Thursday, March 13, 2014

Chào ngày mới 14 tháng 3

Tập tin:Chongqing 005.jpg
CNM365 Chào ngày mới 14 tháng 3 Wikipedia Ngày này năm xưa  Năm mới (tín đồ đạo Sikh), ngày số Pi, White Day tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Năm 313 – Hoàng đế Lưu Thông của Hán Triệu cho người đầu độc giết chết Tấn Hoài Đế Tư Mã Xí, người đang là tù binh của Lưu Thông. Năm 1945 – Trong khi oanh tạc Bielefeld của Đức, không quân Hoàng gia Anh lần đầu tiên sử dụng bom động đất. Năm 1988Hải quân Trung QuốcHải quân Việt Nam xảy ra xung đột tại đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa, kết quả hải quân Trung Quốc chiếm được đá này. Năm 1997Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc Trung Quốc thông qua việc thành lập trực hạt thị Trùng Khánh (hình) từ bốn đơn vị hành chính cấp địa ở đông bộ tỉnh Tứ Xuyên.

Trùng Khánh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trùng Khánh
—  重庆 重 trùng - lại
庆 khánh - mừng
"lại mừng"
  —
Thành phố Trùng Khánh · 重庆市
Từ trên xuống, trái sang: Du Trung, tòa nhà Hội đồng, đường tàu điện, đường sắt cáp treo qua Trường Giang
Từ trên xuống, trái sang: Du Trung, tòa nhà Hội đồng, đường tàu điện, đường sắt cáp treo qua Trường Giang
Vị trí của Trùng Khánh trong bản đồ Trung Quốc
Vị trí của Trùng Khánh trong bản đồ Trung Quốc
Tọa độ: 29°33′30″B 106°34′0″Đ
Quốc gia Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Định cư Khoảng 316 TCN
Chính quyền
 - Bí thư thị ủy Tôn Chính Tài (孙政才)
 - Thị trưởng Hoàng Kì Phạm (黄奇帆)
Diện tích
 - Trực hạt thị 82.400 km² (31.814,8 mi²)
Dân số (2010)
 - Trực hạt thị 28.846.170
 - Mật độ 350,1/km² (906,7/mi²)
 - Dân tộc Hán - 91%
Thổ Gia - 5%
Miêu - 2%
Múi giờ Giờ Trung Quốc (UTC+8)
Mã bưu chính 4000 00 - 4099 00
Mã điện thoại 23
Biển số xe 渝 A, B, C, F, G, H
ISO 3166-2 CN-50
GDP (2011) CNY ~ 1 nghìn tỷ
 - đầu người CNY 34.500
HDI (2008) 0,783 (thứ 18) — trung bình
Cây đặc trưng
Dâu Ficus lacor
Hoa đặc trưng
Camellia (Sơn trà Nhật Bản Camellia japonica)
Website: (tiếng Trung) www.cq.gov.cn
(tiếng Anh) english.cq.gov.cn/
Trùng Khánh
Tên tiếng Trung
Giản thể: 重庆
Phồn thể: 重慶
Bính âm: Chóngqìng
Tên tiếng Tứ Xuyên
tiếng Tứ Xuyên: Cong2qin4
Trùng Khánh (重庆) là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố trực thuộc TW Trùng Khánh được hình thành vào ngày 14 tháng 3 năm 1997 khi nó tách ra từ tỉnh Tứ Xuyên. Đến tháng 11 năm 2010, tổng dân số Trùng Khánh là 28.846.200 người,[1] Trùng Khánh được chia thành 19 khu (quận), 15 huyện, và 4 huyện tự trị.
Giản xưng chính thức của Trùng Khánh là "Du" {渝), nó được Quốc vụ viện phê chuẩn vào ngày 18 tháng 4 năm 1997.[2] Trùng Khánh cũng từng là một thành phố trực thuộc TW của Trung Hoa Dân Quốc, và đóng vai trò là thủ đô thời chiến của chính phủ Quốc dân trong Chiến tranh Trung-Nhật (1937–1945). Giản xưng này bắt nguồn từ tên cũ của đoạn sông Gia Lăng chảy qua Trùng Khánh rồi hợp vào Trường Giang.
Trùng Khánh là một khu vực quan trọng về lịch sử và văn hóa, thành phố cũng là trung tâm kinh tế của vùng thượng du Trường Giang. Trùng Khánh là một trung tâm sản xuất chính và một đầu mối giao thông của vùng Tây Nam Trung Quốc.

Lịch sử

Cổ đại

Tại huyện Vu Sơn của Trùng Khánh, người ta đã phát hiện ra xương hàmrăng của một giống người nguyên thủy, được gọi là người Vu Sơn (Homo erectus wushanensis), cho thấy rằng cách đây từ hơn 2 triệu năm, khu vực Trùng Khánh đã có loài người sinh sống.[3][4] Đến thời đại đồ đá mới, có những hiện vật đồ gốm màu với chủ yếu là màu đỏ khai quật được tại di chỉ Đại Khê (từ 4400 TCN-3300 TCN, cũng ở huyện Vu Sơn), chịu ảnh hưởng rộng rãi của văn hóa Ngưỡng Thiều tại Trung Nguyên. Di chỉ Ngọc Khê/Ngọc Khê Bình ở huyện Phong Đô (cách nay trên 7000 năm) đại diện cho văn hóa của cư dân bản địa Trùng Khánh vào cuối thời kỳ đồ đá mới, tại di chỉ Ngọc Khê/Ngọc Khê Bình đã phát hiện dấu tích của hoạt động chăn nuôi lợn, làm đồ gốm màu và dệt giản đơn, có thể thấy kinh tế Trùng Khánh vào thời kỳ đồ đá mới đã có sự phát triển nhất định. Tại quận Ba Nam đã phát hiện di chỉ thời đại đồ đá mới lớn nhất tại khu vực đô thị của Trùng Khánh, thuộc tính văn hóa của di chỉ này thuộc về văn hóa Ngọc Khê Bình.

Tiên Tần

Bài chi tiết: Ba (nước)
Lãnh thổ nước Ba ban đầu bao gồm các khu vực tại thung lũng Hán Thủy; tuy nhiên sau đó nước Sở đã đẩy lui Ba về phía tây đến bồn địa Tứ Xuyên. Các cuộc xâm lược của Sở đã buộc Ba phải dời đô nhiều lần. Theo Thường Cừ (常璩), các kinh đô hay trung tâm điều hành của Ba bao gồm Giang Châu (Trùng Khánh), Điếm Giang (Hợp Xuyên), và Bình Đô (Phong Đô), kinh đô cuối cùng nằm tại Lãng Trung (閬中).[5] Lãnh thổ nước Ba đông đến Ngư Phục (鱼复, nay là huyện Phụng Tiết), tây đến Phần Tao (焚遭, nay là Nghi Tân), bắc giáp Hán Trung, cực nam là Kiềm Phù, Phục Cái; đại thể tương đương với Trùng Khánh, tây bộ Hồ Bắc, nam bộ Thiểm Tây và đông bộ Tứ Xuyên ngày nay.
Vào thời nhà Thương, mặc dù quân chủ nước Ba mang họ Cơ giống như các quân chủ của vương triều Thương, song giữa hai bên thường xảy ra chiến tranh. Thời Thương vương Vũ Đinh, Thương và Ba rất nhiều lần giao tranh, song bất phân thắng bại, cuối cùng, Vũ Đinh đích thân thống suất cùng nữ tướng Phụ Hảo xuất chinh đánh Ba, huy động dân chúng và gần như toàn bộ binh lực tham chiến. Trong trận đánh với Ba, Phụ Hảo đã dẫn quân bày trận mai phục, chờ quân của Vũ Đinh dánh đuổi quân Ba vào trong vòng mai phục, lập tức xông ra tấn công tiêu diệt, lập được chiến công lẫy lừng, là trận phục kích được ghi chép sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc.[6] Ba thua trận và từ đó hai bên kết oán. Cuối thời Thương, khi Chu Vũ Vương đem quân phạt Trụ Vương của triều Thương, Ba đã xuất binh tham gia liên quân phạt Trụ, là một trong những lực lượng chủ lực góp phần diệt Thương, giữ vai trò nổi bật.[7]

Thời Tần, Hán và Tam Quốc

Cảnh tượng mô tả việc Lưu Bị lâm bệnh tại Bạch Đế thành sau khi bại trận trước Đông Ngô. Lưu Bị yêu cầu các con nhận Gia Cát Lượng làm cha nuôi
Nước Ba liên minh với nước Tần khi Tần đánh nước Thục ở phía tây của Ba. Sau khi Thục bị diệt, năm 316 TCN, Tần ngay lập tức chinh phục cựu đồng minh và bắt quân chủ nước Ba. Đến năm 314 TCN, lãnh thổ nước Ba cũ trở thành Ba quận, là một trong 36 quận của Tần, trị sở Ba quận đặt tại Giang Châu thành (nay là Du Trung, Trùng Khánh). Đối với Ba, ban đầu Tần vẫn để tầng lớp trên của nước Ba cũ tiếp tục cai trị trực tiếp và không tiến hành cưỡng bách người Tần di cư quy mô lớn đến lãnh thổ Ba, song tầng lớp này về sau đã bị đẩy ra ngoài lề khi Tần thực hiện chính sách chia để trị.
Năm 206 TCN, sau khi Lưu Bang trở về đất phong là Hán Trung và Ba Thục, vẫn đặt Ba quận như nhà Tần trước đó. Thời Đông Hán, tăng thêm hai quận Phù Lăng và Ba Đông. Cùng với đó, một thành đã được xây mới ở khu vực nay là Giang Bắc Chủy (江北嘴), gọi là Bắc Phủ thành, thái thú Ba quận từng làm việc ở đó.[8]
Cuối thời Tây Hán, nhân lúc thiên hạ có biến loạn, năm 25, Công Tôn Thuật chiếm cứ Ích châu, xưng đế, đặt quốc hiệu là "Thành Gia", lập quốc đô tại Thành Đô. Công Tôn Thuật đặt tên thành trì xây bên khe Cù Đường là “Bạch Đế thành” (nay thuộc Trùng Khánh), cử nhiều binh sĩ phòng thủ. Trong thời gian làm hoàng đế, Công Tôn Thuật tiến hành phát triển nông nghiệp, xây dựng thủy lợi, đem đến cuộc sống no đủ cho cư dân. Cho nên sau khi Công Tôn Thuật qua đời, nhân dân địa phương xây dựng “đền Bạch Đế” trong Bạch Đế thành để tưởng nhớ ông.[9]
Thời Tam Quốc, Trùng Khánh thuộc nước Thục Hán, hiện trên địa bàn thành phố vẫn còn nhiều di sản của thời kỳ này, trong đó có Bạch Đế thành và Trương Phi miếu. Sau khi Thục Hán thất bại trước Đông Ngô trong trận Di Lăng, Lưu Bị phải lui về Bạch Đế thành rồi mất ở đó.

Thời Lưỡng Tấn và Nam-Bắc triều

Năm 279, khi nhà Tấn tiến hành chiến dịch quyết định nhằm tiêu diệt Đông Ngô, các tướng Đỗ Dự, Vương Tuấn của Tấn đã chỉ huy hạm đội từ Tứ Xuyên xuôi dòng Trường Giang tới Kinh châu. Nhà Tấn sau đó đã chia Ích châu thành ba châu là Lương châu, Ích châu và Ninh châu.[10] Trùng Khánh khi đó thuộc Lương châu. Sau đó khu vực Trùng Khánh thuộc về Tây Tấn, Tiền Tần, Nam triều Tống, Nam triều LươngBắc Chu. Quân chủ nước Cừu Trì là Dương Nan Đương (楊難當) đã tấn công và chiếm giữ Lương châu vào năm 433. Mùa xuân năm 434, tướng Lưu TốngTiêu Tư Thoại (蕭思話) đánh bại quân của Dương Nan Đương và tái chiếm Lương châu. Năm 441, Dương Nan Đương không sẵn lòng từ bỏ thèm muốn với Lương Châu và Ích Châu nên lại tấn công Lưu Tống, thất bại, ông phải chạy trốn đến Bắc Ngụy. Thời gian này, Trung Nguyên đại loạn, dân cư chạy nạn rất nhiều, khiến văn hóa Trung Nguyên tác động lớn chưa từng thấy đến Tứ Xuyên, trong đó có khu vực Trùng Khánh.

Thời Tùy, Đường và Tống

Tượng khắc đá Đại Túc thuộc huyện Đại Túc, bắt đầu được khắc từ thời đầu nhà Đường (650)
Đến năm Khai Hoàng thứ 1 (581) thời Tùy Văn Đế, tại khu vực quanh Du Thủy (tên cũ của sông Gia Lăng), triều đình đổi Sở châu thành Du châu, giản xưng của Trùng Khánh cũng bắt nguồn từ đây. Đến thời Đường, Du châu vẫn tiếp tục tồn tại, thuộc quyền quản lý của Sơn Nam Tây đạo. Đến năm 1102, Tống Huy Tông đổi Du châu thành Cung châu (恭州).[11] Thời Tống, Trùng Khánh thuộc quyền quản hạt của Quỳ Châu lộ, nông nghiệp phát triển và nhân khẩu gia tăng. Khu vực Trùng Khánh khi đó trở thành yếu đạo giao thông giữa Tứ Xuyên với Trung NguyênGiang Nam, thủ công nghiệp cũng phát triển nhanh chóng. Tên gọi Trùng Khánh hiện nay được đặt vào năm 1189, do hoàng tử Triệu Đôn (sau là Tống Quang Tông) của triều Nam Tống theo chế độ quy định của hoàng gia phải đến cư trú tại địa phương [Cung châu], sau khi được phụ hoàng Tống Hiếu Tông nhường ngôi, Quang Tông cho rằng việc mình được phong "Cung vương" là "nhất hỉ khánh", được kế thừa hoàng vị lại là "nhất hỉ khánh" nữa, tức là "lưỡng trùng hỉ khánh", vì thế đổi Cung châu thành Trùng Khánh phủ. Tên gọi Trùng Khánh tồn tại đến ngày nay.

