Tiến Bộ. Moskva. 1985. trang 521.
  26. ^ Ширер Уильям А. Крах нацистской империи. — Смоленск.: Русич, 1999. - Глава 14: Последние дни Третьего Рейха (William Arthur Shirer, The Rise and Fall of the Third Reich, 1959)
  27. ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 2. trang 521-524.
  28. ^ Grigori Doberin. Những bí mật của Chiến tranh thế giới thứ hai. NXB Sự Thật. Hà Nội. 1987. trang 355
  29. ^ a ă â 9 Мая 1945 года. — М.: Наука, 1970 - Н. Г. Кузнецов. От Ялты до Потсдама
  30. ^ Grigori Doberin. Những bí mật của Chiến tranh thế giới thứ hai. NXB Sự Thật. Hà Nội. 1987. trang 355-356
  31. ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 2. trang 543-545.
  32. ^ " Estonia: Local Russians Celebrate End Of World War II", Radio Liberty, 9 May 2007
  33. ^ "Russian Orthodox Church in Toronto celebrates 9 May 2005"
  34. ^ "May 9 parade TV-event from Israel"
  35. ^ Remembrance train to visit WWII battlefields ahead of Victory Day.
  36. ^ Russia's Victory Day events to involve 102,000 military personnel
  37. ^ Ukrainian president demands sunshine on Victory Day
  38. ^ Russia says Georgia 'uninvited' to May 9 Victory Day parade in Moscow
  39. ^ French warship visits Russia for Victory Day celebrations
  40. ^ Russian troops to take part in Victory Day parade in Kiev
  41. ^ Russian paratroopers head for Kiev to mark WWII Victory Day
  42. ^ Moscow to spend $6.1 mln on victory parade preparations
  43. ^ Văn kiện Đại hội đồng Liên Hợp quốc - Bản ghi ý kiến của đại biểu Kyrgystan và Áo
  44. ^ Văn kiện Đại hội đồng Liên Hợp quốc - Bản ghi ý kiến của đại biểu Belarus
  45. ^ Văn kiện Đại hội đồng Liên Hợp quốc - Bản ghi ý kiến của đại biểu CHLB Đức
  46. ^ Văn kiện Đại hội đồng Liên Hợp quốc - Bản ghi ý kiến của đại biểu Liên Bang Nga
  47. ^ Văn kiện Đại hội đồng Liên Hợp quốc - Bản ghi ý kiến của đại biểu Nhật Bản
  48. ^ Văn kiện Đại hội đồng Liên Hợp quốc - Bản ghi ý kiến của đại biểu Trung Quốc
  49. ^ Văn kiện Đại hội đồng Liên Hợp quốc - Bản ghi ý kiến của đại biểu Cộng hoà Pháp
  50. ^ Văn kiện Đại hội đồng Liên Hợp quốc - Bản ghi ý kiến của đại biểu Hoa Kỳ
  51. ^ Văn bản Nghị quyết № A/RES/59/26 ngày 22 tháng 11 năm 2004 của Đại hội đồng Liên Hộp quốc
  52. ^ Văn kiện của Đại hội đồng Liên hợp quốc về việc tổ chức kỷ niệm các ngày 8 và 9 tháng 5

Liên kết ngoài

Tiếng Anh

Tiếng Nga

” (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |số báo= (trợ giúp)

No comments:

Post a Comment