Thời Mông Nguyên

Điếu Ngư thành, nơi quân Mông Cổ-Nam Tống giao chiến ác liệt
Năm 1242, chế trí sử Tứ Xuyên kiêm tri phủ Trùng Khánh là Dư Thủy/Giới (余始/玠) cho xây Điếu Ngư thành (cách khoảng 5 km về phía đông của quận Hợp Xuyên) để chống lại quân Mông Cổ. Mặc dù có quân đội đông đảo tới vài chục nghìn người do đích thân đại hãn Mông Kha chỉ huy nhưng người Mông Cổ không thể chiếm được pháo đài nhỏ này khi đó do Vương Kiên (?-1264) chỉ huy. Vương Kiên thắng nhiều trận, lên tới đỉnh điểm là cái chết của Mông Kha và tướng tiên phong Uông Đức Thần (汪德臣). Dưới thời nhà Nguyên, năm 1362, một lãnh đạo khởi nghĩa nông dân là Minh Ngọc Trân (明玉珍) xưng đế và đặt quốc hiệu Đại Hạ (大夏) tại Trùng Khánh trong một thời gian ngắn.[12] Sau khi Minh Ngọc Trân chết, Minh Thăng (明升) lên kế vị. Đến năm 1371, Chu Nguyên Chương công Thục, diệt nước Đại Hạ. Gia tộc của Minh Thăng bị nhà Minh đưa sang Triều Tiên, được quốc vương Lý Thành Quế phong là "Hoa Thục quân".

Thời Minh

Trùng Khánh phủ vẫn tồn tại trong thời nhà Minh, khi đó phủ này có 3 châu và 17 huyện. Sau khi nhà Minh công chiếm Trùng Khánh, tường thành sau một thời gian dài chiến loạn đã bị phá hoại, vì thế thành Trùng Khánh đã được trùng tu, thành mới có tới 17 cổng thành, thập chí còn nhiều hơn kinh thành Ứng Thiên (nay là Nam Kinh) của triều Minh (nội thành Nam Kinh ban đầu có 13 cửa thành), song trong đó có 8 cổng chỉ là hình thức, không thể khai quan, thường gọi là "cửu khai bát bế".[13] Từ đó, thành Trùng Khánh không có nhiều thay đổi trong hơn 600 năm thời Minh và Thanh. Năm 1621, Vĩnh Ninh tuyên phủ sứ Xa Sùng Minh (奢崇明) mượn danh nghĩa chi viện Liêu Đông, đưa quân chiếm cứ Trùng Khánh, rồi vây đánh Thành Đô. Xa Sùng Minh đặt niên hiệu là Thụy Ứng, định đô tại Trùng Khánh.[14] Lúc đó, nữ danh tướng Tần Lương Ngọc và em trai Dân Bình về Xuyên, nhân dịp đó đã khiển quân đánh bại Xa Sùng Minh vào năm 1623.

Thời Thanh

Sau khi nhà Minh bị quân khởi nghĩa của Lý Tự Thành lật đổ, quân khởi nghĩa của Trương Hiến Trung khi bị Tả Lương Ngọc đánh bại vào năm 1640 đã đưa quân nhập Xuyên. Sau đó lại giao chiến với quân của Tả Lương Ngọc song lần này đã thu được chiến thắng. Trương Hiến Trung sau khi tự xưng “Đại Tây vương”, kiến lập chính quyền nông dân Đại Tây tại Vũ Xương, lại tiến vào Tứ Xuyên để mưu sự lâu dài. Ngày 4 tháng 7 năm 1644, Trương Hiến Trung mệnh cho Lưu Đình Cử giữ Trùng Khánh, tự mình đưa quân đi đánh thủ phủ của Tứ Xuyên là Thành Đô. Ngày 16 tháng 11 cùng năm, Trương Hiến Trung đã xưng đế tại Thành Đô, đặt quốc hiệu là Đại Tây, đổi niên hiệu là Đại Thuận, lấy Thành Đô làm Tây kinh. Để đáp lại sự kháng cự của giới tinh hoa bản địa, Trương Hiến Trung đã cho thảm sát một lượng lớn cư dân bản địa.[15] Không lâu sau, tướng lĩnh nhà Minh là Tằng Anh, Lý Chiêm Xuân, Vu Đại Hải, Vương Tường, Dương Triển, Tào Huân… các nơi nối nhau tụ tập binh mã, tập kích quân đội Đại Tây, giết chết quan viên Đại Tây ở địa phương. Sau khi quân Thanh nhập quan và Nam Minh diệt vong, đầu năm Đại Thuận thứ 3 (1646), nhà Thanh phái Túc thân vương Hào Cách làm Tĩnh Viễn đại tướng quân và Ngô Tam Quế thống soái đại quân Mãn Hán tiến đánh quân đội nông dân Đại Tây. Tháng 7, vì muốn lên Thiểm Tây ở phía bắc nhằm chống lại quân Thanh, Trương Hiến Trung quyết định rời bỏ Thành Đô, tuy nhiên, quân khởi nghĩa đã thất bại.
Thời Minh mạt Thanh sơ, do hậu quả của thảm sát cũng như những năm hỗn loạn sau khi người Mãn nhập quan, dân số Tứ Xuyên lại suy giảm mạnh, cần có một lượng người nhập cư lớn từ các tỉnh khác.[16][17] Do đó, triều đình Nhà Thanh từ đời Thuận Trị đến thời Càn Long đã tiến hành vận động di dân trên quy mô lớn đến Tứ Xuyên, sử sách gọi là "Hồ Quảng điền Tứ Xuyên", kéo dài trên 100 năm.
Năm Quang Tự thứ 2 (1867), Anh Quốc đã lấy cớ sự kiện Margary để cưỡng ép triều đình nhà Thanh ký vào Điều ước Yên Đài, điều ước quy định rằng phải cho phái viên Anh Quốc trú ngụ tại Trùng Khánh phủ của Tứ Xuyên cùng một số điều khoản thương mại khác.[18] Tháng 3 năm 1890, nhà Thanh và Anh Quốc lại tiếp tục có thỏa thuận mới, trong đó quy định Trùng Khánh là một cảng thông thương, thương nhân Anh được quyền dùng thuyền của Trung Quốc hay dùng thuyền Trung Quốc của họ để qua lại giữa Nghi Xương và Trùng Khánh. Tháng 1 năm 1891, hải quan Trùng Khánh chính thức khai quan thu thuế, đánh dấu việc Trùng Khánh chính thức mở cửa.[19] Đến năm 1895, Lý Hồng Chương và đại diện chính phủ Nhật BảnIto Hirobumi đã ký kết hiệp ước Shimonoseki, trong đó quy định Trùng Khánh là một cảng thông thương hiệp ước (cùng với Hàng Châu, Tô ChâuSa Thị).[19] Tháng 2 năm 1898, chiếc thuyền hơi nước đầu tiên đã đến Trùng Khánh.[18]
Từ năm 1897, nhà tư tưởng theo chủ nghĩa cải lương là Tống Dục Nhân (宋育仁) đã sáng lập tờ báo đầu tiên của Tứ Xuyên là "Du báo", truyền truyền tư tưởng duy tân. "Du báo" bị đình bản vào tháng 4 năm 1898. Tác giả cuốn sách Cách mạng quân, Trâu Dung (邹容), được sinh ra tại Trùng Khánh, ngày nay tuyến đường quanh bia giải phóng ở Trùng Khánh được gọi là Trâu Dung lộ.[20] Năm 1903, tổ chức cách mạng đầu tiên của giai cấp tư sản dân tộc tại Tứ Xuyên, Công Cường hội, đã được thành lập tại Trùng Khánh. Năm 1905, Đồng minh hội Trung Quốc đã được thành lập tại Tokyo, Nhật Bản, đại biểu của Công cường hội là Đồng Hiến Chương (童宪章) và Trần Sùng Công (陈崇功) đã gia nhập Đồng minh hội tại Nhật Bản. Sau đó theo lời Tôn Trung Sơn, họ đã trở về Trùng Khánh để thành lập chi bộ Trùng Khánh của Đồng minh hội.[21] Sau khởi nghĩa Vũ Xương vào năm 1911, chi bộ Trùng Khánh của Đồng minh hội đã phát động khởi nghĩa. Đến ngày 23 tháng 11 năm đó đã thành lập chính phủ Thục quân.[22]

Thời Trung Hoa Dân Quốc

Đến ngày 11 tháng 3 năm 1912, hai chính thể quân phiệt Thành Đô và Trùng Khánh hợp nhất, thành lập Tứ Xuyên đô đốc phủ của Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1913, chính phủ quân sự Tứ Xuyên đã phế bỏ các phủ và thiết lập các đạo, khi đó, Trùng Khánh phủ bị phế để thành lập Xuyên Đông đạo, Xuyên Đông đạo gồm tới 36 huyện là Ba, Giang Tân, Trường Thọ, Kì Giang, Nam Xuyên, Vĩnh Xuyên, Vinh Xương, Đồng Lương, Đại Túc, Bích Sơn, Vũ Thắng, Hiệp Xuyên, Giang Bắc, Phụng Tiết, Vu Khê, Vu Sơn, Vân Dương, Vạn, Khai, Đạt, Tuyên Hán, Khai Giang, Cừ, Đại Trúc, Vạn Nguyên, Trung, Phong Đô, Điếm Giang, Lương Sơn, Dậu Dương, Tú Sơn, Kiềm Giang, Bành Thủy, Thạch Chủ, Thành Khẩu, Phù Lăng. Ngoại trừ huyện Đồng Nam ra thì toàn bộ Trùng Khánh ngày nay thuộc Xuyên Đông đạo.
Năm 1921, Lưu Tương đã thiết lập Thương phụ đốc biện xứ tại Trùng Khánh.[23], bổ nhiệm Dương Sâm (楊森) là đốc biện, chuẩn bị thành lập chính quyền thành phố. Khi đó, phạm vi của thành phố Trùng Khánh vẫn chưa được quy định rõ, bao gồm khu vực dân cư huyện thành của Ba, tức bán đảo Du Trung hiện nay và khu vực phụ cận huyện thành của Giang Bắc. Năm 1922, Thương phụ đốc biện sứ được cải thành thị chính công thự. Năm 1926, lại cải thành Thương phụ đốc biện công thự, mở rộng thành phố, bắt đầu tiến hành xây dựng thành thị. Năm 1927, lại đổi Thương phụ đốc biện công thự thành thị chính thính, Phan Văn Hoa (潘文华) nhậm chức thị trưởng, hoạch định khu vực đô thị của Trùng Khánh nằm ở cả đôi bờ của cả hai con sông với chiều dài 30 , song vẫn chưa có ranh giới xác định. Năm 1929, Trùng Khánh tách khỏi Ba huyện, chính thức lập thành phố, trở thành "tỉnh hạt thị", thị trưởng là Phan Văn Hoa.[24]
Từ năm 1916 đến 1935, trước khi được thăng làm "viện hạt thị" (trực thuộc Hành chính viện), người ta đã bảy lần thiết lập tại Trùng Khánh các cơ quan như hành thự tỉnh trưởng Tứ Xuyên, công thự tỉnh trưởng Tứ Xuyên, công tự đốc quân Tứ Xuyên, chính phủ tỉnh Tứ Xuyên. Đương thời, Trùng Khánh là trung tâm chính trị trên thực tế của Tứ Xuyên. Năm 1936, Trùng Khánh trở thành một viện hạt thị do tỉnh Tứ Xuyên nhân danh chính phủ TW quản lý.
Ngày 5 tháng 5 năm 1939, chính phủ Quốc dân Nam Kinh đã ban lệnh thăng Trùng Khánh thành thành phố hạng nhất, viện hạt trị TW. Trùng Khánh trở thành viện hạt thị TW thứ 6 sau Nam Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Thanh ĐảoBắc Bình, địa hạt của Trùng Khánh lúc đó nói chung bao gồm khu trung tâm đô thị của Trùng Khánh hiện nay, tức là các quận Du Trung, Cửu Long Pha, Sa Bình Bá cùng với Giang Bắc, Nam Ngạn. Thành phố Bắc Bội (nay là quận Bắc Bội của Trùng Khánh), ở ngay phía bắc trung tâm đô thị hiện nay của thành phố, được xem là "bồi đô của bồi đô" do có nhiều cơ quan và dân chúng của Trùng Khánh chuyển đến nhằm tránh bom Nhật.[25]
Sau hội chiến Tùng Hỗ, Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc lâm vào thế bị động trước quân Nhật. Tháng 7 năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ban bố "Tuyên ngôn Chính phủ Quốc dân di trú Trùng Khánh", xác định Trùng Khánh là thủ đô thời chiến. Sau đó chính phủ Quốc dân đã triệt thoái đến Trùng Khánh với quân đội, tài sản và các văn kiện quan trọng. Tháng 9 năm 1937, Lưu Tương đã dẫn Xuyên quân tiến vào tô giới Nhật tại Trùng Khánh, tuyên bố thu phục tô giới. Năm 1938, đại sứ quán của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ tại Trung Hoa Dân Quốc cũng di dời đến Trùng Khánh. Năm 1940, Trung Hoa Dân Quốc lại tái khẳng định Trùng Khánh là "bồi đô" (tức thủ đô phụ).[26], tách hoàn toàn khỏi tỉnh Tứ Xuyên. Đến tháng 12 năm 1941, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tại Trùng Khánh tuyên chiến với Đức Quốc Xã, đại sứ quán Đức tại Trùng Khánh đóng cửa.
Từ năm 1937 đến 1944, khi Trùng Khánh là thủ đô thời chiến của Trung Hoa Dân Quốc, đã có hàng triệu người từ các khu vực trung hạ du Trường Giang di cư đến khu vực xung quanh thành phố, những người này được cư dân Trùng Khánh bản địa gọi là "Hạ giang nhân".[27][28] Đồng thời, có đến hàng vạn xí nghiệp, trường học, gần 8 vạn tấn vàng cũng được chuyển đến Trùng Khánh.[29] Trong thời chiến tranh, Trùng Khánh là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Trung Quốc, là trung tâm chỉ huy của chiến tranh chống phát xít tại vùng Viễn Đông.[30] Theo thống kê, máy bay Nhật Bản đã oanh tạc Trùng Khánh tổng cộng 218 lần, với 9.513 lượt phi cơ, sát hại 11.889 người và làm bị thương 14.100 người dân thành phố, phá hủy 17.608 ngôi nhà, trong đó có 30 trường học bị oanh tạc.[31] Nhờ thành phố nằm trong vùng bồn địa có nhiều sương mù nên nhiều cư dân Trùng Khánh đã thoát nạn trong các vụ oanh tạc này. Năm 1945, chiến tranh Trung-Nhật kết thúc, chính phủ Quốc dân trở về Nam Kinh. Tuy nhiên, Trùng Khánh vẫn được chính phủ này quy định là "bồi đô" vĩnh cửu. Sau khi Quốc Dân đảng triệt thoái đến Đài Loan, về phương diện pháp luật, Trung Hoa Dân Quốc vẫn duy trì địa vị bồi đô vĩnh viễn của Trùng Khánh.

Nội chiến Quốc-Cộng

Đàm phán Quốc-Cộng tại Trùng Khánh vào năm 1945. Từ phải sang: Mao Trạch Đông, Vương Thế Kiệt (王世杰), Trương Quần, Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc và đại sứ Hoa Kỳ Patrick Jay Hurley
Sau khi giành được thắng lợi trong chiến tranh Trung-Nhật, để tránh xảy ra nội chiến và tạo lập hòa bình, chính phủ Quốc dân của Quốc Dân đảng và lực lượng Cộng sản đảng đã đàm phán hòa bình trong suốt 43 ngày tại Trùng Khánh, lịch sử gọi là "đàm phán Trùng Khánh".
Ngày 10 tháng 2 năm 1946, tại Giác Trường Khẩu của Trùng Khánh khi cử hành "Lễ kỉ niệm đại hội thành công Hội nghị Hiệp thương Chính trị" đã phát sinh sự kiện náo loạn, Lý Công Phác (李公朴) và Thi Phục Lượng (施复亮) được cho là đã bị đặc vụ Quốc Dân đảng đánh đập. Quách Mạt Nhược (郭沫若), Đào Hành Tri (陶行知), Chương Nãi (章乃器) cùng các nhà báo và hội viên, tổng cộng hơn 60 người đã bị "đả thương". Chính quyền Trung cộng về sau gọi đây là "Huyết án Giác Trường Khẩu", còn phía Trung Hoa Dân Quốc gọi đây là "Sự kiện Giác Trường Khẩu".
Ngày 2 tháng 9 năm 1949, Trùng Khánh xảy ra hỏa hoạn lớn, lửa cháy lên tới 18 giờ, gần 10.000 người thiệt mạng, Quốc Dân đảng cho rằng Cộng sản đảng đã phóng hỏa.[32] Ngày 9 cùng tháng, hỏa hoạn lớn ở rìa nam thành phố đã đốt cháy hơn 80 ngôi nhà. Ngày 11 tháng 10 năm 1949, chính quyền Quốc dân tuyên bố sẽ lần thứ hai triệt thoái đến Trùng Khánh vào ngày 15 tháng 10.
Ngày 1 tháng 11 năm 1949, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc bắt đầu tiến hành chiến dịch Nam Tuyền nhằm công chiếm Trùng Khánh, Ngày 27 tháng 11 năm 1949, Trung ương Quốc Dân đảng trực tiếp lệnh cho cơ quan "Trung thống" tiến hành "tối hậu giải quyết" đối vời tù nhân chính trị Trung cộng giam giữ tại Tra Chỉ động (渣滓洞) và Bạch Công quán (白公馆), hơn 400 tù nhân chính trị Trung cộng bị hành quyết, về sau gọi là "sự kiện 27/11". Ngày 28 tháng 11 năm 1949, chính phủ Quốc Dân triệt thoái từ Trùng Khánh đến Thành Đô, hai ngày sau thì thành phố về tay quân Cộng sản.

Thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Ngày 30 tháng 11 năm 1949, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Trùng Khánh,[33] sau đó Trùng Khánh là nơi đặt Uỷ ban Quân chính Tây Nam (một năm rưỡi sau bị bãi bỏ), là trực hạt thị trung ương, các thể chế khu vực Tây Nam của chính quyền Trung ương cũng đặt tại Trùng Khánh.[33] Tháng 6 năm 1952, sau 2 năm thi công, tuyến đường sắt từ thủ phủ Thành Đô của tỉnh Tứ Xuyên đến trực hạt thị Trùng Khánh đã hoàn thành, đây là tuyến đường sắt đầu tiên được xây dựng sau năm 1949. Tháng 7 năm 1954, chính phủ Trung Quốc bãi bỏ đại khu Tây Nam và hành thự khu Xuyên Đông, thủ phủ của hành thự khu Xuyên Đông là thành phố Bắc Bội được sáp nhập vào Trùng Khánh, đồng thời Trùng Khánh bị hạ cấp thành "tỉnh hạt thị", lại sáp nhập vào Tứ Xuyên. Trong ba năm xảy ra nạn đói lớn (1959-1961), Đạt huyện và Trùng Khánh là những nơi chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất, số người chết đói của hai địa phương là 6,42 triệu người, chiếm 37% tổng dân số Đạt huyện và Trùng Khánh khi đó.[34]
Ảnh quận Du Trung vào năm 2010
Năm 1964, sau khi nổ ra sự kiện vịnh Bắc Bộ, chính phủ Trung Quốc quyết định bắt đầu xây dựng Tam tuyết kiến thiết (xây dựng tuyến phòng thủ thứ ba), trong đó Trùng Khánh là thành phố trung tâm. Trong bốn năm từ 1964 đến 1968, có trên 270.000 công nhân viên chức từ Thượng Hải, Giang Tô và khu vực Đông Bắc di dời đến "Tam tuyến", họ chiếm trên 1/4 số công nhân viên chức tại các xí nghiệp ở Trùng Khánh lúc đó. Lần lượt vào năm 1965 và 1979, hai công trình đường sắt trọng điểm của Tam tuyến kiến thiết là đường sắt Xuyên-Kiềmđường sắt Tương-Du đã thông tuyến. Vào năm 1975, số công nhân viên chức nhập cư tại Trùng Khánh đạt mức cao nhất với tổng số 435.000 người, chiếm 1/4 nhân khẩu thành phố Trùng Khánh lúc đó. Trong Đại Cách mạng Văn hóa, tại Trùng Khánh đã diễn ra nhiều hoạt động bạo lực, các khu công nghiệp bị phá hoại nghiêm trọng, một bộ phận các khu phố trở thành bình địa, hiện nay công viên Sa Bình Bá ở Trùng Khánh là nơi duy nhất tại Trung Quốc còn giữ lại mộ viên Hồng vệ binh.[35] Năm 1982, 8 huyện của địa khu Vĩnh Xuyên được sáp nhập vào Trùng Khánh, khi đó đã bắt đầu có kế hoạch biến Trùng Khánh trở thành một thành phố độc lập.[36] Năm 1992, Trùng Khánh mở rộng đô thị mạnh mẽ ra khu vực đất dự trữ ở vùng ven sông. Tháng 9 năm 1996, chính phủ Trung ương Trung Quốc phê chuẩn việc Trùng Khánh quản lý Vạn Huyện, Phù Lăng và Kiềm Giang của tỉnh Tứ Xuyên.[37]
Ngày 14 tháng 3 năm 1997, tại hội nghị thứ 5 của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc lần thứ VIII, đã thông qua việc hợp nhất các thành phố Trùng Khánh, thành phố Vạn Huyện, thành phố Phù Lăng và địa khu Kiềm Giang thuộc tỉnh Tứ Xuyên thành "trực hạt thị" (thành phố trực thuộc TW) Trùng Khánh. Ngày 18 tháng 6 cùng tháng, chính quyền trực hạt thị Trùng Khánh chính thức hình thành.[38] Ngày 16 tháng 1 năm 2009, Quốc vụ viện đã xác định Trùng Khánh là một khu thí nghiệm cải cách toàn diện đô thị và nông thôn quốc gia.[39]
Thập kỉ đầu tiên của thế kỷ 21, Trùng Khánh bị mang tiếng xấu với tình trạng tội phạm có tổ chức và tham nhũng. Năm 2009, chính quyền thành phố dưới sự lãnh đạo của Bí thư thị ủy Bạc Hy Lai đã tiến hành một cuộc trấn áp lớn, bắt giữ 4.893 người bị nghi là thành phần xã hội đen, 'ngoài vòng pháp luật và các cán bộ tham nhũng, khiến người ta lạc quan rằng thời kỳ này đã kết thúc.[40] Năm 2012, đã xảy ra sự kiện Vương Lập Quân, sau đó là việc Bí thư thị ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai phải rời khỏi chức vụ, nhận được sự quan tâm cao của dư luận trong và ngoài Trung Quốc.[41]

Địa lý

Thiên Sinh Tam Kiều, khu cảnh quan đá vôi tự nhiên ở huyện Vũ Long
Quỳ Môn (夔门), nơi tiến vào Cù Đường Hiệp (瞿塘峡) ở phía đông Trùng Khánh, là "hiệp" đầu tiên trong "Tam Hiệp" của Trường Giang
Trùng Khánh nằm trên khu vực chuyển tiếp giữa cao nguyên Thanh-Tạngđồng bằng trung-hạ du Trường Giang. Trùng Khánh nằm sâu trong lục địa ở phía tây nam Trung Quốc, nằm tại thượng du của Trường Giang, thuộc rìa phía đông của bồn địa Tứ Xuyên. Trùng Khánh giáp với Hồ BắcHồ Nam ở phía đông, giáp với Quý Châu ở phía nam, tây giáp Tứ Xuyên, phía bắc giáp Thiểm Tây. Chiều dài đông-tây tối đa của Trùng Khánh là 470 km, chiều dài bắc-nam tối đa là 450 km, tổng diện tích thành phố là 82.403 km². Trùng Khánh là "trực hạt thị" có diện tích lớn nhất Trung Quốc, giống như một tỉnh nhỏ.[42] Trùng Khánh có một khu vực thành thị lớn, vùng nông thôn lớn, vùng đồi núi lớn, vùng lòng hồ chứa Tam Hiệp lớn, trong đó khu vực đã tiến hành xây dựng tại vùng đô thị lõi có diện tích 647,78 km².[43]
Khu vực đô thị lõi của Trùng Khánh nằm ở nơi hợp lưu giữa sông Gia Lăng và Trường Giang. Trong đó, khu vực quận Du Trung như một bán đảo và vốn chủ yếu có địa hình đồi núi, các quận Du Bắc và Giang Bắc ở phía bắc sông Gia Lăng chủ yếu có địa hình đồng bằng. Toàn bộ Trùng Khánh là khu vực phía đông của bồn địa Tứ Xuyên, các mặt bắc, đông, đông nam và nam của Trùng Khánh lần lượt giáp với Đại Ba Sơn, Vu Sơn, Vũ Lăng SơnĐại Lâu Sơn. Địa mạo chủ yếu của Trùng Khánh là gò đồi và núi non, độ cao thấp dần từ phía bắc xuống đến thung lũng Trường Giang ở phía nam, có một lượng lớn diện tích sườn đồi, vì thế Trùng Khánh còn được gọi là "sơn thành". Địa mạo karst phổ biến tại Trùng Khánh, và có thể thấy các rừng đá, các nhóm đỉnh núi cùng các hang động và thung lũng đá vôi ở nhiều nơi.
Các sông chính chảy qua Trùng Khánh là Trường Giang, sông Gia Lăng, sông Ô, sông Phù, sông Kì, sông Đại Ninh. Trường Giang chảy từ tây sang đông, chiều dài đoạn chảy trên đất Trùng Khánh là 665 km. Trường Giang chảy xuyên qua ba nếp lồi của dãy núi Vu Sơn, hình thành nên Cù Đường Hiệp (瞿塘峡), Vu Hiệp (巫峡) và Tây Lăng Hiệp (西陵峡, thuộc tỉnh Hồ Bắc), tức Trường Giang Tam Hiệp. Trước khi hợp vào Trường Giang, sông Gia Lăng cũng chảy xuyên qua dãy núi Vu Sơn, hình thành Tiểu Tam Hiệp gồm Lịch Tị Hiệp (沥鼻峡), Ôn Đường Hiệp (温塘峡) và Quan Âm Hiệp (观音峡).
Trùng Khánh có khí hậu cận nhiệt đới ẩm chịu ảnh hưởng của gió mùa (Köppen Cfa), và ẩm ướt hầu hết thời gian trong năm. Trùng Khánh được xem là một trong "Tam đại hỏa lô" của Trường Giang, cùng với Vũ HánNam Kinh, mùa hè của thành phố kéo dài và nằm trong số các thành phố nóng nhất và ẩm nhất Trung Quốc, khi nhiệt độ có thể lên đến 33 đến 34 °C (91 đến 93 °F) vào tháng 7 và tháng 8 ở khu vực đô thị. Mùa đông ngắn và có phần ôn hòa, song ẩm ướt và u ám. Vì nằm trên bồn địa Tứ Xuyên nên tổng số giờ nắng trung bình hàng năm của thành phố ở vào hàng thấp nhất Trung Quốc, chỉ với 1055 giờ. Trùng Khánh có trên 100 ngày sương mù mỗi năm [44] nên còn được gọi là "Vụ Đô" (雾都), và có một lớp sương mù dày bao phủ thành phố trong 68 ngày mỗi năm vào mùa xuân và mùa thu.[45]
[ẩn]Dữ liệu khí hậu của Trùng Khánh (Sa Bình Bá, 1971–2000)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Trung bình cao °C (°F) 10.3 12.5 17.4 22.9 26.9 29.4 32.8 33.6 27.7 21.9 16.9 11.6 22,0
Trung bình thấp, °C (°F) 6.0 7.5 11.0 15.3 19.1 22.0 24.6 24.7 20.8 16.4 12.0 7.6 15,6
Giáng thủy mm (inches) 19.5
(0.768)
20.6
(0.811)
36.2
(1.425)
104.6
(4.118)
151.7
(5.972)
171.2
(6.74)
175.4
(6.906)
134.4
(5.291)
127.6
(5.024)
92.4
(3.638)
45.9
(1.807)
24.9
(0.98)
1.104,4
(43,48)
độ ẩm 83 80 76 77 78 80 76 73 80 84 84 85 79,7
Số ngày mưa TB(≥ 0.1 mm) 10.2 9.9 11.3 14.9 15.6 15.7 12.4 10.5 14.4 15.4 12.2 9.5 152,0
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 27.3 34.1 67.4 98.0 108.5 109.7 180.1 196.0 102.4 62.5 43.1 25.8 1.054,9
Nguồn: 中国气象局 国家气象信息中心

Sinh vật

Trùng Khánh có nhiều loại động thực vật, trong đó có trên 6.000 loài thực vật bậc cao, trên 580 loài động vật có xương sống hoang dã trên mặt đất với gần 60 loài được bảo hộ trọng điểm cấp quốc gia. Tính đến cuối năm 2011, toàn thành phố Trùng Khánh có 61,18 triệu mẫu đất dùng cho lâm nghiệp, 48,21 triệu mẫu rừng, tỷ lệ che phủ rừng đạt 39%. Tổng trữ lượng gỗ rừng của Trùng Khánh là 150 triệu m³. Toàn Trùng Khánh có 78 công viên rừng, trong đó có 25 công viên rừng cấp quốc gia. Trùng Khánh có 52 khu bảo hộ tự nhiên cấp thành phố và cấp quốc gia, với diện tích 10,35 triệu mẫu.[46]

Các đơn vị hành chính

Các đơn vị hành chính của Trùng Khánh
   6 quận trung tâm thành phố
   3 quận cận nội thành
   Các quận huyện thuộc địa cấp thị Trùng Khánh trước 1997
   Các quận huyện thuộc địa cấp thị Phù Lăng trước 1997
   Các quận huyện thuộc địa cấp thị Vạn Huyện trước 1997
   Các quận huyện thuộc địa khu Kiềm Giang trước 1997
Trùng Khánh là trực hạt thị có diện tích và dân số lớn nhất của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố được chia thành 38 đơn vị hành chính (3 đơn vị bị bãi bỏ năm 1997, còn Vạn ThịnhSong Kiều đã bị bãi bỏ vào tháng 10 năm 2011[47]), trong đó có 19 khu (quận), 15 huyện, và 4 huyện tự trị.
Khu
Tên Hán Việt Hán tự Trước đây
thuộc về
Ba Nam 巴南区 Trùng Khánh
Bắc Bội 北碚区
Cửu Long Pha 九龙坡区
Du Bắc 渝北区
Du Trung 渝中区
Đại Túc 大足区
Đại Độ Khẩu 大渡口区
Giang Bắc 江北区
Giang Tân 江津区
Hợp Xuyên 合川区
Kiềm Giang 黔江区 Kiềm Giang
Kỳ Giang 綦江区 Trùng Khánh
Nam Ngạn 南岸区
Nam Xuyên 南川区 Phù Lăng
Phù Lăng 涪陵区
Sa Bình Bá 沙坪坝区 Trùng Khánh
Trường Thọ 长寿区
Vạn Châu 万州区 Vạn Huyện
Vĩnh Xuyên 永川区 Trùng Khánh
Huyện
Tên Hán-Việt Hán tự Trước đây
thuộc về
Bích Sơn 璧山县 Trùng Khánh
Đồng Nam 潼南县
Đồng Lương 铜梁县
Điếm Giang 垫江县 Phù Lăng
Phong Đô 丰都县
Phụng Tiết 奉节县 Vạn Huyện
Khai 开县
Lương Bình 梁平县
Vinh Xương 荣昌县 Trùng Khánh
Vũ Long 武隆县 Phù Lăng
Vu Sơn 巫山县 Vạn Huyện
Vu Khê 巫溪县
Vân Dương 云阳县
Thành Khẩu 城口县
Trung 忠县
Huyện tự trị
Tên Hán Việt Hán tự Trước đây
thuộc về
Huyện tự trị dân tộc Miêu & Thổ Gia Bành Thủy 彭水苗族土家族自治县 Kiềm Giang
Huyện trự trị dân tộc Thổ Gia & Miêu Dậu Dương 酉阳土家族苗族自治县
Huyện tự trị dân tộc Thổ Gia Thạch Trụ 石柱土家族自治县
Huyện trự trị dân tộc Thổ Gia & Miêu Tú Sơn 秀山土家族苗族自治县
Quang cảnh bán đảo Du Trung (giữa) và vùng phụ cận năm 2010 nhìn từ Nam Sơn thuộc Nam Ngạn, bên trái ảnh là Trường Giang, bên phải ảnh là sông Gia Lăng. Bờ bắc sông Gia Lăng là Giang Bắc, bờ nam Trường Giang là Nam Ngạn.

Nhân khẩu

Lịch sử dân số
Năm Dân số  %±
1949 1.003.000
1979 6.301.000 528.2%
1983 13.890.000 120.4%
1996 15.297.000 10.1%
1997** 30.220.000 97.6%
2000 30.512.763 1.0%
2004 30.550.000 0.1%
2010 28.846.170 −5.6%
**Dân số năm 1997 tăng bất thường là do việc mở rộng địa giới.
Tính đến cuối năm 2008, số nhân khẩu thường trú tại Trùng Khánh là 28,39 triệu người,[48] tổng nhân khẩu là 32,5332 triệu người,[33], tuy nhiên số nhân khẩu có hộ tịch tại 9 quận đô thị trung tâm (chủ thành) chỉ có 8 triệu người, chiếm khoảng 1/4 dân số toàn thành phố; trong 9 quận này thì chỉ có 6,41 triệu cư dân thành thị, tỉ lệ đô thị hóa đạt 82,7%. Số cư dân đô thị của toàn thành phố Trùng Khánh là 13,6115 triệu người,[49] đạt tỷ lệ đô thị hóa 49,99%.[50] Theo một bài đăng trên Tân Hoa xã vào tháng 7 năm 2010, Trùng Khánh có 32,8 triệu cư dân, trong đó 23,3 triệu cư dân là nông dân. Trong số đó, 8,4 triệu nông dân đã trở thành công nhân di trú, bao gồm 3,9 triệu người làm việc và sinh sống trong các khu vực đô thị của Trùng Khánh.[51]

Dân tộc

Tại Trùng Khánh, người Hán là dân tộc chủ yếu, ngoài ra còn có người Thổ Gia, người Miêu, người Hồi, người Mãn, người Di, người Choang và toàn bộ các dân tộc thiểu số được công nhận khác tại Trung Quốc. Trùng Khánh có 4 huyện tự trị, 1 đơn vị được hưởng chính sách ưu đãi khu vực dân tộc cùng 14 hương dân tộc. Theo kết quả tổng điều tra nhân khẩu toàn quốc năm 2010, tổng số dân của các dân tộc thiểu số Trùng Khánh là 1,937 triệu người (bao gồm 209 người thuộc các dân tộc chưa được công nhận), trong đó đông nhất là người Thổ Gia với 1,398 triệu người, tiếp đến là người Miêu với 482 nghìn người, người Hồi có 9.056 người.[46], chủ yếu phân bố tại khu vực đông nam của Trùng Khánh.

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ chủ yếu tại Trùng Khánh là Quan thoại Tây Nam, trong đó có ba nhánh là tiếng Thành-Du, tiếng Dân Giangtiếng Kiềm Bắc. Tại khu vực đô thị trung tâm cũng như đại bộ phận các huyện khu của Trùng Khánh, cư dân chủ yếu nói phương ngôn Xuyên Đông của nhánh Thành-Du, nhánh Dân Giang chủ yếu xuất hiện tại Giang Tân và Kì Giang, nhánh Kiềm Bắc xuất hiện tại Tú Sơn.[52] Ngoài ra, tại Trùng Khánh còn có một số cộng đồng cư dân rải rác nói tiếng Thổ Quảng Đông (tức tiếng Khách Gia) và tiếng Lão Hồ Quảng (tức tiếng Tương). Bên cạnh tiếng Hán, các dân tộc thiểu số tại Trùng Khánh cũng nói ngôn ngữ của mình như tiếng Miêu, tiếng Thổ Gia, chủ yếu phân bố ở các khu vực nguyên thuộc địa khu Kiềm Giang. Tiếng Miêu ở Trùng Khánh thuộc phương ngôn Kiềm Đông (tiếng Hmu) và phương ngôn Xuyên-Kiềm-Điền (Tây H'Mông); tiếng Thổ Gia ở Trùng Khánh thuộc phương ngôn Bắc bộ.[53]

Tôn giáo

Tại Trùng Khánh có sự hiện diện của Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Đạo giáoHồi giáo, số tín đồ của các tôn giáo là khoảng trên 1,72 triệu người, chiếm khoảng 5% tổng số cư dân thành phố, trong đó, có khoảng 800 nghìn Phật tử, 310 nghìn tín đồ Công giáo, 270 nghìn tín đồ Tin Lành, khoảng 30 nghìn tín đồ Đạo giáo và khoảng 10 nghìn tín đồ Hồi giáo, có 665 người là chức sắc tôn giáo.[54]

Kinh tế

Khu vực phố bộ hành tại quận Nam Ngạn
Khu đô thị tại huyện Phụng Tiết ở đông bắc Trùng Khánh
Khu đô thị cổ Từ Khí Khẩu (磁器口) ở quận Sa Bình Bá
Trùng Khánh được tách khỏi tỉnh Tứ Xuyên và trở thành một đô thị độc lập vào tháng 3 năm 1997[55] với mục đích giúp đẩy nhanh sự phát triển của bản thân thành phố cũng như của khu vực miền tây tương đối nghèo khó của Trung Quốc, thuộc chiến lược Đại phát triển Tây Bộ.[56] Trùng Khánh là một khu vực công nghiệp quan trọng tại miền Tây Trung Quốc,[57] và đang trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng. Do tách biệt về mặt địa lý, Trùng Khánh và tỉnh Tứ Xuyên lân cận vốn có các cơ sở nghiên cứu và phát triển vũ khí quan trọng.[58] các ngành công nghiệp tại Trùng Khánh hiện nay đã đa dạng hóa, song không giống với các khu vực miền Đông Trung Quốc, lĩnh vực xuất khẩu của Trùng Khánh còn nhỏ bé do vị trí nằm sâu trong nội địa. Thay vào đó, các nhà máy tại Trùng Khánh sản xuất các loại hàng hóa nhằm phục vụ người tiêu dùng bản địa như thực phẩm, ô tô, hóa chất, dệt may, máy móc và thiết bị điện tử.
Trùng Khánh là trung tâm sản xuất xe cơ giới lớn thứ ba tại Trung Quốc và đứng đầu về sản xuất mô tô. Năm 2007, thành phố có năng lực sản xuất 1 triệu ô tô và 8,6 triệu mô tô mỗi năm.[59] Các hãng sản xuất ô tô và xe máy tại Trùng Khánh bao gồm Công ty Ô tô Trường An (Changan) và Lực Phàm (Lifan), cũng như nhà sản xuất ô tô khổng lồ Ford của Hoa Kỳ. Trùng Khánh cũng là một trong chín trung tâm sản xuất gang thép lớn nhất và là một trong ba trung tâm sản xuất nhôm lớn nhất tại Trung Quốc. Các nhà sản xuất quan trọng bao gồm Chongqing Iron and Steel Company và Southwest Aluminum (Group) Co., Ltd, là hãng có nhà máy sản xuất nhôm lớn nhất châu Á.[60]
Năm 2011, tổng giá trị nông nghiệp của Trùng Khánh là 84,452 tỉ NDT, tăng trưởng 5,1% so với năm trước. Trong đó, lĩnh vực trồng trọt đạt giá trị 56,077 tỉ NDT, lĩnh vực chăn nuôi đạt giá trị 21,756 tỉ NDT, lâm nghiệp đạt 2,782 tỉ NDT, thủy sản đạt 2,726 tỉ NDT. Trong năm, tổng sản lượng lương thực của Trùng Khánh đạt 11,269 triệu tấn, liên tục bốn năm ở mức trên 11 triệu tấn, bình quân lương thực đầu người chiếm vị trí thứ nhất trong các tỉnh và thành phố khu vực Tây Nam Trung Quốc.[46] Lúahoa quả (đặc biệt là cam) là các nông sản chính của Trùng Khánh.
Trùng Khánh là một trong những thành phố lớn và trung bình có tài nguyên khoáng sản phong phú nhất tại Trung Quốc. Tính đến năm 2011, người ta đã tìm thấy 68 loại khoáng sản tại Trùng Khánh, xác định được trữ lượng của 54 loại. Các loại khoáng sản có ưu thế tại Trùng Khánh là khí thiên nhiên, stronti, than đá, bô xít, bari cacbonat, thạch anh bột, thạch cao, đá vôi để làm xi măng, mỏ muối, địa nhiệt. Ngoài ra, Trùng Khánh còn có tài nguyên khí đá phiến sét, nước khoáng dồi dào.[46] Tuy nhiên, ngành khai mỏ tại Trùng Khánh bị chỉ trích là lãng phí, gây ô nhiễm nặng và không an toàn.
Cũng có kế hoạch hình thành một nhà máy lọc dầu có công suất 10 triệu tấn do CNPC (công ty mẹ của PetroChina) để tinh chế lượng dầu thô nhập khẩu từ đường ống dẫn Trung Quốc-Myanma. Dự án đường ống dẫn này vẫn chưa hoàn thành, được mong đợi sẽ nối từ Sittwe (bờ biển phía tây Myanma) qua Côn Minh tại tỉnh Vân Nam trước khi đến Trùng Khánh[61] và nó sẽ cung cấp các nguồn nguyên liệu từ Myanma, Trung Đôngchâu Phi cho Trung Quốc. Gần đây, Trùng Khánh hướng đến phát triển công nghiệp công nghệ vao và tri thức, kết quả là sự ra đời của các khu phát triển mới như Tân khu Bắc Bộ (北部新区, CNNZ). Chính quyền Trùng Khánh hy vọng rằng với việc thúc đẩy các chính sách kinh tế thuận lợi đối với các lĩnh vực điện tử và công nghệ thông tin, Trùng Khánh sẽ trở thành một trung tâm chế tạo công nghệ cao tạo ra giá trị 400 tỷ NDT mỗi năm, vượt qua ngành công nghiệp ô tô và chiếm 25% giá trị xuất khẩu của thành phố.[62]
Trùng Khánh cũng đã đầu tư rất nhiều vào cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư.[59][63] Mạng lưới đường bộ và đường sắt kết nối Trùng Khánh với phần còn lại của Trung Quốc đã được phát triển thêm và giúp hạ chi phí hậu cần. Hơn nữa, đập Tam Hiệp ở tỉnh Hồ Bắc lân cận là đập lớn nhất thế giới, đập này sẽ không chỉ cung cấp điện cho Trùng Khánh khi hoàn thành mà còn giúp các tàu biển có thể tiếp cận các cảng ven Trường Giang của Trùng Khánh (do tạo ra hồ chứa, tàu sẽ vượt qua đập thông qua các thang nâng tàu).[64] Những cải tiến về cơ sở hạ tầng đã đem đến cho thành phố nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong các ngành khác nhau, từ ô tô đến tài chính và bán lẻ; với các hãng như Ford,[65] Mazda,[66] HSBC,[67] Standard Chartered Bank,[68] Citibank,[69] Deutsche Bank,[70] ANZ Bank,[71] Scotiabank,[72] Wal-Mart,[73] Metro AG[74]Carrefour,[75] cũng như các tập đoàn đa quốc gia khác.
GDP danh nghĩa của Trùng Khánh vào năm 2011 đạt 1001,1 tỉ NDT (158,9 tỉ USD) và tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đạt 16,4%. Tuy nhiên, về tổng thể thì kinh tế Trùng Khánh vẫn tụt hậu so với các thành phố lớn ở ven biển phía đông. GDP đầu người của Trùng Khánh là 34500 NDT vào năm 2011, tăng 15,2% so với năm trước, song chỉ xấp xỉ mức bình quân của cả nước. Cũng trong năm 2011, thu nhập có khả năng chi phối (sau khi đã trả các khoản thuế và phí) của cư dân thành thị tại Trùng Khánh là 20.250 NDT, tăng trưởng 15,5% so với năm trước; thu nhập thuần của cư dân nông thôn là 6480 NDT, tăng trưởng 22,6% so với năm trước.[46] Mặc dù cư dân Trùng Khánh có thu nhập chưa thập cao, song vẫn có sự ủng hộ to lớn của chính phủ TW cho Trùng Khánh nhằm đưa thành phố trở thành một trung tâm kinh tế, thương mại và tài chính của khu vực và biến điều này trở thành một nền tảng để khu vực nội địa phía tây của đất nước có thể phát triển hơn nữa.[76]

Giao thông

đường Hồ Tân Tây ở quận Du Bắc, một quận cận nội thành của Trùng Khánh
Tàu cánh ngầm chạy trên Trường Giang tại Trùng Khánh

Đường sắt

Trùng Khánh có hệ thống đường sắt phát triển,[77] trước đây thuộc quyền quản lý của cục đường sắt Trùng Khánh, song cục này đã bị bãi bỏ sau khi xây dựng đường sắt Bảo-Thành, hiện hệ thống đường sắt của Trùng Khánh thuộc quyền quản lý của cục đường sắt Thành Đô.[78] Trên địa bàn Trùng Khánh có 5 tuyến đường sắt điện khí hóa chính là Thành-Du, Xuyên-Kiềm, Tương-Du, Du Hoài, Toại Du; cùng hai tuyến nhánh là Đạt-Vạn-Lợivành đai vòng ngoài Trùng Khánh. Các tuyến đường sắt khác đã và đang thi công là Lan-Du, Du Lợi, Toại-Du 2, đoạn Trùng Khánh-Phù Lăng của tuyến Du Hoài, vận chuyển hành khách Thành-Du, Nam-Phù, Du-Vạn, Du-Kiềm. Ga Trùng Khánh (Thái Viêm Bá), ga Trùng Khánh Bắc (Long Đầu Tự) và ga Trùng Khánh Tây là những trạm đường sắt chính tại khu vực nội thị của Trùng Khánh. Trong số các ga ở vùng ngoại vi, lớn nhất là các ga Phù Lăng, ga Kiềm Giang và ga Vạn Châu. Tính đến năm 2011, tổng chiều dài đường sắt của Trùng Khánh là 1.342 km, ngoài ra còn có 1.155 km đang được xây dựng. Với việc mở tuyến liên vận quốc tế Du-Tân-Âu, tuyến này đi từ Trùng Khánh đến Tây An, Urumqi rồi vượt biên giới sang Kazakhstan, Nga, cuối cùng tới Duisburg (Đức), toàn hành trình chỉ mất 16 giờ đồng hồ.[46]

Đường bộ

Trùng Khánh là trung tâm giao thông đường bộ của khu vực Tây Nam Trung Quốc; km 0 của tại Trùng Khánh tính từ cầu Triều Thiên Môn.[79] Tuyến đường cao tốc đầu tiên của Trùng Khánh đã thông xe vào năm 1995, đó là tuyến đường cao tốc Thành-Du. Tính đến cuối năm 2011, toàn Trùng Khánh có 1.861 km đường cao tốc trong tổng cộng 118.562 km công lộ. Trùng Khánh có một tuyến cao tốc vành đai trong và một tuyến cao tốc vành đai ngoài khu vực đô thị, mật độ đường cao tốc của Trùng Khánh đứng đầu các tỉnh miền Tây Trung Quốc.[80] Tuy nhiên, vì Trùng Khánh có nhiều núi cao, khi xây dựng các tuyến đường cao tốc sẽ phải kèm theo xây dựng các đường hầm.[81]
Trùng Khánh là một trong số ít thành thị tại Trung Quốc hạn chế nghiêm ngặt việc tư nhân mua xe, phí sử dụng xe cũng như phí cầu đường của Trùng Khánh cũng ở mức đứng đầu tại Trung Quốc, phí đăng ký xe chỉ xếp thứ hai sau Thượng Hải.
Trùng Khánh nằm trên khu vực có nhiều sông, khu vực đô thị của thành phố có Trường Giang và sông Gia Lăng chảy qua, ngoài ra, trung tâm thành thị của đa số các khu huyện còn lại đều nằm ven Trường Giang, sông Gia Lăng hay các chi lưu của chúng, trong địa phận các huyện khu cũng có rất nhiều sông suối nhỏ. Vì thế, Trùng Khánh có mật độ cầu cao hơn nhiều so với các thành phố khác. Do việc xây cầu tại Trùng Khánh phát triển nhanh chóng, thành phố này còn được gọi là "kiều đô Trung Quốc".[82]

Đường thủy

Giao thông đường thủy của Trùng Khánh có được sự tiện lợi đáng kể do có Trường Giang chảy qua. Tính đến năm 2011, toàn Trùng Khánh có khoảng 4.451 km thủy đạo có thể thông hành, sau khi đập Tam Hiệp được hoàn thành và tích nước, các tàu cỡ 10.000 tấn và 5.000 tấn có thể tiến thẳng từ hạ du Trường Giang đến Trùng Khánh (vượt đập bằng thang nâng tàu). Cảng vận chuyển container quốc tế tại Trùng Khánh là cảng vận chuyển nằm ở nội lục lớn nhất Trung Quốc, đồng thời cảng Vạn Châu và cảng Phù Lăng cũng có vị trí trọng yếu trong giao thông đường thủy của Trùng Khánh. Trong năm 2008, lượng hàng hóa vận chuyển theo tuyến Trường Giang chiếm 97% khối lượng và 87% giá trị của hệ thống giao thông đường thủy Trùng Khánh.[83]

Đường không

Trùng Khánh có ba sân bay là sân bay quốc tế Giang Bắc Trùng Khánh, sân bay Ngũ Kiều Vạn Châusân bay Vũ Lăng Sơn Kiềm Giang. Sân bay quốc tế Giang Bắc Trùng Khánh nằm ở quận Du Bắc. Năm 2011, sân bay quốc tế này phục vụ số lượng hành khách đứng thứ 9 tại Trung Quốc.[84] Sân bay này có các đường bay thẳng đến các nơi khác tại Trung Quốc, Đông Nam Á, Trung Đông và châu Âu. Sân bay nằm cách trung tâm thành phố 21 km về phía bắc và là một trung tâm hàng không quan trọng của vùng Tây Nam Trung Quốc.[85] Sân bay quốc tế Giang Bắc Trùng Khánh là sân bay trung tâm của các hãng China Southern Airlines, Chongqing Airlines, Sichuan AirlinesChina West Air của Hainan Airlines. Trùng Khánh cũng là một thành phố trọng tâm của Air China, do đó thành phố có thể kết nối dễ dàng đến mạng lưới quốc tế của Star AllianceSky Team. Sân bay quốc tế Giang Bắc Trùng Khánh hiện có hai đường băng hoạt động song song. Vận chuyển hành hóa bằng đường hàng không cũng đã tăng lên, đặc biệt là trong việc xuất khẩu thiết bị điện tử có giá trị cao, chẳng hạn như máy tính xách tay.[86] Hiện nay, sân bay quốc tế Giang Bắc Trùng Khánh là sân bay duy nhất tại vùng trung và tây Trung Quốc có tuyến đường sắt đô thị chạy từ sân bay nối với hệ thống giao thông của thành phố.[87]

Giao thông công cộng

Tại Trùng Khánh, có ba loại hình giao thông công cộng chính là tàu điện ngầm CRT, đường sắt liên thị, và hệ thống xe buýt ở khắp mọi nơi. Theo kế hoạch đầy tham vọng của chính quyền Trùng Khánh vào năm 2007, thành phố sẽ đầu tư 150 tỉ NDT trong hơn 13 năm để hoàn thành một hệ thống kết hợp bao gồm các tuyến tàu điện ngầm cùng với đường sắt đô thị (monorail). Đến năm 2020, hệ thống này sẽ gồm có 6 tuyến thẳng và 1 tuyến vành đai; tuyến 1 và tuyến 6 sẽ là các tuyến ngầm còn tuyến 2 và 3 sẽ là monorail. Những cải tiến này sẽ tăng thêm cho thành phố 363,5 km đường bộ và đường sắt và thành phố cũng sẽ có thêm 93 ga đường sắt mới.[88]

Văn hóa

Du lịch

Tòa thị chính Trùng Khánh
Là thủ đô lâm thời của Trung Quốc từ năm 1937 đến 1945, thành phố được biết đến nhiều với vị thế là một trong ba trụ sở chính của Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ngoài ra thành phố cũng là một trung tâm chiến lược trong nhiều cuộc chiến tranh khác trong suốt lịch sử Trung Quốc. Trùng Khánh có có nhiều di tích lịch sử chiến tranh, một số trong đó đã bị phá hủy. Các di tích này bao gồm đài kỷ niệm Giải phóng Nhân dân Trùng Khánh (重庆人民解放纪念碑), nằm ở trung tâm thành phố. Đài này từng là công trình cao nhất tại khu vực quanh đó song hiện nay bao quanh nó là rất nhiều các tòa cao ốc trung tâm mua sắm. Ngày nay, đài tưởng niệm này là một biểu tượng của Trùng Khánh. Bên cạnh đó còn có Bảo tàng tướng Joseph W. Stilwell, dành riêng cho tướng "Vinegar Joe" Stilwell, một vị tướng phục vụ trong chiến tranh thế giới lần thứ hai,[89] nghĩa trang không quân tại khu vực Nam Sơn để tưởng nhớ những người thuộc lực lượng không quân Trung Hoa đã bị thiệt mạng trong chiến tranh Trung-Nhật, và Hồng Nham cách mạng kỉ niệm quán (红岩革命纪念馆), một địa điểm ngoại giao của đảng Cộng sản Trung Quốc do Chu Ân Lai đứng đầu trong Chiến tranh Trung-Nhật. Quán này cũng là nơi Mao Trạch Đông đã ký kết "Hiệp định Song Thập (10/10)" với Quốc Dân đảng.[90]
Các địa điểm khác tại Trùng Khánh bao gồm:

Ẩm thực

Nước dùng trong món lẩu Trùng Khánh
Món ăn Trùng Khánh phần lớn là sự pha trộn giữa trường phái ẩm thực Tứ Xuyên và các món đặc sản địa phương. Trung tâm thành phố Trùng Khánh có rất nhiều nhà hàng và quầy hàng thực phẩm. Các đặc sản của Trùng Khánh bao gồm bánh bao hay dưa muối, khác biệt với các phái ẩm thực Trung Hoa khác, các món ăn Trùng Khánh được bày ra chỉ một lần duy nhất do người dân ở đây thường chia phần ăn riêng lẻ cho mỗi người.[99] Một số món ngon của Trùng Khánh là:
  • Lẩu - cách nấu nướng đặc biệt của Trùng Khánh. Bàn trong một nhà hàng lẩu thướng có một nồi ở giữa, các loại thực phẩm sẽ được làm chín theo ý thích của khách hàng trong một nước sốt cay. Ngoài thịt bò, thịt lợn, hay các loại rau, nguyên liệu của món này cũng thường bao gồm cả thậnnão của lợn, ruột vịt, dạ dày .[100]
  • Món cá Giang Đoàn - do Trùng Khánh nằm ven sông Gia Lăng, người ta có thể dễ dàng có cơ hội thưởng thức các loại thủy sản ở nơi đây. Trong số đó, có một loại cá địa phương gọi là cá Giang Đoàn, hay còn có biệt danh là "cá đầu lớn". Danh pháp của "cá Giang Đoàn" là Hypophthalmichthys nobilis[101], tên thông dụng trong tiếng Việt của loài này là cá mè hoa. Người ta thường hấp hoặc nướng loài cá này.[102]
  • Chân lợn nấu với kẹo đá - Một món ăn thông dụng tại gia đình của người Trùng Khánh, khi hoàn tất, món ăn này sẽ có màu đỏ và vị dịu, được mô tả là có dư vị của sự mạnh mẽ và sự ngọt ngào.
  • Thiên chương (千张), một loại kem hình thành khi hớt váng sữa đậu nành. Để làm được món ăn này phải tuân theo các bước cẩn thận. Món này được mô tả là mềm, có mùi thơm và ngọt.[103]

Các trường đại học

Đại học Tây Nam

Tham khảo

  1. ^ “重庆市2010年第六次全国人口普查主要数据公报”. Netease. 3 tháng 5 năm 2011.
  2. ^ http://english.cri.cn/1702/2005-9-8/17@159525.htm Chongqing's Official Abbreviation
  3. ^ “中国最早巫山人”. 资源网. 国土资源部. 6 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2010.
  4. ^ ““中国最早古人类”巫山人遭院士质疑”. 雅虎中国. 19 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2010.
  5. ^ “试论宗姬巴国与廪君蛮夷的关系”. 段渝 四川省社会科学院出版社. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2008.
  6. ^ “Fu Hao - Queen and top general of King Wuding of Shang” (bằng tiếng Anh). Color Q World. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2007.
  7. ^ “论巴族国家的形成”. 重庆三峡学院. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2009.
  8. ^ 重庆教育科学研究院 biên tập (2009). 《重庆历史(修订本·上册)》. 重庆: 西南师范大学. ISBN 978-7-5621-1948-7.
  9. ^ “Chuyện Tam hiệp Trường Giang”. CRI. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2012.
  10. ^ Lịch sử Trung Quốc từ thượng cổ đến Năm đời Mười nước. Học viện quân sự cấp cao. 1992. tr. 93.
  11. ^ “Chongqing's History with the State of Ba”. 6 tháng 12 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publisher-= (trợ giúp)
  12. ^ “Ming Yuzhen Information”. Neohumanism.com. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
  13. ^ 文是之 (11 tháng 7 năm 2009). ““九开八闭”为哪般”. 重庆商报 (重庆: 重庆商报集团). Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2010.
  14. ^ Nicola di Cosmo, Don J. Wyatt. Political Frontiers, Ethnic Boundaries, and Human Geographies in Chinese History. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
  15. ^ “Skeletons of massacre victims uncovered at construction site”. Shanghai Star. 11 tháng 4 năm 2002.
  16. ^ James B. Parsons (1957). “The Culmination of a Chinese Peasant Rebellion: Chang Hsien-chung in Szechwan, 1644-46”. The Journal of Asian Studies 16 (3): 387–400.
  17. ^ Yingcong Dai (2009). The Sichuan Frontier and Tibet: Imperial Strategy in the Early Qing. University of Washington Press. tr. 19–26. ISBN 978-0-295-98952-5.
  18. ^ a b “立德乐:首位驾轮船闯川江 重庆开洋行的外商”. 华龙网. 2009-1012. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2010.
  19. ^ a b “重庆开埠”. 新华网. 新华社. 21 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2010.
  20. ^ “邹容路”. 新浪. 2005-11-3 引自重庆晚报. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2010.
  21. ^ “重庆辛亥革命”. 新华网. 新华社. 21 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2010.
  22. ^ “重庆辛亥革命”. 新华网. 新华社. 21 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2010.
  23. ^ “重庆辛亥革命”. 新华网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  24. ^ “重庆建市”. 新华网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  25. ^ “重庆由来”. 重庆风情网.
  26. ^ “战局迫使国民政府迁都重庆”. 新华网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  27. ^ 张瑾 (2006). “《抗战内迁大移民》”. 《红岩春秋》 第3期.
  28. ^ 刘凤凌 (2009). “《浅谈抗战时期重庆“上下江人”的风俗文化融合》”. 《西昌学院学报:社会科学版》. 第21卷第1期.
  29. ^ “高等院校内迁重庆”. 新华网. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2009.
  30. ^ 唐润明 (2009). “《老照片凸显重庆反法西斯战争远东指挥中心的地位和作用》”. 《红岩春秋》 第3期.
  31. ^ “新闻背景:惨绝人寰的重庆大轰炸”. 重庆旅游信息网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  32. ^ 据《中华民国史事日志》第四册895页
  33. ^ a b c “1949年11月重庆解放”. 中国网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  34. ^ 曹树基 (2005). 大饥荒:1959 - 1961 年的中国人口. 香港时代国际出版有限公司.
  35. ^ “重庆一座中国唯一红卫兵墓园将拆除惹起争议”. 网易.
  36. ^ “重庆成为全国首批计划单列市”. 新华网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  37. ^ “永川地区并入重庆”. 新华网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  38. ^ “1997年6月18日重庆直辖市正式挂牌”. 新华网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  39. ^ 国务院办公厅 (5 tháng 2 năm 2009). “国务院关于推进重庆市统筹城乡改革和发展的若干意见”. 中央人民政府网站. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010.
  40. ^ Chongqing on the mend after crackdown on criminal gangs, SCMP, 5 tháng 10 năm 2009
  41. ^ Vũ Hà. “'Cánh tay phải' Bạc Hy Lai bị án 15 năm tù”. VNExpress. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2012.
  42. ^ “重庆日报评论员:努力把重庆的事情办好”. 重庆日报. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2012.
  43. ^ “自然地理”. 重庆市政府公众信息网. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  44. ^ “Chongqing Municipality”. IES Global. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  45. ^ “Chongqing -- City of Hills, Fog and Spicy Food”. China.com. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  46. ^ a b c d e f “重庆”. 中央政府门户网站. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.
  47. ^ 重庆调整部分行政区划:4区(县)并为2区
  48. ^ “2008年重庆人口发展保持良好态势”. 重庆市政府公众信息网. 6 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
  49. ^ “我市城镇人口已增至1361.35万”. 重庆市政府公众信息网. 3 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
  50. ^ “重庆城镇化率达49.99%”. 重庆市政府公众信息网. 2009-6-7-. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
  51. ^ “China's Chongqing starts household registration reform”. Xinhua News. 2 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2010.
  52. ^ 翟时雨 (2003). “中篇第四节:四川话的分区”. 《汉语方言学》. 西南师范大学出版社. ISBN 7-5621-2942-8/H•49 Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp).
  53. ^ “苗族:特色苗语”. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2010.
  54. ^ “宗教概况”. 重庆民族宗教事务委员会. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
  55. ^ Song Shutao. “Chinese vice premier urges Chongqing to become economic engine for western regions”. Embassy of the People's Republic of China in Australia. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  56. ^ “China urges reform, development of Chongqing municipality”. Xinhua. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  57. ^ “Market Profiles on Chinese Cities and Provinces (hktdc.com)”. Tdctrade.com. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2011.
  58. ^ “CHONGQING MUNICIPALITY(重慶市)”. Australia-China Chamber of Commerce and Industry of New South Wales. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  59. ^ a b Lammie, David. “Critical Eye on Chongqing Pillar of the West”. US-China Business Council. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  60. ^ MacKie, Nick (4 tháng 5 năm 2005). “China's west seeks to impress investors”. BBC News. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2010.
  61. ^ “Asia Times Online: China Business News: China-Myanmar pipeline projects on track”. Atimes.com. 24 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2011.
  62. ^ “China Business News: HP Foxcom Setup Laptop Plants in Chongqing”. The China Perspective. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2011.
  63. ^ “Chongqing Investment Zone Profiles”. Allroadsleadtochina.com. 30 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2011.
  64. ^ “China's Three Gorges Dam”. CNN. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  65. ^ [1]
  66. ^ Mazda in Chongqing
  67. ^ HSBC opens bank in Chongqing
  68. ^ http://www.standardchartered.com.cn/news/2007/pdf_press_20070823.pdf Standard Chartered open a bank in Chongqing
  69. ^ Citibank opens branch in Chongqing
  70. ^ Deutsche Bank opens Chongqing branch
  71. ^ ANZ Bank opens a branch in Chongqing
  72. ^ Scotiabank in China
  73. ^ Wal-Mart reopens Chongqing locations
  74. ^ Multinational Grocery Stores in Chongqing
  75. ^ Chongqing Carrefour Stampede
  76. ^ Innovative City in West China Chongqing (PDF) - Jon Sigurdson and Krystyna Palonka of Stockholm School of Economics, EIJS.
  77. ^ “中长期铁路网规划(2008年调整)”. 铁道部. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
  78. ^ “成都铁路局概况”. 铁道部. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
  79. ^ “重庆零公里标志今日在朝天门广场亮相(图)”. 新浪网. 16 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
  80. ^ “重庆规划5年内高速公路密度达到西部第一”. 搜狐. 24 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
  81. ^ “解读重庆模式”. 南方周末. 29 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2011.
  82. ^ “5项指标 3项完胜 “中国桥都” 花落重庆” (bằng 简体中文). 网易. 2009. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2009.
  83. ^ 中国铁路待破瓶颈 再提成立重庆铁路集团
  84. ^ “2010年全国机场吞吐量排名”. 中国民用航空局. 21 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2012.
  85. ^ CJIA Stats
  86. ^ “Chongqing Sets up Electronics and Software Export Promotion Association”. Chongqing Foreign Trade and Economic Relations Commission. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2012.
  87. ^ Chongqing Airport Profile
  88. ^ “City Transportation”. Chongqing Daily News Group. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2012.
  89. ^ General Joseph Stillwell Museum
  90. ^ Red Rock Village Museum
  91. ^ Chongqing Museum
  92. ^ Great Hall of the People
  93. ^ Dazu Rock Carvings
  94. ^ Thre Natural Bridges
  95. ^ Furong Cave
  96. ^ Fishing Town
  97. ^ Xueyu Cave
  98. ^ Chongqing Zoo Profile and Pictures
  99. ^ Chongqing Dining Overlook
  100. ^ Chongqing Hot Pot & Dining Guide
  101. ^ Bighead Carp, or Jiangtuan Fish
  102. ^ Jiangtuan Fish
  103. ^ Qianzhang

Liên kết ngoài

Hải chiến Trường Sa 1988

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hải chiến Trường Sa (1988)
Thời gian 14 tháng 3, 1988
Địa điểm Đá Gạc Ma, đá Cô Lin, đá Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa
Kết quả * Trung Quốc chiếm đá Gạc Ma. Việt Nam giữ được đá Cô Linđá Len Đao
Tham chiến
Naval Ensign of the People's Republic of China.svg Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc Vietnam People's Navy flag.png Hải quân Nhân dân Việt Nam
Chỉ huy
  • Trần Vĩ Văn /Chen Weiwen/陈伟文, thuyền trưởng 502 Nam Sung (Nanchong)
*Trần Đức Thông, lữ đoàn phó Lữ đoàn 146
*Lê Lệnh Sơn, thuyền trưởng HQ-605
*Vũ Phi Trừ, thuyền trưởng HQ-604
*Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng HQ-505


Lực lượng
3 tàu khu trục gồm:
*Tàu khu trục 502 Nanchong / Nam Sung / 南充, lớp Giang Nam/065 (Jiangnan Class/065)
*Tàu khu trục 556 Xiangtan / Tương Đàm / 湘潭, lớp Giang Hộ II/053H1 (Jianghu II Class/053H1)
*Tàu khu trục 531 Yingtan / Ưng Đàm / 鹰潭, lớp Giang Đông/053K (Jiangdong Class/053K)
3 tàu vận tải gồm:
*HQ-505 (HQ-504 Quy Nhơn tịch thu của HQ VNCH, USS Bulloch County LST-509)
HQ-604, tàu vận tải loại 50 tấn
HQ-605, tàu vận tải loại 50 tấn
Tổn thất
  • 6 chết, 18 bị thương
*HQ-505 hư hỏng nặng
*HQ-604 chìm và HQ-605 chìm[1]
*Hơn 70 chết[2]
*9 bị bắt (sau đó được tha về năm 1991)
*11 bị thương
.
Quần đảo Trường Sa
Hải chiến Trường Sa 1988 là tên gọi của cuộc chiến trên biển Đông năm 1988 khi Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa đưa quân chiếm đóng bãi đá Cô Lin, bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa, do ba bãi đá này không có quân đội đồn trú nên Hải quân Nhân dân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ, đánh trả và cuộc chiến nổ ra vào ngày 14 tháng 3 năm 1988. Phía Việt Nam mất ba tàu vận tải của hải quân Việt Nam, 64 thủy binh Việt Nam đã thiệt mạng. Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ đó Trung Quốc đã chiếm đóng bãi đá Gạc Ma và hai nước cùng cho hải quân ra đóng giữ một số đá ngầm khác mà hai bên cùng tuyên bố chủ quyền.
Trong các tài liệu của Hải Quân Việt Nam, sự kiện này được biết đến với tên gọi CQ-88 (Chủ quyền-88).

Bố trí kiểm soát Trường Sa của các nước

Quần đảo Trường Sa là một nhóm gồm hơn một trăm đảo san hô, cồn cát, rạn san hô (gồm rạn san hô thường và các đảo san hô vòng), bãi cạn và bãi ngầm đang trong tình trạng tranh chấp ở Biển Ðông. Là một phần của các đảo ở biển Ðông, quần đảo Trường Sa được bao quanh bởi những ngư trường lớn và giàu dầu mỏ, khí đốt, hiện vùng mở rộng (diện tích) của nó vẫn còn chưa được biết và đang trong vòng tranh cãi. Việt Nam, Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đều tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo, trong khi Brunei, MalaysiaPhilippines, mỗi nước tuyên bố chủ quyền nhiều phần.
Nhiều nước tham gia cuộc tranh cãi này có quân đội đóng trên từng phần của quần đảo Trường Sa và kiểm soát nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đá chìm khác nhau. Ðài Loan chiếm đảo lớn nhất là đảo Ba Bình. Tháng 2 năm 1995, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm đá Vành Khăn (Mischief Reef), gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị lớn ở Ðông Nam Á, đặc biệt với Philippines. Ðầu năm 1999, những cuộc tranh cãi lại tăng lên khi Philippines tuyên bố rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang xây dựng đồn bốt quân sự trên đá ngầm. Mặc dầu những sự tranh cãi sau đó đã giảm bớt một chút chúng vẫn là một trong những nguyên nhân có thể gây ra một cuộc chiến lớn ở Ðông Á có sự tham gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hay một cuộc chiến nhỏ hơn giữa các nước tuyên bố chủ quyền khác.
Việt Nam hiện nay đang kiểm soát hai mươi mốt đảo, cồn và rạn san hô. Nhóm đảo này được gộp vào thành một huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa. (Xem bài Trường Sa, Khánh Hòa)

Pháp lý chủ quyền

Bằng chứng địa lý

Trường Sa cách lục địa Trung Hoa khoảng 750 hải lí, nên không nằm trong thềm lục địa của Trung Hoa. Hoàng Sa cũng cách Hoa Lục tới 270 hải lí.
Tại bờ biển Việt Nam, thềm lục địa chạy thoai thoải từ dãy Trường Sơn ra Hoàng Sa. Về địa hình, Hoàng Sa là một hành lang của Trường Sơn từ Lý Sơn ra khơi. Đây là những bình nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Năm 1925, nhà địa chất học quốc tế Tiến sĩ Khoa học A. Krempf, Giám Đốc Viện Hải học Đông Dương, sau hai năm nghiên cứu và đo đạc đã lập phúc trình và kết luận: "Về mặt địa chất, những đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam" (Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam)[cần dẫn nguồn].
Tại Trường Sa cũng vậy. Về độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo-cồn-đá-bãi ở Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của thềm lục địa Việt Nam. Tại bãi Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400 m, và tại vùng đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200 m. Bãi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lí và cách lục địa Trung Hoa tới 780 hải lí. Trường Sa cách Việt Nam 220 hải lí và cách Hoa Lục 750 hải lí. Từ Trường Sa về bờ biển Trung Hoa có rãnh biển sâu hơn 4.600 m.

Tranh chấp chủ quyền các nước tại 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa

Không có sự phủ nhận rằng ít nhất từ 1816, dưới đời vua Gia Long, nhà Nguyễn Việt Nam đã chiếm cứ công khai và thực hiện chủ quyền một cách liên tục, hòa bình các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt triều đại nhà Nguyễn. Sau khi chiếm được Đại Nam (tức Việt Nam thời nhà Nguyễn), nước Pháp tiếp tục thực thi quyền chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Bia chủ quyền do người Pháp (nhà nước bảo hộ Việt Nam thời thuộc Pháp), trực tiếp thực thi quyền chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa) dựng năm 1938 có ghi rõ:
République française [Cộng hòa Pháp]
Empire d’Annam [Vương quốc An Nam]
Archipel des Paracels [Quần đảo Hoàng Sa]
1816 -Île de Pattle 1938 [Đảo Hoàng Sa]
Năm 1927, Tàu SS De Lanessan của chính phủ Pháp tiến hành một cuộc khảo sát khoa học trên quần đảo Trường Sa. Năm 1930, chính phủ Pháp tiến hành cuộc khảo sát thứ hai bằng chiếc La Malicieuse, treo cờ Pháp trên một đảo tên là île de la Tempête (có nghĩa là đảo Bão Tố, tức là Trường Sa Lớn). Ngư dân người Trung Hoa có mặt trên đảo nhưng người Pháp cũng không trục xuất họ. Năm 1933, Ba tàu Pháp chiếm quyền kiểm soát chín đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa và tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với quần đảo này. Pháp đưa quần đảo Trường Sa vào thuộc quyền quản lý của xứ Nam Kỳ (Cochinchine) trong Liên bang Đông Dương. Pháp thực thi quyền chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa cho đến thế chiến II, năm 1941 bị Nhật chiếm mất.
Lịch sử Trung Quốc không mang lại bằng chứng nào cho biết họ đã liên tục chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa từ đời Hán Vũ Đế hay ít nhất từ đời Mãn Thanh bản đồ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" (Địa dư toàn đồ tới các tỉnh của Trung Quốc được thực hiện dưới thời nhà Thanh) xuất bản năm 1904 ghi rõ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam, không hề bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa[3]. Năm 1932, Trung Hoa Dân Quốc gửi tới chính phủ Pháp một bản ghi nhớ tranh cãi về chủ quyền của họ đối với Trường Sa, dựa trên bản dịch Công ước Pháp-Thanh 1887 kết thúc Chiến tranh Pháp-Thanh. Tuy nhiên, Trung Hoa Dân Quốc chỉ thực sự đưa quân tới đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1946 sau thế chiến II, đổ bộ xuống phá bỏ các mốc chủ quyền trước đó. Năm 1948, Nội chiến Trung Hoa giữa Trung Hoa Dân Quốc với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc buộc phải rút khỏi quần đảo Trường Sa.
Đế quốc Nhật cũng tranh giành chủ quyền với Pháp về quần đảo Trường Sa, năm 1933 họ đưa ra bằng chứng về việc khai mỏ phosphat của các công dân Nhật. Năm 1939, Nhật tuyên bố ý định đặt quần đảo dưới quyền tài phán của họ.
Năm 1941, Nhật dùng vũ lực chiếm quần đảo Trường Sa và tiếp tục kiểm soát nó tới cuối Thế chiến thứ II, cai quản vùng này như một phần của Đài Loan thuộc Nhật. Một căn cứ tàu ngầm được thiết lập ở đảo Ba Bình. Năm 1951, Nhật BảnHiệp ước San Francisco và chấp nhận từ bỏ mọi quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1945. Sau khi Nhật Bản đầu hàng cuối Thế chiến thứ II, PhápTrung Hoa Dân Quốc tái khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Trung Hoa Dân Quốc đổ quân lên đảo Ba Bình, chiếm giữ đến năm 1948. Từ 1946 đến năm 1948, Pháp gửi tàu chiến tới tuần tra quần đảo Trường Sa nhiều lần, và yêu cầu Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi quần đảo Trường Sa nhưng không tấn công quân Trung Hoa. Các bên chủ chốt hiện nay đang tranh chấp quần đảo Trường Sa thực sự đưa quân đến chiến hữu lâu dài trở lại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa là từ năm 1956.
Ngày 20 tháng 5 năm 1956,[4] (một số nguồn cho là tháng 7 hoặc tháng 10[5]) Đài Loan (tức Trung Hoa Dân Quốc sau năm 1949) quay lại chiếm giữ, xây dựng cơ sở quân sự và kiểm soát đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam Cộng hòa đưa quân ra chiếm lại vào tháng 8 năm 1956 (đã tuyên bố chủ quyền vào tháng 6), nhưng sau đó, nhân dịp lễ Song thập 10/10, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh rút quân khỏi đảo Ba Bình, và Đài Loan kiểm soát đảo cho đến tận ngày nay.
Lần đầu tiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (tức Trung Quốc) chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa (các đảo thuộc nhóm An Vĩnh trong đó có đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm) năm 1956, đến tháng 1 năm 1974 Trung Quốc chiếm được toàn bộ quần đảo này. Trước năm 1988, Trung Quốc chưa chiếm hữu bất cứ một phần nào của quần đảo Trường Sa.
Ngày 7 tháng 7 năm 1951, Trần Văn Hữu, chủ tịch phái đoàn chính phủ Quốc gia Việt Nam (ở thời điểm đó nằm trong Liên hiệp Pháp tức là thuộc sự kiểm soát của nước Pháp) tới dự Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản tuyên bố rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc lãnh thổ Việt Nam. Theo Hiệp định Genève năm 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do có vĩ độ nằm phía Nam vĩ tuyến 17, cái mà được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời, nên thuộc vùng tập trung của chính quyền Quốc gia Việt Nam và quân đội khối Liên hiệp Pháp.
Tháng 4 năm 1956: Việt Nam Cộng hòa kế thừa chính quyền Bảo Đại (tức chính quyền Quốc gia Việt Nam) quản lý quần đảo Hoàng Sa theo đúng công pháp quốc tế, nhưng chỉ chiếm hữu được toàn bộ phần phía Tây của quần đảo này (tức là nhóm Lưỡi Liềm bao gồm đảo Hoàng Sa). Ngày 22 tháng 8 năm 1956: Một đơn vị hải quân Việt Nam Cộng hòa cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá. Đến ngày 22 Tháng 10 thì chính phủ Việt Nam Cộng hòa tuyên bố Trường Sa phụ thuộc tỉnh Phước Tuy[6][7], thực hiện chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa tại quần đảo Trường Sa.
Ngày 19 tháng 1 năm 1974, trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Trung Quốc chiếm phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng hòa. Ngày 20 tháng 1 năm 1974, (ngay sau khi diễn ra trận Hải chiến Hoàng Sa), Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) đã ra bản tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc.[8] Cùng năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa ra tuyên cáo[9] về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa công bố bạch thư[10] về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời tố cáo Trung Quốc tấn công quân lực Việt Nam Cộng hòa để chiếm quần đảo Hoàng Sa vào ngày 20 tháng 1 năm 1974.
Philippines lần đầu tiên tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc năm 1946, thì sự dính líu nghiêm túc của họ chỉ diễn ra vào năm 1956 khi vào ngày 15 tháng 5 công dân Philippines là Tomas Cloma tuyên bố lập ra một nhà nước mới, Kalayaan (Vùng đất tự do). Năm 1968 Philippines gửi quân tới ba đảo để bảo vệ các công dân Kalayaan và tuyên bố sáp nhập nhóm đảo Kalayaan. Năm 1972, Philippines sáp nhập các đảo Kalayaan (tức phần quần đảo Trường Sa) vào tỉnh Palawan của họ.
Năm 1971, Malaysia đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Tới năm 1983, Malaysia chiếm một đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Năm 1984, Brunei thiết lập một vùng đánh cá đặc quyền gồm cả đảo chìm Louisa ở phía Nam quần đảo Trường Sa, nhưng không công khai tuyên bố chủ quyền vùng đó.

Tuyên bố chủ quyền của hai bên tham gia trận chiến

Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra bản "quyết định về hải phận 12 hải lí của Trung Quốc" trong đó có đề cập tới Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó Phạm Văn Đồng có gửi một công hàm cho Chu Ân Lai. Về sau công hàm này (được/bị) phía Trung Quốc diễn giải là sự thừa nhận của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (là một bên không tham gia vào tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa) về chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa[11][12]. Nhưng theo tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á, khi trả lời phỏng vấn của Đài BBC, đã cho rằng cả Công hàm của Phạm Văn Đồng cũng như tuyên bố miệng của Ung Văn Khiêm năm 1956 đều không có sức nặng ràng buộc[12]. Theo Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nhà nước duy nhất kế thừa chủ quyền của Việt Nam từ 2 nhà nước trước đó là Cộng hòa Miền Nam Việt NamViệt Nam Cộng hòa) về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa ngày 7 tháng 8 năm 1979 thì: Sự diễn giải của Trung Quốc về bản công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 như một sự công nhận chủ quyền của phía Trung Quốc trên các quần đảo "là một sự xuyên tạc trắng trợn trên tinh thần và ý nghĩa của bản công hàm chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lí của lãnh hải Trung Quốc". Theo báo Đại Đoàn Kết, một tờ báo chính thống của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì, Bắc Kinh (tức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) đã diễn giải công hàm của Phạm Văn Đồng một cách xuyên tạc, khi nội dung công hàm không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa, không hề tuyên bố từ bỏ chủ quyền với 2 quần đảo này, mà chỉ công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, một hành động ngoại giao hữu nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với Bắc Kinh trong bối cảnh căng thẳng giữa Bắc Kinh với Đài Loan (tức Trung Hoa Dân Quốc) đang gia tăng ở eo biển Đài Loan.
Về phương diện luật pháp quốc tế, Hoàng Sa và Trường Sa, vào thời điểm 1958-1975, không thuộc quyền quản lý của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên chính phủ này không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này. Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa, nên trong tranh chấp 2 quần đảo này vào thời điểm năm 1958 đến năm 1975, lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xem như của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.[13][14][15]
Tháng 7/1951, tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản, Quốc gia Việt Nam tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc lãnh thổ Việt Nam. Tuyên bố này không bị bác bỏ hay bảo lưu ý kiến nào của 51 nước có mặt tại hội nghị. Tháng 4 năm 1950 Pháp trao lại quyền quản lý quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa) cho chính phủ Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo nhưng việc đồn trú vẫn do quân đội Pháp đảm nhiệm, và khi người Pháp rời khỏi Việt Nam sau Hiệp định Genève năm 1954, quyền kiểm soát thuộc về Quân đội Quốc gia Việt Nam và kế tiếp là Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện chủ quyền đóng giữ Trường Sa. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, các lực lượng hải quân của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp quản từ quân đội Việt Nam Cộng hòa cho đến nay.
Ngày 15 tháng 3 năm 1979, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nhà nước duy nhất kế thừa, tất cả các nhà nước tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam trước năm 1976, bao gồm cả 2 nhà nước trước đó là Cộng hòa Miền Nam Việt NamViệt Nam Cộng hòa từng có quyền chủ quyền và tuyên bố chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa) công bố bị vong lục về vấn đề biên giới Việt - Trung, trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trước đó (các năm 1956, 1974). Ngày 28-9-1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới thiệu mười chín tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.[16]

Vị trí và tên gọi

Tên (tiếng Việt) Tên (tiếng Anh) Tên (tiếng Trung Quốc) Vĩ độ Kinh độ
Đá Gạc Ma Johnson South Reef Chigua Jiao / 赤瓜礁 /Xích Qua tiêu 9o 45' B 114o 18' Đ
Đá Cô Lin Johnson North/Collins Reef Guihuan Jiao / 鬼喊礁 /Quỷ Hám tiêu 9o 45' B 114o 14' Đ
Đá Len Đao Lansdowne Reef Qiong Jiao / 琼礁 /Quỳnh tiêu 9o 46' B 114o 22' Đ

Diễn biến

Bản đồ bãi Union Banks, nơi diễn ra trận hải chiến
Trong những tháng đầu năm 1988, lần đầu tiên Hải quân Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số bãi đá thuộc khu vực tại quần đảo Trường Sa, chiếm giữ đá Chữ Thập (31 tháng 1), đá Châu Viên (18 tháng 2), đá Ga Ven (26 tháng 2), đá Tư Nghĩa (Huy Gơ) (28 tháng 2), Xu Bi (23 tháng 3)[17]. Hải quân Việt Nam đưa vũ khí, khí tài ra đóng giữ tại các đá Tiên Nữ (26 tháng 1), đá Lát (5 tháng 2), đá Lớn (6 tháng 2), đá Đông (18 tháng 2), đá Tốc Tan (27 tháng 2), đá Núi Le (2 tháng 3)[17], bước đầu ngăn chặn được hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của hải quân Trung Quốc ra các đảo lân cận. Phía Việt Nam dự kiến Trung Quốc có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và phía đông kinh tuyến 115°.
Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Hải quân Việt Nam xác định: Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để hải quân Trung Quốc chiếm giữ thì họ sẽ khống chế đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ tại quần đảo Trường Sa. Vì vậy, thường vụ Đảng ủy Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao... Thường vụ Đảng ủy Quân chủng giao cho Lữ đoàn Vận tải 125 cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ này.
Trong khi đó, hải quân Trung Quốc sau khi đưa quân chiếm đóng các rạn san hô Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Tư Nghĩa cũng đang có ý đồ chiếm giữ ba đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đầu tháng 3 năm 1988, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên lên 9 đến 12 tàu chiến gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông lớn.
Trước tình hình đó, ngày 31 tháng 3, Tư lệnh Hải quân Việt Nam lệnh cho vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146, các hải đội 131, 132, 134 của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và Lữ đoàn 125 ở Hải Phòng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Bộ tư lệnh Hải quân điều động 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng 1,3,5, Trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam (nay là Học viện Hải quân Việt Nam), nhà máy Ba Son... đến phối thuộc khi cần thiết.
Lúc 19 giờ ngày 11 tháng 3 tàu HQ-604 rời cảng ra đá Gạc Ma để thực hiện nhiệm vụ trong chiến dịch CQ-88 ("Chủ Quyền 88").
Ngày 12 tháng 3, tàu HQ-605 thuộc Lữ 125 do thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn chỉ huy được lệnh từ đá Đông đến đóng giữ đá Len Đao trước 6 giờ ngày 14 tháng 3. Sau 29 tiếng hành quân, tàu 605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14 tháng 3 và cắm cờ Việt Nam trên đá san hô này.
Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đá Gạc Ma và Cô Lin, 9 giờ ngày 13 tháng 3, tàu HQ-604 của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và tàu HQ-505 của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. Phối hợp với hai tàu 505 và 604 có hai phân đội công binh (70 người) thuộc trung đoàn công binh 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do Trần Đức Thông Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy và bốn chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc và biên vẽ bản đồ (thuộc Bộ Tổng tham mưu). Sau khi hai tàu của Việt Nam thả neo được 30 phút, tàu hộ vệ của Hải quân Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma, có lúc đôi bên chỉ cách nhau 500 m.
17 giờ ngày 13 tháng 3, tàu Trung Quốc áp sát tàu 604 và dùng loa gọi sang. Bị uy hiếp, hai tàu 604 và 505 kiên trì neo giữ quanh đá. Còn chiến hạm của Trung Quốc cùng một hộ vệ hạm, hai hải vận hạm thay nhau cơ động, chạy quanh đá Gạc Ma.
Trước tình hình căng thẳng do hải quân Trung Quốc gây ra, lúc 21h ngày 13 tháng 3, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam chỉ thị cho Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đá Gạc Ma, Cô Lin. Tiếp đó Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị cho lực lượng công binh khẩn trương dùng xuồng chuyển vật liệu xây dựng lên đá ngay trong đêm ngày 13 tháng 3. Thực hiện mệnh lệnh, tàu 604 cùng lực lượng công binh trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đá Gạc Ma, tiếp đó lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam và triển khai bốn tổ bảo vệ đá.
Lúc này, Trung Quốc điều thêm hai hộ vệ hạm trang bị pháo 100 mm đến hỗ trợ lực lượng đã đến từ trước, yêu cầu phía Việt Nam rút khỏi đá Gạc Ma. Ban chỉ huy tàu 604 họp nhận định: Trung Quốc có thể dùng vũ lực can thiệp và quyết định chỉ huy bộ đội bình tĩnh xử trí, thống nhất thực hiện theo phương án tác chiến đề ra, quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.
Ngày 14 tháng 3, chiến sự diễn ra tại khu vực các đá Gạc Ma, Cô Lin, và Len Đao.

Đá Gạc Ma

Sáng ngày 14 tháng 3, từ tàu HQ 604 đang thả neo tại Gạc Ma, Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, phát hiện thấy bốn chiếc tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần. Tổ 3 người gồm thiếu uý Trần Văn Phương và hai chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Văn Lanh được cử lên đá bảo vệ lá cờ Việt Nam đang cắm trên bãi.
Phía Trung Quốc cử hai xuồng chở tám lính có vũ khí lao thẳng về phía đá. Chỉ huy Trần Đức Thông ra lệnh cho các thủy thủ từ tàu 604 tiến về bảo vệ bãi để hình thành tuyến phòng thủ, không cho đối phương tiến lên.
6h sáng, Hải quân Trung Quốc thả ba thuyền nhôm và bốn mươi quân đổ bộ lên đá giật cờ Việt Nam. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm và bắn bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương bị bắn tử thương, trước khi chết ông đã hô: "Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân".[18]
Do Hải quân Việt Nam không chịu rút khỏi đá, lúc 7 giờ 30 phút, Trung Quốc dùng hai chiến hạm bắn pháo 100 mm vào tàu 604, làm tàu bị hỏng nặng. Hải quân Trung Quốc cho quân xông về phía tàu Việt Nam. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy quân trên tàu sử dụng các loại súng AK47, RPD, B-40, B-41 đánh trả quyết liệt, buộc đối phương phải nhảy xuống biển bơi trở về tàu.
Hải quân Việt Nam vừa chiến đấu, vừa tổ chức băng bó, cứu chữa thương binh và hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ cờ. Trung Quốc tiếp tục nã pháo, tàu 604 của Việt Nam bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông, thuyền trưởng Vũ Phi Trừ cùng một số thủy thủ trên tàu đã hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đá Gạc Ma.

Đá Cô Lin

Tại đá Cô Lin, 6h, tàu HQ-505 của Việt Nam đã cắm hai lá cờ trên đá. Khi thấy tàu 604 của Việt Nam bị chìm, thuyền trưởng tàu 505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 đang lên bãi, 2 tàu của Trung Quốc quay sang tiến công tàu HQ-505. Khi tàu HQ-505 trườn lên được hai phần ba thân tàu lên đá thì bốc cháy.
8h15, thủy thủ tàu 505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đá, và đưa xuồng đến cứu thủy thủ tàu 604 bị chìm ở phía bãi Gạc Ma ngay gần đó (Cô Lin cách Gạc Ma khoảng 3,5 hải lí)

Đá Len Đao

Ở hướng đá Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, Hải quân Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của Hải quân Việt Nam. Tàu 605 bị bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15 tháng 3, thủy thủ đoàn của tàu bơi về đảo Sinh Tồn.
Thượng uý Nguyễn Văn Chương và trung uý Nguyễn Sĩ Minh tổ chức đưa thương binh và chiến sĩ về tàu 505 (sau khi bị bắn cháy nằm trên đá Cô Lin). Thi hài các chiến sĩ Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Tư, cùng các thương binh nặng được đặt trên xuồng. Số người còn sức một tay bám thành xuồng một tay làm mái chèo đưa xuồng về đến đá Cô Lin.

Kết quả

Trong trận chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988, thiệt hại của Việt Nam bao gồm ba tàu bị bắn cháy và chìm, ba người hy sinh, mười một người khác bị thương, bảy mươi người bị mất tích. Sau này Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam chín người bị bắt, sáu mươi tư người vẫn mất tích và được xem là đã hy sinh.
Trong trận Hải chiến Trường Sa, Học viện Hải quân Việt Nam có hai học viên (Kiều Hồng Lập và Nguyễn Bá Cường) hi sinh trong lúc tham gia thực tập và chiến đấu trên tàu HQ 604, hiện nay vẫn còn lưu giữ hình ảnh tại nhà truyền thống của Học viện.
Nhờ hành động dũng cảm của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ và tập thể tàu HQ-505, tàu Việt Nam nằm trên đá Cô Lin và giữ được bãi đá ngầm này. Trung Quốc chiếm đá Gạc Ma từ ngày 16 tháng 3 năm 1988 và vẫn giữ cho đến nay.
Khoảng một tháng sau trận hải chiến tại Gạc Ma, hải quân Việt Nam đưa ba mươi lăm công binh và bảy thủy binh cùng vật liệu xây dựng bí mật đổ bộ trong đêm lên đá Len Đao xây nhà đánh dấu chủ quyền. Lặp lại kịch bản Gạc Ma, trong ngày Trung Quốc đưa bảy tàu chiến và nhiều xuồng nhỏ bao vây uy hiếp số quân Việt Nam trên đá. Tuy nhiên lần này Việt Nam cho bảy máy bay chiến đấu từ đất liền bay ra phía đá hỗ trợ nên số tàu chiến của Trung Quốc tản ra, đụng độ không nổ ra, phía Việt Nam giữ được đá và hoàn thành việc xây dựng nhà trên đá.
Trong năm 1988, Hải quân Việt Nam đưa quân ra đóng giữ tiếp mười một bãi đá ngầm khác. Ngày 17 tháng 10, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký văn bản 19/NQ-TƯ về việc bảo vệ khu vực bãi ngầm trong thềm lục địa phía nam (khu DK1). Ngày 5 tháng 7 năm 1989, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 180UT về việc xây dựng cụm dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (gọi tắt là DK1), xác định lại chủ quyền Việt Nam đối với khu vực thềm lục địa này. Từ tháng 6 năm 1989, Hải quân Việt Nam bắt đầu đóng giữ các bãi đá ngầm: Tư Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Dương, Ba Kè.[17]

Giải thích của phía Trung Quốc

Theo phía Trung Quốc thì trong khi các tàu của họ đang bỏ neo để yểm trợ cho một nhóm nghiên cứu thăm dò mỏ dầu ở đây thì Hải quân Việt Nam nổ súng tấn công, vì thế hải quân Trung Quốc "bắt buộc phải tự vệ". Khi hạm đội Trung Quốc di chuyển tới Trường Sa, Trung Quốc lấy danh nghĩa đưa phái đoàn khoa-học Liên Hiệp Quốc đi khảo sát. Sau này Chính phủ Trung Quốc tuyên bố rất tiếc là biến cố đã xảy ra. Về phía Liên Hiệp Quốc thì cho rằng họ không có công tác khảo sát nào ở Trường Sa.[19] Theo phía Trung Quốc, chủ trương ban đầu của họ là chỉ chiếm đóng các đảo còn bỏ hoang, chứ không tranh chấp các đảo có lực lượng nước ngoài chiếm đóng từ trước.

Bất chấp luật lệ chiến tranh

Theo các báo của Việt Nam thì khi tàu của Việt Nam bị đánh đắm thì tàu chiến Trung Quốc chặn không cho tàu của Hội Chữ thập đỏ đến cứu. Đây là một sự vi phạm những điều luật cơ bản nhất về chiến tranh của luật pháp quốc tế[20].

Tưởng nhớ

Phía Việt Nam

Lễ tưởng niệm các chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam hy sinh trên quần đảo Trường Sa
Nhiều năm sau, báo chí chính thống của Việt Nam vẫn đưa tin các cuộc tưởng niệm về các chiến sỹ đã hy sinh trong trận chiến bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, khi người dân vớt được bốn bộ hài cốt nghi là liệt sỹ hải quân Việt Nam hy sinh trong trận chiến đấu bảo vệ đá Gạc Ma (14-3-1988) thì cũng đã được Quân chủng Hải quân dùng phương tiện hiện đại là xác định ADN đối chiếu với thân nhân sáu mươi tư liệt sỹ và sau đó chôn cất hài cốt các liệt sỹ tại đất liền cùng làm lễ tưởng niệm tại đoàn M29 [21]
Trong các chuyến tàu ra quần đảo Trường Sa của Hải quân Nhân dân Việt Nam hiện nay thường tổ chức tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh trong sự kiện CQ-88 với diễn văn, thắp hương, mặc niệm và thả hoa xuống biển.[22]

Phía Trung Quốc

Trung Quốc cho rằng đây là đất của họ bất kể tính chính xác của luật pháp quốc tế và cũng không quan tâm tới quá trình xác lập chủ quyền của họ tại Trường Sa là có hay không, điều này ngày càng lộ rõ qua đường chín đoạn mà phía Trung Quốc coi là của họ. Đa phần dư luận Trung Quốc vẫn cho rằng cuộc chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988 là chính đáng, thể hiện tinh thần dân tộc của đất nước Trung Hoa.

Các sự kiện có liên quan

Trong suốt thời gian xảy ra chiến sự, Hải quân Liên Xô đóng ở Cam Ranh đã không hề can thiệp, mặc dù giữa Việt Nam và Liên Xô có ký riêng Hiệp ước Liên minh Quân sự Đồng minh song phương (tháng 11-1978) trong đó ghi rõ là Liên Xô sẽ hỗ trợ Việt Nam hết sức mình về các mặt kinh tế, văn hóa và quốc phòng [23]. Sự việc này được ví von giống như trường hợp của Việt Nam Cộng hòa trong sự kiện Hoàng Sa 1974, khi Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ đóng tại Phillipines chỉ hỗ trợ về thông tin tình báo và không có bất cứ hành động thiết thực nào để hỗ trợ hạm đội Việt Nam Cộng hòa giao chiến với Trung Quốc[24], thậm chí từ chối cả việc cứu những thủy thủ Việt Nam Cộng hòa của tàu HQ-10 đang trôi dạt trên biển[25]. Tháng 5 năm 1988, hai tháng sau cuộc hải chiến này, một nghị quyết mật của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam điều chỉnh cơ bản chiến lược đối ngoại từ dựa vào Liên Xô sang "đa phương hóa".[23]
Vào tháng 4 năm 1988, Trung Quốc cũng đã thông qua một nghị quyết thành lập tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm cả Hoàng SaTrường SaViệt Nam đã khẳng định chủ quyền.
Năm 1994, Trung Quốc lại có hành động tương tự trên ở đá Vành Khăn do Philippines kiểm soát. Philippines chỉ đưa ra phản đối chính trị chứ không có động thái quân sự nào. Theo Henry L. Stimson Center, hải quân Philippines quyết định tránh đối đầu vì thấy kinh nghiệm tranh chấp năm 1988 giữa Trung Quốc và Việt Nam.[26]

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ "Secrets of the Sino-Vietnamese skirmish in the South China Sea", WENWEIPO.COM LIMITED., March 14, 1988
  2. ^ FACTBOX-The South China Sea's disputed maritime borders Reuters
  3. ^ Bản đồ Trung Quốc năm 1904 không có Hoàng Sa, Trường Sa
  4. ^ Nguyễn Nhã, tài liệu dẫn ở phần Tham khảo chung
  5. ^ Tuổi Trẻ; ngày 31 tháng 1 năm 2008
  6. ^ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh:Nxb Trẻ, 2008, tr. 110
  7. ^ Chemilier Gendreau, Monique. Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands. The Hague: Kluwer Law International, 2000. tr 43
  8. ^ Một số câu hỏi - đáp về biển, đảo Việt Nam - Biển đảo Việt Nam
  9. ^ Tuyên cáo của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 14 tháng 02 năm 1974
  10. ^ White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands, Republic of Vietnam, Ministry of Foreign Affairs, Saigon, 1975
  11. ^ “International Recognition Of China's Sovereignty over the Nansha Islands”. Ministry of Foreign Affairs, the People's Republic of China. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  12. ^ a b Về lá thư của Phạm Văn Đồng năm 1958, BBC tiếng Việt, ngày 24 tháng 1 năm 2008
  13. ^ Bài Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trên báo Đại Đoàn Kết, ngày 27/7/2011.
  14. ^ Đăng lại trên Vietnamnet ngày 20/7/2011.
  15. ^ Bài Báo Việt Nam nói về Công hàm Phạm Văn Đồng, trên BBC Vietnamese ngày 20/7/2011.
  16. ^ Bộ ngoại giao CHXHCN Việt Nam (xuất bản tháng 10, năm 1979). Văn kiện: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua (bằng tiếng Việt). Cờ Việt Nam Việt Nam: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật. tr. 72.
  17. ^ a b c Lịch sử cục tác chiến, NXB Quân đội nhân dân, 2005. Chương III - GIAI ĐOẠN BA (từ tháng 3 năm 1979 đến 1989)
  18. ^ "Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam 1955-2005", NXB Quân đội nhân dân, 2005
  19. ^ "South China Sea Treacherous Shoals", tạp chí Far Eastern Economic Review, 13 Aug 92: 14-17
  20. ^ Tranh chấp Trường Sa - Hoàng Sa: Giải quyết cách nào? 7 tháng 1 năm 2008 (GMT+7)
  21. ^ Truy điệu, an táng 1.009 hài cốt liệt sĩ tù binh Phú Quốc 22/12/2008
  22. ^ Tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh tại quần đảo Trường Sa
  23. ^ a b Việt Nam làm gì để tự vệ?, Tiến sĩ Alexander Vuving, BBC online, 19/2/2009
  24. ^ Trận hải chiến Hoàng Sa, BBC, 15 Tháng 12 2007 - Cập nhật 12h46 GMT
  25. ^ Nhìn lại kinh nghiệm đối lập thời VNCH, Trần Bình Nam, BBC, thứ năm, 14 tháng 6, 2012
  26. ^ Cronin, Richard P. (4 tháng 2 năm 2010). “China’s Activities in Southeast Asia and the Implications for U.S. Interests”. www.uscc.gov.

Tham khảo

  • Lịch Sử Hải Quân Nhân Dân Việt Nam 1955-2005.. Nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân. 2005. [1]
  • Mark A. Ryan (2000). Chinese warfighting: The PLA experience since 1949.. M E Sharpe Inc. ISBN 9780765610874.
  • Biển Đông Dậy Sóng - L.S. Nguyễn Hữu Thống

Liên kết ngoài

No comments:

Post a Comment